Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

12. Tự Thắng Nhờ Hiểu Biết Sự Thật

07/02/201115:31(Xem: 3280)
12. Tự Thắng Nhờ Hiểu Biết Sự Thật

ĐỨC PHẬT
VÀ HÀO QUANG CHÂN LÝ

Dịch giả: TT Thích Giải Thông-Phỏng dịch theo bản tiếng Anh The light of truth của Giảng sư
LOKANATHA Do The Singapore Maha Bodhi School xuất bản

TỰ THẮNG NHỜ HIỂU BIẾT SỰ THẬT

Phật Giáo là tôn giáo khoa học, và vì là tôn giáo khoa học nên phải biết phân tích. Như quý vị đã biết, trước kia tôi là một nhà hóa học, và ngành dược thuộc khoa học phân tich. Trớ trêu thay từ tri kiến phân tích dược học, tôi tìm đến Phật Giáo vốn là tôn giáo phân tích. Trước kia tôi quen phân tích các tinh thể sunfat đồng, nhưng giờ đây tôi đang phân tích những tinh thể phức tạp của chính mình, bởi vì nếu bạn hiểu chính mình tức là bạn hiểu toàn bộ thế giới.

Con người là gì? Con người là một hợp thể 5 yếu tố (5 uẩn) xuất phát từ tham ái, bắt rễ nơi vô minh. Tất cả 5 yếu tố đều mang tính chất vô thường, khổ, vô ngã; có nghĩa là nó không có một cái TA kéo dài. Tất cả các pháp (vạn vật) đều tạm bợ ngắn ngủi. Cái gì thoáng qua đều vượt ngoài tầm kiểm soát, và cái gì vượt ngoài tầm kiểm soát của chúng ta phải được gọi là không (sự trống rỗng), không có một cái ta bất diệt.

Đây là một khám phá của Đức Thế Tôn phù hợp với sự khám phá của tâm lý hiện đại rằng đời sống là một sự trôi chảy, tất cả đều biến đổi, không có gì tồn tại mãi trên vũ trụ này. Mỗi thứ dều trôi chảy như một dòng sông. Herakleitos–một đại triết gia đã nói: "mọi sự đều trôi chảy". Đức Phật nói: "Các pháp đều vô thường".

Con người là một ngọn lửa đang bừng cháy, không bao giờ giống nhau trong hai khoảnh khắc liên tục. Đời sống là một tiến trình của sự liên tục trở thành. Sự biến đổì ám chỉ cái chết và tái sinh liên tục. Một ngọn lửa không bao giờ giống nhau trong hai khoảnh khắc liên tục và con người cũng vậy. Cho dù sức đốt thể chất hay sức nóng tâm linh, con người chỉ là một tiến trình đang bừng cháy.

a) Cuộc đời là gì? Cuộc đời như giấc mộng. Bằng chứng nào? Quá khứ ở đâu? Ta ở nơi nào? Quá khứ đã qua giống như giấc mộng rỗng không; tương lai thì chưa đến, ngay khi ta nói hiện tại ở đây thì nó đã trở thành quá khứ qua rồi! Thế nên chúng ta không có mặt ở quá khứ, không có mặt ở tương lai. Vậy thì chúng ta có mặt ở đâu? Có phải ở nơi hiện tại ngắn ngủi tạm bợ? Nơi niệm tưởng thoáng qua? Nhưng chắc chắn là không thể có một bản ngã thường hằng trong niệm tưởng thoáng qua. Do đó cuộc đời là không–sự trống rỗng. Và được sống thường hằng vĩnh viễn trong cái không này, đó là đại hồng ân, vì nơi đây tất cả khổ lụy đều vĩnh viễn dứt hẳn. Hãy nhớ rằng con người chỉ là một niệm tưởng thoáng qua và không bao giờ hiện hữu cái ngã hay cái ta nào tồn tại trong niệm tưởng ngắn ngủi đó. Những niệm tưởng đến và đi liên tục, không bao giờ giống nhau trong hai khoảnh khắc liên tiếp. Nếu một người trong khi đang nằm mơ mà biết mình đang mơ, vị đó hoặc là tỉnh giấc, hoặc là cười thầm hình thái mơ mộng. Giấc mơ xấu không làm vị đó sợ sệt chút nào.

b)Cuộc đời hoàn toàn là một hiện tượng tâm linh. Giấc mơ là một hiện tượng tâm linh. Do đó đời là một giấc mộng, cuộc đời hoàn toàn là một hiện tượng tâm linh, vì vậy cuộc đời là một giấc mộng. Khi chúng ta đang nằm mộng, đặc biệt nếu giấc mơ xảy ra có tính cách khủng khiếp, chúng ta hoảng sợ và sự đau khổ tâm linh mà ta chịu đựng trong giấc mơ không khác gì sự đau khổ có thật trong tình trạng ta đang sống. Bởi vì cuộc đời hoàn toàn là hiện tượng tâm linh, thế nên chúng ta đau khổ trong giấc mơ do sự kiện chúng ta nghĩ là giấc mơ có thật. Tương tự như vậy, khi một vị Thánh đạt được đỉnh cao tu tập, vị Thánh đó thức tỉnh từ cơn ác mộng của cuộc đời và phấn khởi thấy rằng những gì mình tưởng là đúng, là thật thì chủ yếu chỉ là một giấc mơ hư ảo và khi đã chứng minh được sự kiện này bằng cách phân tích cuộc đời trong những kỳ hạn quá khứ và tương lai.

Con mắt không bao giờ thỏa mãn khi thấy, cũng vậy, tai không bao giờ thỏa mãn khi nghe. Thấy và nghe với lòng đam mê thì chẳng khác gì uống nước muối và sự khát nước không bao giờ hết khát được.

Đức Thế Tôn dạy: thế giới đang cháy. Con mắt đang bừng cháy, tai, mũi, lưỡi, thân, ý đang bừng cháy với ngọn lửa tham, sân, si, sinh, già, bệnh, chết, buồn rầu, kêu ca, than khóc, đau khổ, tuyệt vọng.

Bây giờ tôi đã giảng đến đây, tôi nguyện nỗ lực hết sức mình để tưới chân lý vào ngọn lửa sáu giác quan của quý vị. Tôi hy vọng lúc bài Pháp này kết thúc, những ngọn lửa từ nơi mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý của quý vị sẽ trở nên lạnh nhạt, êm dịu hơn, không những chúng ta tưới thêm nước sự thật mà chúng ta còn học cách để hạn chế nhiên liệu của cái: nhìn không tham, nghe không tham, nếm không tham, xúc chạm không tham, tư duy không tham. Khi nhìn bất cứ vật gì, chúng ta phải luôn luôn phân tích hình sắc của nó để thấy đúng thực tánh của hình sắc đó. Chúng ta phải nhận thức được rằng hình sắc không đáng yêu như ta tưởng đâu. Bởi vì nếu ta phân tích hình sắc gồm 32 phần của thể xác, thì ta mới phát hiện rằng 32 phần này về thực chất không thú vị gì, hoặc ghê tởm và chán ghét. Trong Phật Giáo chúng ta luôn luôn cố gắng phân tích vạn pháp qua những thành phần cấu tạo của chúng để thấy các pháp đúng như thực tướng. Bởi vì thấy các pháp đúng như thực tướng của chúng thì ta mới tháo gỡ được các ràng buộc. Chúng ta nhớ rằng phải phân tích liên tục mới đưa đến trí huệ, chúng ta nên sống cuộc đời liên tục có chánh niệm. Nhờ luôn luôn chánh niệm, tự nhiên sau đó ta sẽ nhìn thấy đúng thực tướng của chúng. Nghĩa là khi ta nhìn sự vật gì, chúng ta phải biết mình đang nhìn gì; khi nói chúng ta phải biết mình đang nói gì; khi dứt ý niệm chúng ta cũng phải nhận thức được việc đó. Khi ăn hay uống cũng phải ý thức được sự kiện đó. Nhờ luôn luôn thực hành chánh niệm, luôn luôn tỉnh giác, chúng ta sẽ không bao giờ bị vọng tưởng và do nhìn đúng thực tướng của các pháp, chúng ta dễ đoạn trừ mọi luyến ái. Chúng ta từ bỏ nô lệ mọi sự vật. Nhờ từ bỏ nô lệ mọi sự vật, chúng ta hưởng được sự giải thoát an vui. Trong Phật Giáo điều này gọi là Niết Bàn–viễn ly các pháp vốn vô thường. Bởi vì các pháp vốn vô thường đều vượt ngoài năng lực của chúng ta, và chúng ta không nên chấp thủ vào bất cứ một luyến ái, ràng buộc nào nó vốn không tùy thuộc vào chúng ta.

Cần nhớ rằng cái giá của khoái lạc là đau khổ, khoái lạc không thể nào đạt được mà không trả giá; khoái lạc một chút mà đau đớn thì vô củng. Đức Thế Tôn không muốn khoái lạc hay đau khổ. Ngài muốn con đường hạnh phúc khinh an của hòa bình vĩnh cửu.

Quý vị có biết 11 sự lợi lạc kỳ diệu của tình thương bao la không? Chúng ta hãy an trú trong tình thương yêu vốn cho ta sự an lạc ngọt ngào. Phật Giáo dạy pháp Giải Thoát qua đời sống phạm hạnh. Có lần Đức Thế Tôn dạy: "Thực hành lòng từ bi vô lượng đối với chúng sanh sẽ được 11 thiện pháp kỳ diệu đầy lợi lạc".

Tôi phải nhắc nhở quý vị biết rằng trong Phật đạo chúng ta có 40 đề mục thiền quán. Trong 40 đề mục này có 4 mục dành cho tâm thái chư thiên, hay còn gọi là tứ vô lượng tâm bao gồm: tâm từ, tâm bi, tâm hỷ, tâm xả.

Nhờ rộng trải vô lượng lòng từ bi, hỷ xả, ta gặt hái được nhiều quả lành. 11 quả lành mà vị đó được hưởng là gì?

l) Vị đó ngủ trong an lạc.

2) Vị đó thức trong an lạc.

3) Vị đó ngủ không thấy ác mộng.

Tôi tự hỏi không biết có người nào đau khổ vì chứng bệnh mất ngủ. Nếu có, hãy rộng trải lòng từ bi, bạn sẽ được giấc ngủ an lành, bạn sẽ thức dậy an lành, bạn sẽ không gặp ác mộng. Bởi vì khi lòng tràn ngập tình thương, bạn sẽ nhắm mắt êm ái, bạn sẽ mở mắt nhẹ nhàng như búp sen hé nở.

4) Vị đó được mọi người yêu quý. Vì vậy lòng yêu thương ban cho bạn nhiều thiện hữu cõi người, nhưng hãy nhớ rằng thiện hữu cõi trời còn hữu ích hơn gấp bội so với bạn cõi người tầm thường. Ngạn ngữ có câu: "Thiện hữu cứu mình". Nếu bạn lành của bạn là người trời, họ chẳng bao giờ ruồng bỏ bạn. Có hai loại bạn, những bạn bè qua quan hệ từ trước, qua quan hệ từ kiếp trước, đó là tình bạn chân thật. Và có những bạn bè thực sự trở thành bạn qua thiền định. Nếu bạn gặp được những thiện hữu cõi trời, họ có năng lực hơn các thiện hữu cõi trần và họ không bao giờ ruồng bỏ bạn. Người giàu thường có nhiều bạn nhưng khi họ mất hết của cải thì họ cũng mất luôn cả bạn hữu. Những người như vậy chỉ là những bạn hữu ngắn ngủi nhất thời.

5)Vị đó được các dạng phi nhân yêu quý. Lòng yêu thương đem đến cho bạn nhiều thiện hữu phi nhân. Bạn không cần lo sợ về quỷ ma trong bóng đêm nếu bạn rộng mở lòng từ. Bởi vì ngay đến loài ma quỷ cũng trở thành thiện hữu nếu bạn yêu thương mọi người trên toàn cõi vũ trụ bao la này.

6) Vị đó được chư thiên thần chiếu cố. Lòng yêu thương sẽ đem đến cho bạn nhiều thiện hữu thiên thần. Vậy thì hãy siêng năng tu dưỡng tình bằng hữu thiên thần bằng cách thường xuyên trải lòng yêu thương đến với họ. Các thiện hữu cõi trời có năng lực vô song, có uy lực cứu giúp mạnh mẽ hơn các thiện hữu cõi trần. Đúng lúc cần họ sẽ đứng gần hộ trì cho bạn. Quả vậy, lòng yêu thương sẽ được toàn thế giới ngưỡng mộ.

7) Không có lửa, thuốc độc hay gươm dao nào có thể ngăn chặn bước đi của vị đó. Cũng không có bom đạn nào khiến bạn sợ hãi khi bom đạn từ bầu trời rơi xuống nghiền nát Hỡi con người khiếp sợ? Hãy mở rộng lòng thương yêu, bạn sẽ trở thành con người vô úy (không lo sợ). Lòng từ bảo vệ và ban cho bạn cảm giác an bình tịnh lạc. Do luôn luôn mở rộng lòng từ, bạn chỉ giản dị cất tiếng với lòng vui sướng hoan hỷ! Bạn sẽ chẳng bao giờ lo sợ nếu bạn sống trong tình thương yêu vô bờ bến, vì lòng thương yêu sẽ hộ trì cho bạn thoát khỏi mọi nguy hiểm. Nếu bạn luôn luôn sống trong không khí cởi mở từ hòa thì không có sự hãm hạì nào có thể đến với bạn. Tình thương là vật che chở tốt nhất, khí giới tốt nhất và là áo giáp tốt nhất. Tình thương yêu luôn luôn là người đáng yêu quý, bạn còn có thể mỉa mai chế giễu sự lâm nguy nữa là khác, tình thương yêu cũng bảo vệ bạn chống lại tâm tham ái và đam mê. Tình thương yêu là vị hộ pháp tốt đẹp nhất trên trần gian này.

8) Tâm vị đó sớm được bình thản. Tình thương yêu mau nhiếp tâm. Trong khi tu tập thiền quán, nếu bạn rộng mở tình thương yêu vô lượng thì bạn sẽ rất thành công. Có nhiều người than phiền rằng họ không thể định tâm được, bất cứ khi nào họ khởi sự thiền quán thì tâm của họ đi lạc hướng. Nếu họ tỉnh giác trải rộng lòng từ vô lượng thì tâm họ sẽ dễ dàng chánh niệm vào đề mục.

9) Diện mạo hảo tướng khinh an. Tình thương yêu đem đến cho bạn vẻ duyên dáng và sắc đẹp vô song. Đây là nét đẹp thầm kín, toàn hảo nhất trên trần gian. Thế giới tiêu đi mỗi tuần 10 triệu đô la cho phí tổn mỹ phẩm và trang bị sắc đẹp. Sau chiến tranh, hiện nay ta thấy rõ có sự suy thoái khắp nơi. Vì vậy kinh tế nghiêm túc là một trong những vấn đề tái kiến tạo, tiết kiệm. Hãy để dành tiền (nếu bạn có). Những chuyên gia về mỹ phẩm và sắc đẹp đã lố bịch trước sức mạnh hùng tráng cúa tình thương yêu, yếu tố vốn ban cho sắc đẹp chân thật.

Mỹ phẩm đắt tiền chỉ tạo nên sắc đẹp vay mượn, nó vốn là sự ngụy trang lừa đảo–vọng ngữ. Thế nên chúng ta hãy luôn luôn mở rộng tình thương yêu vô hạn đối vớì nhân loại Một nét duyên dáng vô hình sẽ tỏa quanh chúng ta, ban cho chúng ta dáng điệu nhìn chung là đáng yêu.

Tình thương yêu không phải là phẩm hạnh kín đáo kỳ diệu sao? Nó ban cho con người dáng vẻ đáng yêu không phải tốn tiền. Chúng ta có được sắc đẹp thực sự mà không tốn tiền là nhờ trải rộng tình thương yêu vô hạn. Bởi vì sắc đẹp chân thực là gì? Đó là sự duyên dáng. Vẻ đẹp duyên dáng chỉ xuất phát từ tình thương yêu vô hạn. Ở các nước Tây phương người ta gọi là vẻ quyến rũ. Ở các nước Đông phương người ta gọi là vẻ duyên dáng. Vẻ đẹp duyên dáng là người tiêu biểu hấp dẫn cao cả nhất, dù nó là một phương thuật bán hàng hay một phương diện đời sống nào khác, nếu người nào có lòng quảng đại về tình thương yêu, vị đó sẽ lôi cuốn được khách hàng, vị đó sẽ hấp dẫn bạn bè, vị đó sẽ thu hút mọi người.

Nên nhớ rằng con đường thượng sách nhất để trở nên đẹp đẽ không phải chỉ sử dụng mỹ phẩm đóng sẵn của Hollywood mà chỉ đơn thuần rộng trải tình thương yêu vô hạn. Lòng từ bi đó phải thấm nhuần toàn khắp vũ trụ, bởi vì trong Đạo Phật không có biên giới, không có địa phận nào cho tình thương yêu cả. Tình thương là vô tận. Nó phải xuyên suốt toàn cầu. Tình thương yêu là vô lượng. Nó có một năng lực bất tận. Chúng ta tin những thế giới trùng điệp trong Phật Giáo. Những thế giới đều lên đến con số bao la (nhờ thiên văn) và tình yêu thương cũng phải như không gian bất tận. Nó phải hướng về phía đông, tây, nam, bắc, trên, dưới và chung quanh. Chúng ta thương yêu không phải chỉ có loài người thôi mà còn thương yêu cả loài vật, loài thực vật nữa. Mỗi ngọn cỏ phải tràn đầy lòng từ vô lượng. Chúng ta yêu những dòng sông, những quả núi và khắp bầu trời. Tất cả sự sống là thực vật, khoáng vật, và sự sống động vật. Trên toàn cầu này không có gì là không đang sống. Tất cả đời sống là một, và vì vậy chúng ta phải thương yêu toàn cầu, bất cứ ở đâu cũng không có một kỳ thị phân biệt nào. Vẻ đẹp bên trong chiến thắng vẻ đẹp thô kệch xấu xí bên ngoài và làm con người lôi cuốn được kẻ khác. Vẻ duyên dáng đó có thể đạt được bằng sự thực hành lòng từ vô biên, và lòng từ đó phải được tu tập ngày đêm không ngừng nghỉ.

10) Vị đó chết thanh thản. Người ta thường chết một cách khiếp sợ. Họ sợ chết, đôi khi họ bị dằn vặt khổ sở hết sức kinh khủng. Trong kinh Phật được kể rằng khi một người sắp tái sinh vào cảnh khổ ngục, ngay trước khi chết, vị đó thấy ngọn lửa "hỏa ngục" và bạn có thể tưởng tượng những cảm giác của người sắp chết phải bị ra sao không? Ngay trước khi chết vị đó trông thấy những ngọn lửa khổ hình phóng lên, bản thân không thể nào an lạc; nhưng nếu vị đó có thực hành thiền định về lòng từ quảng đại, đương nhiên vị đó sẽ không còn khiếp sợ. Lòng từ làm cho bạn sống hạnh phúc và chết hạnh phúc. Bạn còn muốn gì nữa. Tình thương yêu là quý hóa nhất và cao thượng nhất! Nó làm cho bạn ngủ an lạc, chết an lạc. Hai điều không giống nhau sao? Ban đêm đi ngủ, điều này giống như chết. Khi thức dậy, tươi tỉnh lạỉ, bạn như được tái sinh.

11) Nếu bạn không chứng đạt Niết Bàn trong đời này, bạn sẽ được tái sanh vào cảnh trời. Lòng từ ái đưa đến sự tỉnh thức và an vui. Hai cảnh này không phải giống nhau sao?

Lòng từ biến bạn thành một vị thần ngay bây giờ trở đi. Lòng từ ban cho bạn năng lực vô biên, vượt hơn năng lực của mình và của người khác. Lòng từ khiến bạn thành một vị Phật tối thượng–giống như một bà mẹ sẵn sàng hy sinh đời mình cho đứa con duy nhất. Vì vậy ta nên thường xuyên ban phát lòng từ của mình đối với tất cả chúng sinh trên cõi đời này. Đây là giáo huấn cao thượng của Đức Thế Tôn. Hận thù không thể dập tắt được hận thù, chỉ có tình thương mới dập tắt được hận thù. Nếu toàn thế giới đều quy ngưỡng Đức Phật thì chiến tranh sẽ không còn xảy ra nữa. Đạo đức cộng tình thương đưa đến hòa bình hạnh phúc. Tham ái đi đôi với hận thù gây ra chiến tranh và nghèo khổ. Đại từ bi là mẹ của mọi đức hạnh. Mong sao chúng sanh trên toàn cầu giữ mãi tâm niệm nhân ái này.

Chúng ta cố gắng gởi đến quý vị một bài Pháp nữa của Đức Phật. Bởi vì nếu chúng ta muốn hiểu Phật Giáo một cách đúng đắn thì chúng ta phải thường xuyên tìm hiểu từ đầu nguồn–chính là Đức Phật. Khi nước xuất phát từ đầu nguồn, nó tinh khiết, nhưng khi nước chảy xuống mặt đất nó trở nên bất tịnh. Vì vậy chúng ta đứng bao giờ phí sức học Phật từ những sách do nhiều tác giả viết ra mà phải luôn luôn nghiên cứu Phật học ngay từ những lời dạy của chính Đức Phật. Giờ đây tôi sẽ gởi đến quý thiện hữu một chút pháp vị nữa từ một bài giảng sâu sắc của Đức Thế Tôn. Trong Kinh Trung A Hàm, Đức Phật dạy: có 6 giác quan bên trong và 6 nhóm ý thức, 6 nhóm xúc (tiếp nhận), 6 nhóm thọ (cảm giác), 6 nhóm ái (yêu thích) tạo thành 36 loại tất cả. Như tôi đã nói đạo Phật là khoa học giải thoát, là khoa học phân tích nên mọi thứ phải được phân xét lý giải.

Chúng ta phải dùng mắt để nhìn đúng tiến trình của cái thấy là gì. Chúng ta có mắt, có sắc thể, con mắt thêm vào hình thể liền khởi lên cái biết thấy, căn (mắt), trần (hình), thức (ý) chạm vào nhau; phát sinh xúc (tiếp xúc); rồi xúc phát sinh thọ (cảm giác) và thọ phát sinh ái (yêu thích). Tương tự như vậy xảy ra khi ta nghe, tai thêm vào âm thanh phát khởi cái biết của tai. Rồi tai, âm thanh và cái biết nghe chạm vào nhau tạo nên xúc. Rồi xúc phát sinh thọ, rồi thọ phát sinh ái. Tương tự như vậy xảy ra khi chúng ta ngửi, nếm, chạm và suy nghĩ.

Đức Phật dạy: sau khi phân tích 36 pháp, chúng ta thấy rằng không có cái Ta nào bất diệt, bất biến bên trong 36 pháp này. Bởi vì nếu có người nói rằng con mắt là "ta", điều này không chấp nhận được, vì sự sinh diệt của mắt là hiển nhiên, con mắt là vô thường (tạm bợ), và vì nó vô thường nên chúng ta không thể gọi nó là "ta", bản ngã của ta, chúng ta không thể gọi hình thể là ta, chúng ta không thể gọi cái biết thấy là ta hoặc xúc thọ hay ái là ta. Khi phân tích rằng các hiện hữu đều có sự sinh diệt của chúng, ta mới đi đến kết luận rằng cái ta khởi lên rồi biến mất và vì vậy nói rằng con mắt là "ta" đều không chấp nhận được. Như vậy con mắt là vô ngã. Biện chứng tương tự áp dụng cho các hình thể. Hình thể vốn vô thường và xúc, thọ, ái tất cả đều vô thường, vì thế cái "ta" không thể tìm thấy được trong bất cứ một giác quan nào hoặc không tìm thấy được trong một pháp nào thuộc 36 pháp đã nói. Vạn pháp đều vô thường. Do vậy không có cái ta nào bất biến trong cái thường chuyển cả.

Như tôi đã giảng ngay từ đầu bài pháp rằng chúng ta chỉ ở trong những niệm tưởng tạm bợ thoáng qua, và vì những niệm tưởng cứ mãi thoáng qua nên chúng ta cứ mãi tạm thời không cố định, không có cái ta bất biến nơi con người. Con đường đưa đến nguồn gốc của ngã kiến–cái nhìn cá tính, vốn coi như của mình. Cái này là tôi hoặc cái này là chính tôi, hoặc là mắt, hình sắc, cái biết thấy, hay xúc, thọ, ái, hoặc tương tự coi cái nghe và các giác quan khác là phụ. Vì vậy bạn thấy đó, cảm giác của cái ta khởi lên qua tập quán tư duy bất thiện từ quá khứ vô tận. Chúng ta vẫn cứ suy nghĩ như vầy: cái này thuộc về tôi, cái này là tôi, cái này là chính tôi. Nhưng từ đây trở đi, chúng ta khởi sự tư duy ngược lại nếu chúng ta thường nói với sự cân nhắc mỗi và mọi điều mà chúng ta thấy hay nghe, ngửi hay nếm, hay chạm, hay suy nghĩ rằng: "Đây không thuộc về tôi, đây không phải là tôi đây không phải là bản ngã của tôi; như thế bạn mới quân bình được tập quán suy nghĩ xấu trước kia và cái nhìn cá tính sẽ được hóa giải. Chúng ta không bao giờ tin về bản ngã, và đó chính là sự giác ngộ tối thượng, sự tỉnh thức siêu việt, đó là Niết Bàn. Con đường đưa đến tiêu trừ cái nhìn cá tính là đừng coi nó là của mình... dù là mắt, là tai, cái nghe hay bất cứ cái nào trong 6 giác quan khác hay những phần hỗ trợ cho chúng. Người đệ tử thực học của Đức Phật trở nên nhàm chán cảnh đời và các giác quan khác nên được giải thoát. Đối với người đệ tử đó, nhờ được giải thoát nên được tri kiến giải thoát, triệt để tin tuởng rằng đây là kiếp sống cuối cùng, rằng vị đó đã sống đời phạm hạnh thanh cao, rằng Phật sự đã làm xong và giờ đây không còn nữa những gì đã làm. Đức Thế Tôn dạy như vậy.

Khi bàì pháp vừa thuyết xong, tâm của 60 vị Sa Môn đều giải thoát mọi kiết sử. Nói cách khác nhờ bài pháp độc nhất đó mà 60 vị Sa Môn chứng quả A La Hán tối thượng. Họ tiêu trừ các lậu hoặc như dục lậu, hữu lậu và vô minh lậu v.v... Họ trở thành bậc tỉnh thức, Đấng Toàn Giác. Họ chứng đắc Niết Bàn tối thượng chính ngay cuộc đời này. Trong Phật Giáo không cần phải đợi chết mới đạt đến mục đích, mà người ta có thể đạt Niết Bàn tối thượng ngay tại đây yà bây giờ. Ngay lúc tôi đang thuyết pháp, quý vị có thể đoạn diệt được tâm tham, tâm sân, tâm si và đạt được trạng thái vô tham, vô sân, vô si ở đỉnh cao gọi là Niết Bàn, niềm hạnh phúc cao tột nhất. Cầu mong tất cả quý vị càng sớm càng tốt đạt được cảnh giới an lạc tối thượng.

Trước khi kết thúc, tôi muốn chấn chỉnh một số quan niệm về đạo Phật, vì nơi đây còn có một số người không phải là Phật tử. Tôi sẽ cố gợi lên một ý tưởng rõ ràng về Phật Giáo là gì. Có lần khi tôi còn ở trong một trại tập trung, tôi nhớ một người bạn cùng bị giam đã cố giải thích về triết học Phật Giáo cho một thính giả là tôi. Ông là một linh mục Thiên Chúa La Mã. ông ta giảng về Phật Giáo và tôi là một hội viên của thính chúng. Một người không phải Phật tử lại đi giảng Đạo Phật cho người Phật tử nghe–vì tôi muốn nghe những gì ông ta trình bày. Tôi thấy rằng có vài điểm tuyệt đối không đúng. Bởi vì tôi vốn là một chuyên gia Phật tử, lẽ dĩ nhiên Phật Giáo là đề tài của tôi. Chúng tôi không thể kỳ vọng một thành viên của một tôn giáo nào khác làm chuyên gia cho Phật Giáo.

Tôi thấy có vài sai lầm và đây là một số nhầm lẫn hiện đang phổ biến có liên quan đPhật Giáo–tôn giáo mà tôi sẽ chấn chỉnh tốt đẹp hầu giúp người ngoại đạo có thể hiểu một cách đúng đắn Phật Giáo là gì. Trước tiên, vị thượng nhân đó nói rằng Phật Giáo không phải là tôn giáo mà Phật Giáo chỉ là một triết lý. Tôi phải chứng minh rằng Phật Giáo cũng được gọi là tôn giáo, bởi vì, Tôn giáo là gì? Tôn giáo là phương pháp diệt trừ đau khổ, bởi vì nếu không có đau khổ trên thế gian này thì tôn giáo sẽ hóa ra dư thừa. Chúng ta có tôn giáo chỉ vì trần gian này có đau khổ. Tôn giáo là phương tiện để đi đến cứu cánh. Nó ban cho sự an ủi trước mọi bất trắc cuộc đời, nó cho ta sự trầm tĩnh an lạc. Phật Giáo có Bát Chánh Đạo–con đường tám điều chân chính, diệt khổ. Do vậy Phật Giáo là tôn giáo tuyệt vời, nó tạo ra các bậc A La Hán, những người tự mình thoát ly mọi đau khổ, vì giáo pháp của Phật đoạn trú mọi đau khổ. Phật Giáo chắc chắn được gắn cho thuật ngữ "Tôn Giáo". Bởi vì theo định nghĩa của chúng tôi thì tôn giáo là phương pháp diệt trừ đau khổ. Dĩ nhiên có nhiều người định nghĩa về tôn giáo một cách khác nữa. Họ nói tôn giáo là phụng thờ Trời (Thượng Đế), nhưng Phật tử chúng tôi cũng phụng thờ trời, bởi vì chúng tôi cho rằng Trời là một đấng toàn hảo. Bất cứ ai toàn hảo đều là trời, bởi vì không có trời nào hơn đấng toàn hảo. Theo như người Phật tử chúng tôi thì bất luận ai đạt được sự tận diệt tuyệt đối về tham, sân, si, đố kỵ, nghi ngờ, kiêu mạn, vị đó là Trời. Bởi vì không có trời nào cao hơn chân lý. Không có trởi nào cao hơn sự toàn hảo. Nếu có vị trời nào cao hơn sự toàn hảo thì vị đó không phải toàn hảo và vị đó không còn là trời nữa. Thế nên trời là đấng toàn hảo. Chúng tôi coi Đức Phật là Đấng Toàn Hảo tuyệt đối sau khi đạt được viên mãn toàn hảo. Chúng tôi gọi Ngài là vị Trời. Ngài không còn một tì vết nào về tham dục, dù Ngài sinh ra là một con người. Sau khi thành đạo dưới cội Bồ Đề lúc 35 tuổi Ngài hoàn toàn đoạn trừ tham ái, sân hận và si mê v.v... Ngài trở thành: Đấng Toàn Hảo, một vị Phật, Đấng Toàn Giác. Vốn toàn hảo nên chắc chắn Ngài được tôn hiệu là Trời, bởi vì Ngài là môt vị Trời thanh tịnh. Ngài là Thiên Thượng Thiên có nghĩa là Trời của các vị Trời.

Phật tử chúng tôi phụng thờ Trời vậy thì Phật Giáo là một tôn giáo chứ không phải chỉ thuần túy là một triết lý, không còn ngờ gì nữa đó là một triết lý cao siêu nhất từng được một chúng sanh toàn hảo khai sáng nhưng Phật Giáo cũng là một tôn giáo, chúng ta có thể gọi Phật Giáo là một tôn giáo triết lý.

Điểm lầm lỗi kế tiếp mà vị thượng nhân đưa ra cho rằng Niết Bàn là một giấc ngủ không mơ. Nhưng chúng tôi nói Niết Bàn chẳng phải là một giấc ngủ không mơ. Niết Bàn là sự tỉnh ngộ cao độ. Như tôi đã giải thích trước kia rằng cuộc đời là một giấc mộng, chỉ khi nào chúng ta bừng tỉnh khỏi cuộc đời mộng ảo này thì ta được tôn hiệu là Phật–bậc Giác Ngộ tối thượng. Sống là mộng nhưng đạt được Niết Bàn là tỉnh giấc mơ cuộc đời. Mục đích của Phật Giáo là làm cho chúng ta thức tỉnh trước cuộc đời mộng ảo, làm cho chúng ta luôn luôn là người tỉnh giác. Vì vậy Niết Bàn không phải là một giấc ngủ không mơ mà là một trạng thái tỉnh thức tối thượng, trạng thái mà các bậc Thánh hưởng được ngay đây và bây giờ chứ không phải sau khi chết mới đạt được Nếu tôi nhớ không lầm thì ở những tôn giáo khác, chúng ta phải chết trước đã rồi mới đạt được phước lành. Trong Phật Giáo không cần phải đợi chết, bởi vì Đức Phật lúc 35 tuổi, Ngài đã tận hưởng phước lạc cao tột, có thể thực hiện trên cõi đời này, Ngài chứng vô thượng Niết Bàn, sự toàn hảo tối thượng. Niết Bàn là sự tỉnh giác cao tột. Toàn thế giới như đang ngủ, đang mơ, mơ trong cơn ác mộng, người ta coi giấc mộng trống rỗng này là thật. Do vậy mà toàn thế giới này đau khổ. Vô minh–tức sự ngu si là nỗi đau khổ nghiêm trọng nhất. Trí tuệ là hạnh phúc cao đẹp nhất. Niết Bàn không phải là giấc ngủ không mơ. Niết Bàn không phải là hư vô hay không hiện hữu. Niết Bàn là thực tại của chân lý trường tồn tối thượng. Thế giới không thực, là hư ảo vì vạn pháp đều tạm bợ và biến đổi. Vắng mặt trần gian hư ảo đó là chân Niết Bàn tối thượng hay là trạng thái tỉnh thức siêu đẳng. Tôi vẫn nói rằng toàn thế giới đang bốc cháy. Niết Bàn là trạng thái tỉnh giác, trạng thái tươi mát, nơi không còn những ngọn lửa của 6 giác quan. Có sự khác biệt giữa Đức Phật và những đệ tử của Ngài đối với những cá nhân tầm thường. Vì những vị phàm phu khi nhìn sự vật với lòng khát ái, đam mê và khi nghe với lòng khát ái, đam mê, họ đang bị đốt cháy khắp nơi. Trái lại, Đức Phật nhìn sự vật với tâm ly dục, nghe với tâm ly dục, ngửi, nếm, chạm, nghĩ đều buông xả, không một chút đam mê, lạc thú.

Thêm một điểm sai lầm nữa mà vị linh mục quý kính đã nói rằng Phật Giáo là tiêu cực. Không đúng như vậy. Bởi vì đạo Phật ban cho trái quả tối thượng nhất ngay ở đây và bây giờ, làm sao gán cho đạo Phật là tiêu cực được? mà đạo Phật phải là một tôn giáo lạc quan cao siêu nhất bởi vì đạo Phật giải thoát con người khỏi đau khổ ngay ở đây và trong tình trạng đang sống bây giờ, nhưng Đức Phật không ngừng ở đấy. Ngài chỉ đạy con đường thoát khổ. Nói một cách khác, Ngài chữa lành bệnh nhân, ban cho họ hạnh phúc bất tận và vì vậy Đức Phật được gọi là vị Y sĩ vĩ đại nhất trần gian này, bởi vì Ngài giải thoát nỗi thống khổ của con người ngay đây và bây giờ, và vì con người được chữa lành mọi chứng bệnh đau khổ về thân tâm, Phật Giáo quả là một tôn giáo lạc quan nhất chứ không phải bi quan như vị linh mục đã ngộ nhận.

Như Đức Thế Tôn đã dạy: "Này các Tỳ Kheo, giống như nước trong các đại dương chỉ có một vị, đó là vị của muối. Cũng vậy, Giáo Pháp của ta cũng là một vị, đó là vị giải thoát. Và vì Phật Giáo là đạo của giải thoát, làm sao ta có thể gắn cho Giáo Pháp giải thoát là tiêu cực được? Một cách đoan chắc, nếu một bệnh nhân được chữa lành chứng bệnh sốt rét, bệnh nhân không bao giờ dám nói thuốc điều trị của Bác sĩ chữa bệnh cho anh ta là tiêu cực và bệnh nhân sẽ nói đó là thuốc hay nhất đã chữa lành bệnh cho mình. Cũng tương tự như vậy, thuốc Bát Chánh Đạo chừa cho con người hết đau khổ, đó là thần dược lạc quan nhất bởi vì nó chữa lành bệnh cho con người ngay tại đây và bây giờ, đồng thời ban cho vị đó niềm hạnh phúc cao tột nhất.

Phật Giáo có 4 chân lý cao thượng. Chân lý thứ tư hướng dẫn chúng ta con đường thoát khổ, an nhập hạnh phúc của Niết Bàn tối thượng trường cửu. Do vậy Phật Giáo là tôn giáo lạc quan nhất trên thế giới. Phật Pháp dạy rằng sự lạc thú là gốc rễ của khổ đau, bởi vì nếu bạn vướng mắc vào khoái lạc của mắt thì chẳng khác gì bạn đang cố uống nước muối, bạn càng uống càng thấy khát, càng nhìn bạn càng muốn nhìn, càng nghe bạn càng muốn nghe. Không sao chấm dứt được tiến trình này. Trên trần gian đây không bao giờ có một cá thể độc nhất nào nhờ vui hưởng khoái lạc của 6 giác quan mà đạt được hạnh phúc trường cửu. Vị đó chỉ đạt được sự khao khát triền miên, bởi vì càng đeo dính vào khoái lạc 6 giác quan thì bạn càng trở nên khao khát mãnh liệt. Điều duy nhất mà con người đạt được qua sự luyến ái 6 giác quan là sự khao khát và đánh mất Niết Bàn. Vì vậy phần đông chúng ta bị thất bại do nô lệ vào 6 giác quan. Nay chúng ta thử làm ngược lại bằng kinh nghiệm từ bỏ khoái lạc từ 6 giác quan. Sự từ bỏ như Đức Phật đã làm. Hãy dũng cảm hình thành một chứng nghiệm đối nghich, bạn sẽ thấy lòng khao khát đoạn diệt và bạn sẽ hưởng được niềm an lạc vĩnh cửu, bởi vì ngọn lửa tham dục đã tàn rụi, trạng thái tươi mát sẽ có mặt. Nơi đây ngọn lửa không thể nào nhóm lên được lần nữa, không có diêm, không có nhiên liệu để tái phát ngọn lửa mới, con người không còn tái sinh trong lục đạo luân hồi nữa. Cũng có một ngộ nhận nữa, vị linh mục chỉ có giải thích 3 chân lý đầu mà không đề cập đến chân lý thứ tư là Đạo đế Bát Chánh Đạo–trong Phật Giáo là chân lý quan yếu nhất cần phải lưu tâm, đó chính là phương thuốc đưa ta đến Niết Bàn tối thượng.




 

LÀM SAO ĐỂ CÓ HÒA BÌNH TRÊN THẾ GIỚI

Tôi có viết bài báo tựa đề: "DẬP TẮT CHIẾN TRANH VĨNH VIỄN", điều này đồng nghĩa với "hòa bình thế giới". Trong bài báo tôi đề xướng một giải pháp duy nhất để ngăn ngừa chiến tranh: Đó là phương cách dập tắt nguyên nhân gây ra chiến tranh. Tôi đã kham nhẫn tìm cách giải trừ vũ khí bên ngoài thế giới bằng cách giải trừ vũ khí ngay bên trong thân phận con người. Tôi đã thấy rõ sự kiện muốn dập tắt chiến tranh thì phải tận diệt ngay bên trong gốc rễ của nó. Về phương diện y học, tôi đã từng chẩn đoán nhiều ca và đưa ra toa thuốc chữa trị. Lòng tham là cội nguồn của chiến tranh, chiến tranh khắp nơi trên thế giới. Làm thế nào để đoạn diệt lòng tham tức là hoàn thành sự giải trừ quân sự trên khắp thế giới. Có nhiều phương án kinh tế quy mô mong ổn định chiến tranh khắp nơi đã được đưa ra ánh sáng. Nhưng các giải pháp trên đều vô ích vì họ không đoạn diệt được nguyên nhân của chiến tranh, chẳng khác nào chỉ sử dụng thuốc ngoài da chứ không tẩy sạch được máu mũ, tiêu trừ tận gốc được tìm thấy bên trong cơ thể–tâm ý con người chứ không phải bên ngoài. Hậu quả là gì? Điều ác vẫn tồn tại, chừng nào mà gốc rễ của nó vẫn còn ẩn tàng chưa đoạn diệt. Dù một vài ứng dụng về giải pháp kinh tế có vẻ thành công, tạm thời ngăn chặn được những tranh chấp quốc tế; song tinh thần gây chiến của con người vẫn khẳng định chính nó phát sinh thứ nội chiến như một số các nước trên thế giới hiện nay.

Nếu các cuộc nội chiến có được ngăn chặn đi nữa thì các chứng bệnh tranh giành vẫn sôi sục âm ĩ trong nanh vuốt của gia đình. Nơi đó cha mẹ tranh với con cái; con cái chống đối cha mẹ; vợ chồng cãi lộn, anh em, chị em xung đột lẫn nhau. Và dù cho những phiền não bên ngoài chấm dứt nhưng tâm ý đấu tranh nơi con người vẫn làm cho người ta nổi loạn chính mình. Cho đến khi chính mình phải đắm lệ trong những tình huống khổ đau tuyệt vọng. Tại sao? Chỉ vì lòng tham của vị đó vẫn còn âm ĩ bên trong.

Vì vậy chúng ta phải diệt trừ tận gốc rễ chiến tranh mới đem lạì hòa bình thực sự.Chúng ta phải quét sạch những nguyên nhân cơ bản đưa đến chiến tranh, giống như ngôn ngữ trong Tân ước: DỤC VỌNG là TRẬN CHIẾN trong anh em chúng ta.

Trong bài báo đã nói, tôi tìm cách trình bày cho họ thấy rằng làm sao giải trừ được khí giới trong mỗi và mọi người mới dẫn đến sự giải trừ quân bị thực sự làm cho thế giới được hòa bình tịnh lạc.

Tôi muốn nhấn mạnh "việc giải trừ quân sự toàn cầu". Nghĩa là kết thúc toàn bộ việc quân binh, tức là tước bỏ vũ khí tham ái của mỗi người. Chúng ta hãy từ giã vũ khí chiến tranh bằng con người đã thực sự giã từ vũ khí. Đó là những con người toàn thiện. Chúng ta ước mong mỗi người đều trở thành bậc Thánh nhân, như vậy mới thực hiện được hòa bình thế giới lâu dài, và rồi lịch sử sẽ là một lịch sử đổi mới chứ không phải lịch sử bạo tàn của thời kỳ xa xưa, mà chúng ta đã phải chịu đựng thống khổ liên tiếp từ cuộc chiến này đến cuộc chiến khác.

Thấy không có hại gì khi tôi đề cập đến câu nói của Mussolini: "chiến tranh vẫn trường kỳ và hòa bình chỉ là khoảng trống để thư giãn trong cuộc chiến liên tục". Thế tại sao người ta ngưng chiến? Bởi vì họ không thể giao tranh thêm nữa. Họ quá mệt mỏi và vì suy liệt mọi khả năng phương tiện, họ chỉ cần một khoảng trống thời gian để thở, dùng khoảng cách thư giãn này để chuẩn bị cho trận chiến sắp tới. Chừng nào họ cảm thấy có đủ sức lực thì họ lại bắt đầu khai chiến.

Lại nữa, khoái lạc giác quan cũng là nguyên nhân của cuộc chiến tranh, của lòng ích kỷ, tham lam, tranh chấp giữa các vương quốc, các lãnh thổ, gia đình. Khoái lạc giác quan đưa đến chiến tranh, thảm sát, tra tấn và điên loạn. Chắc quý vị muốn nghe câu chuyện mà Đức Phật đã nói cách đây 2500 năm về chiến tranh, nguyên nhân và phương pháp chấm dứt?

Đức Phật dạy: Năm uẩn tức là 5 hợp thể khoái lạc giác quan: sắc được cảm nhận bằng mắt; âm thanh được cảm nhận bằng tai; hương khí bằng mũi; mùi vị bằng lưỡi và xúc chạm bằng thân. Tất cá đều có thể cảm thấy khoái lạc và kích thích đam mê. Vì khoái lạc, từ khoái lạc, do khoái lạc, chính khoái lạc và chỉ khoái lạc là nguyên nhân cốt tủy. Thế nên vua mới chinh phạt vua, hàng quý tộc mới tranh chấp với hàng quý tộc, Bà La Môn diệt Bà La Môn, dân trong nước tranh giành vởi nhau. Cha mẹ xung đột với con cái, con cái xung đột với cha mẹ. Anh chị em hơn thua với nhau, bạn bè sừng xỏ với nhau. Họ tận lực hạ nhau bằng những cú đấm, cú đánh, bằng gậy, bằng dao, đi dần đến chỗ tử vong hay thương tích trầm trọng. Đó là những hiểm họa đi theo sau những khoái lạc giác quan ở đây và bây giờ với tất cả những sự cố tạo thành một tổng thể đầy bất trắc: vì khoái lạc, từ khoái lạc, do khoái lạc, chính khoái lạc và chỉ khoái lạc là nguyên nhân.

Kinh Trung Bộ–một trong Tạng Kinh Phật có nói: Mọi sự đều tương ưng, vì khoái lạc mà gươm khiên sẵn sàng ra trận; cung tên và xạ thủ hối hả dàn quân, trong khi tên đao phóng xuyên qua không trung thì gươm giáo vung lên chém đầu kẻ thù đến nỗi xác chồng chất và thương tích chết người. Đây là những hiểm họa đi theo những khoái lạc giác quan, ở đây và bây giờ với tất cả những yếu tố gây nên toàn bộ bất lợi. Tất cả vì khoái lạc, từ khoái lạc, do khoái lạc và chính khoái lạc là nguyên nhân.

Có điều là trên chiến trường, niệm tưởng sau cùng của một chiến sĩ tử vong không thể nào có được. Bởi vì kẻ thù đang cố ý giết anh ta, khi anh ta sắp chết liền khởi một niệm tưởng sân hận, niệm tưởng sau cùng này tác hại cho bản thân anh ta và cho người khác. Anh ta không thể tái sinh trong cảnh giới tốt được. Niệm tưởng sau cùng có ảnh hưởng đến sự tái sinh sắp tới.

Điều gì khiến ta thoát khỏi khoái lạc giác quan. Phải hạn chế và khép chặt vĩnh viễn các thèm khát và khoái khẩu, đây là pháp thoát ly mọi khoái cảm giác quan, nguyên nhân dẫn đến sự giải trừ quân sự khắp nơi và chiến tranh thế giới. Vì vậy con người sống trên toàn cầu phải từ bỏ khoái lạc giác quan, đó cũng là cách làm cho người ta từ bỏ chiến tranh, ổn định hòa bình thế giới.

Phật Giáo là gì? Phật Giáo là tôn giáo của lòng từ bi vô lượng đạt được nhờ sự từ bỏ, không có gì cao cả hơn điều này, từ bỏ cái không thực, chúng ta đạt được thực tại tối thắng của Niết Bàn vô thượng.

Lòng ham muốn đưa đến thù hận. Ham muốn chiếm đoạt đưa đến thù hận; thù hận đưa đến chiến tranh. Bởi vậy nếu dập tắt được thù hận là dập tắt được chiến tranh. Chúng ta phải đoạn diệt lòng tham ưa thích của cải và quyền lực.

Hãy xóa bỏ chiến tranh vĩnh viễn. Hận thù không bao giờ ngăn chặn được hận thù. Quy luật nghìn xưa đều thuần thiện. Khi hận thù không còn đối đáp với hận thù, nó sẽ tự tiêu tan. Chiến tranh chỉ chấm dứt khi nào loài người trên thế gian này từ bỏ binh nghiệp, và chỉ khi nào họ được giáo dục về lòng căm ghét, sự giết hại, mọi sự giết hại ngay cả loài côn trùng bé nhỏ. Thế nên ta cần huấn luyện các thanh thiếu niên phải biết ghét bỏ sự sát hại. Đây là một khuyết điểm của nhiều tôn giáo, không giáo dục lòng từ bi thương cảm đối với vạn hữu sinh linh. Họ nói: hãy yêu thương con người! và ngưng tại đó, không vượt khỏi loài người tức là sinh mạng những loài vật. Lòng từ bi bác ái của họ mới có một phía. Lòng từ bi và bác ái đó chưa phổ cập và nồng nhiệt chân tình.

Người ta buộc phải giết sinh vật vì nó được tạo ra phục vụ cho bữa ăn của con người! Vị đó là người sáng tạo sẵn sàng giúp đỡ, tạo nên những sinh vật để cống hiến cho những sinh vật khác. Vì vậy chúng ta quả là những người được yêu chuộng!

Nếu con người trên thế giới này muốn hoàn thành việc giải trừ vũ khí toàn cầu, trước tiên họ phải tháo bỏ vũ khí ngay trong tâm mình. Nếu tâm thức con người cứ mãi hùng hổ thô bạo với tháỉ độ quân sự thì làm sao tâm thức đó có thể hoàn tất được cuộc giải trừ vũ khí toàn thế giới.

Chính lòng tham mới khiến con người phát biểu: "lãnh thổ này là lãnh thổ của riêng tôi". Chính lòng tham đã khiến người ta coi rẻ mọi đất nước khác, ngoại trừ quê hương xứ sở mình.

Vì vậy chúng ta hãy kêu gọi con người dập tắt lòng tham, họ sẽ yêu quê hương họ một cách công bằng. Khi họ yêu thương mọi quốc gia một cách bình đẳng thì họ còn chiến đấu với ai nữa? Đây là giải pháp đảm bảo cho công cuộc giải trừ quân sự khắp nơi và hòa bình thế giới một cách có hiệu lực.

Từ đâu đưa đến chiến tranh và xung đột giữa quý vị với nhau? Rõ ràng do lòng tham là nguyên nhân gây ra chiến tranh, vì vậy chúng ta hãy giải trừ vũ khí chính mình bằng cách diệt lòng tham "là chiến tranh trong anh em chúng ta" và chúng ta sẽ hưởng được hòa bình cho mỗi cá nhân. Chúng ta hưởng được hòa bình cho mỗi cá nhân sẽ đưa đến hòa bình cho toàn gia đình, đưa đến hòa bình cho toàn quốc gia, đưa đến hòa bình cho toàn thế giới.

Do đó chúng ta hãy tự mình tước bỏ vũ khí, tự đoạn diệt tham ái và hận thù. Chúng ta hãy tiếp dẫn lòng yêu thương và hòa bình vào tâm thức của lớp trẻ. Chúng ta hãy giáo dục thanh thiếu niên biết giữ đạo hạnh. Nếu mọi người được an lạc nội tâm thì toàn thế giới cũng được an lạc và sự giã từ vũ khí khắp nơi sẽ là một thực tế có thể diễn ra trong nháy mắt.

Các quốc gia sở dĩ phải vũ trang là vì nhiều cá nhân đã vũ trang (với lòng tham ái, sân hận). Khi nào những cá nhân trở nên dân sự (không còn trang bị vũ khí hận thù) thì mọi quốc gia trên thế giới sẽ giã từ quân sự. Thông thường người ta hay khiển trách những nhà tổng chỉ huy quân sự; họ cho rằng những nhà tổng chỉ huy là nguyên nhân của chiến tranh nhưng có ai hiểu được những nhà tổng chỉ huy đó là những đầy tớ của chúng ta.

Do ôm ấp hận thù khiến toàn thể quần chúng áp lực những nhà tổng chỉ huy đáng thương đó phải ra tay hành động, họ chỉ là những công cụ của chúng ta. Bởi vì khi toàn dân muốn có chiến tranh thì áp lực tinh thần của toàn dân buộc nhà tổng chỉ huy phải tuyên chiến. Bởi vì quý vị cũng hiểu rõ rằng những làn sóng tư tưởng gây ảnh hưởng đến người khác. Họ không thể bất động mà phải thỏa mãn nguyện vọng của đa số quần chúng cần biểu dương quân sự để bảo vệ Tổ quốc.

Có khi chiến tranh xảy ra không phải do quần chúng mà xuất phát từ những vấn đề khác, có thể là do những nhà công kỹ nghệ, những nhà tài phiệt kinh tế có thể áp lực các nhà lãnh đạo quốc gia ra tay hành động nếu nó tạo thắng lợi về mặt tư bản bất cứ cách nào. Dẫu sao đi nữa thì quần chúng vẫn là những người chịu trách nhiệm đối với vấn đề giải trừ vũ khí khắp nơi. Chúng ta không nên chê trách chính phủ hay những nhà tổng chỉ huy. Chúng ta hãy lên án những người vẫn còn ấm ức với nội tâm đầy tham ác hận thù. Bất cứ lúc nào ta còn nội chiến với chính mình thì lúc đó chúng ta đang góp phần cho chiến tranh. Chỉ khi nào mỗi người được an lạc bên trong, vị đó mới dám thành thật nói rằng mình không chịu trách nhiệm về chiến tranh, mỗi niệm tưởng sân si, thù hận đang tăng dần nhiên liệu khơi động chiến tranh sau cùng, thật tàn khốc.

Giờ xét đến từ "lòng yêu nước". Từ này chịu trách nhiệm sát hại hơn bất cứ từ nào. Báo chí làm kích động và nóng máu quần chúng, vì vậy ta nên chận đứng báo chí kiểu đó hoặc giao cho những nhà biên tập ưa chuộng hòa bình. Họ là những người không thích chiến tranh, và rồi nếu những nhà biên tập là những người yêu thích hòa bình thì nhất định họ sẽ không viết những tin giật gân. Ai sẽ mua những loại báo đó. Báo phát hành ra ngoài vì tiền và tiền gây cho báo chí hoang mang. Nó kích động quần chúng vì họ muốn có chiến tranh. Tiền bạc quả là một con rắn độc, cũng chính vì đồng tiền mà chiến tranh bùng nổ khắp nơi. Bằng phương tiện hô hào lòng yêu nước, nói láo, gian dối, làm nhục, các chiến sĩ bị kích động, bị thuyết phục giết nhau giống như giết những con chó. Và khi được chết trên chiến trường họ được vinh danh với các từ "anh hùng". Thật là dối trá đối với họ làm sao? Đức Phật đã nói những vị anh hùng này chịu đau khổ ở địa ngục trần gian và địa ngục kiếp sau. Bởi vì niệm tưởng sau cùng của họ không thể là ý niệm của lòng từ bi vô hạn. Một chiến sĩ không thể nào cầm dao đâm vào một chiến sĩ khác khi đã có lòng từ bi vô lượng. Nếu mọi chiến sĩ biết điều này liệu ai còn dám nghĩ rằng mình là một đồ tể giết người hay không? Chắc quý vị biết rằng thời gian trước đây, khi trở về quê hương–nước Ý, tôi đã từ chối không đi lính. Khái quát lý lịch thì quý vị cũng biết rồi, tôi từ bỏ cha mẹ, anh chị ở Mỹ, sang Miến Điện tu học 6 tháng. Tôi bỗng bị bệnh kiết lỵ nên trở về Ý để thay đổi không khí. Lúc đó tôi còn trẻ, mới có 27 tuổi, là một Tăng sĩ hết sức năng nỗ nhiệt tình. Chính quyền ở Ý "chộp cổ tôi" buộc tôi phải thi hành nghĩa vụ quân sự. Tôi đã khoác y vàng, là đệ tử của đức Như Lai, tôi đã xuất gia nghĩa là thoát ly thế tục vậy mà bây giờ họ muốn kéo tôi trở lại đường trần vốn ly khai chúng tôi. Họ cố cưỡng bức "anh phải nhập ngũ". Tôi trả lời rằng tôi không thể nào đi lính được vì tôi là đệ tử của Đức Phật, tôi không được phép giết một con kiến hay con muỗi hút máu thì làm sao tôi có thể giết một con người vốn là anh em của tôi. Dù là theo luật pháp, mỗi người công dân chỉ phục vụ quân ngũ 8 tháng, tôi vẫn lý giái để cho họ thông cảm trường hợp của tôi, tôi sanh ở Ý nhưng tôi lại yêu tất cả mọi quốc gia với tâm bình đẳng, mọi người là anh em của tôi. Vả lại, Phật Giáo của tôi là tôn giáo của lòng từ bi đối với tất cả sinh vật lớn hay nhỏ đều không phân biệt.

Làm sao người ta có thể hoàn tất được cuộc giải trừ quân sự toàn cầu. Điều này chỉ có thể thực hiện được khi nào mọi người đều từ chối không để mình trở thành người lính. Việc này chỉ thực hiện tốt đẹp khi nào họ được giáo dục sự chán ghét giết hại, giết tất cả ngay đến các loài côn trùng nhỏ bé. Thế nên chúng ta phải dạy cho các thanh niên biết chán ghét sự giết hại. Hãy làm cho các nhà đồ tể–cơ sở giết súc vật–trở thành trận chiến phai tàn. Cũng như các tội tử hình cần được phá bỏ. Tội giam tù mãi mãi là hình ảnh tốt đẹp hơn so với tội tử hình ghê rợn, phi nhân.

Khi các bé trai lớn dần, chúng được cho mặc những bộ đồ lính, đồ chơi súng cầm tay, đồ chơi súng đại bác.v.v...dĩ nhiên những sản phẩm tâm lý trở nên một sáng tạo quân sự này khiến tham vọng bành trướng và chúng mơ ước trở thành chiến sĩ khi đến tuổi trưởng thành. Đây là lối giáo dục nguy hiểm.

Vậy chúng ta hãy huấn luyện con em chúng ta biết yêu thương loài vật cùng hô hấp trên trái đất này. Hãy yêu thương người lân cận như yêu thương chính mình. Vì ghét người lân cận là ghét chính mình. Họ không nêu lý do tại sao bạn phải yêu thương người lân cận. Bởi người lân cận là chính mình. Nếu bạn ghét người lân cận là tự động ghét mình. Đó là lý do tại sao bạn phải yêu thương người lân cận như chính mình. Bởi lẽ không có bản ngã trong Đạo Phật. Tất cả lòng yêu thương là một. Nếu bạn yêu thương mình là yêu thương muôn loài. Đây là con đường đưa tới hạnh phúc.

Pháp ăn chay sẽ đoạn diệt được sự hung hăng. Người ta quả quyết chứng minh được rằng sự ăn chay có thể thuần hóa những con sư tử dữ tợn thành những con vật hiền từ. Đạo sư Kvishanandfi đã từng thuần hóa những con sư tử và cọp trở thành những con vật ăn chay hoàn chỉnh. Chúng ta từ chối, không để ý đến thịt nữa, pháp ăn chay đã biến đổi chúng thành những con vật vô hại. Vậy tại sao chúng ta không thuần hóa chúng sanh thành những công dân hòa bình vốn từ chối thanh toán sát hại nhau? Chỉ khi nào con ngườì trần gian này trở nên trầm mặc và tĩnh lặng họ mới hy vọng hoàn tất được sự giải trừ binh nghiệp, đem lại hòa bình cho thế giới.

Thịt sở dĩ cung cấp cho binh lính ăn là vì thịt kích thích và làm cho binh lính hung hăng thêm. Nếu binh lính ăn cỏ thì họ sẽ trở thành những con nai hiền từ. Họ sẽ yêu thương nhau và ôm nhau mừng rỡ. Lúc đó mới thực sự là thời điểm hòa bình.

Lương tâm quần chúng phải được khơi dậy trước khi thực hiện điều gì. Khi lương tâm quần chúng vùng lên chống cảnh nô lệ thì cảnh nô lệ sẽ bị tiêu diệt. Khi lương tâm quần chúng vùng dậy chống chiến tranh thì chiến tranh phải dập tắt. Pháp ăn chay tạo cho con người hiền hòa, tĩnh lặng. Và vì vậy là một đại cơ xưởng đang khởi động lương tâm quần chúng chống chiến tranh. Nhà tiên tri Isaiah đã nói: "Kẻ nào giết một con bò thì dường như kẻ đó đã giết một con người". Chúng tôi cũng nói vậy: "Ai giết được một con bò, ngườí đó sẽ giết được một mạng người". Theo tài liệu báo cáo thì có nhiều trường hợp những đồ tể cũng ghét luôn cả con người. Có những trường hợp trẻ nhỏ giết cả các em của mình sau khi thấy cha chúng giết heo.

Hãy lưu ý thêm các thống kê tội ác cho thấy trong số những người ăn thịt ở Tây phương phạm tội ác gấp 8 lần so với số người ăn chay ở Ấn Độ.

Một hôm người ta hỏi Bác sĩ Arundale là liệu Bác sĩ có cách gì dứt được các bệnh điên của thời đại hiện nay không. Bác sĩ trả lời rằng phương pháp duy nhất không phải bằng kế hoạch kinh tế mà là phải triệt để giảm bớt những căng thẳng tinh thần về chiến tranh trong mọi phương diện đời sống. Được hỏi tại sao phải tiếp tục ăn chay, bác sĩ trả lời: theo ý nghĩ của tôi thì chắc chắn việc nuôi mạng sống bằng việc ăn thịt hàng ngày là động cơ thúc đẩy nổi máu chiến tranh. Tinh thần "súng đạn" nơi con người là hậu quả của lòng hiếu sát của con người trên thân phận những con vật đáng thương không nói được tiếng người để phản đối, tuyên chiến với loài vật là tuyên chiến với loài người, bởi vì về phương diện sinh học thì người và vật đều như nhau. Nếu loài vật có thể nói được thì chúng sẽ nói gì? Chúng sẽ gầm lên: "loài người là kẻ thù xấu xa tàn ngược nhất của chúng tôi. Và con người cũng là kẻ thù của chính họ. Họ dùng trí thông minh của họ để bắt giam và giết hại chúng tôi". Hậu quả là: lòng ham muốn giết hại đã xúi giục họ sử dụng trí thông minh tương tự tìm mọi cách và phương tiện để tàn sát loài người trên bình diện quy mô hơn. Quý vị hãy nhìn trận đại chiến vừa qua với những hơi độc, tàu ngầm, phản lực cơ và bom nguyên tử gây tử vong khủng khiếp. Cho nên cần thuần hóa bản tính hung hăng của con người bằng pháp ăn chay. Muốn trở thành người trai giới thuần tịnh vị đó phải tránh sát hại sinh mạng loài vật, điều này sẽ làm cho vị đó tránh sát hại loài người.

Rượu cũng là một tai họa, nó đốt cháy thân tâm, làm ngu muội dòng tư duy của con người. Dưới ảnh hưởng của rượu người ta có thể chém giết, trộm cắp, tà dâm, nói láo và mất hết nhân cách. Vì vậy ta nên khuyên mọi người trên khắp thế giới nên tránh uống các chết say và nên uống nước lọc trong sạch, tinh khiết toàn hảo nhất. Được vậy họ sẽ trở nên con người thích hòa nhã, vui vẻ. Nếu việc uống rượu được hạn chế khắp nơi sẽ đưa con người vốn đầy lòng tham ái hận thù đến chỗ giã từ súng gươm chiến sự và khi mọi người có được hòa bình trong tâm thì lúc đó mới có hòa bình thế giới được. Và việc giải trừ vũ khí chiến tranh sẽ là một thực tại huy hoàng.

Đức Phật đã dạy: "Này các đệ tử, nếu có bọn cướp dữ nào bắt con, chúng dùng dao để khắc vào tay chân con; ngay lúc đó con còn khởi tâm sân giận tức là vẫn chưa nghe theo lời dạy của ta. Ngay lúc đau đớn này, phận sự của con là phải kham nhẫn, giữ tâm bất động, không cho một lời thô ác nào thoát ra trên môi, mà con phải luôn luôn an vui trong hạnh nguyện từ bi, thiện ý bằng trái tim buông xả, không hận thù, ôm ấp nnhững niệm tưởng thương yêu sáng ngời đối với bọn cướp dữ đã hành hạ thân con. Và từ đó mãi mãi ban trải khắp nơi những niệm tưởng yêu thương, những ý tưởng vĩ đại, bao dung, vô lượng; nơi đây không còn hiện khởi một ý tưởng hận thù ác hại nào". Sau 600 năm Đức Chúa đã nói: "Hãy yêu thương kẻ thù của con, nếu kẻ thù tát vào má bên phải của con, hãy đưa thêm má bên trái cho họ tát". Đức Phật trước đó có phần tích cực hơn một chút, không những đưa má cho kẻ thù tát mà còn ôm chầm lấy bọn cướp bằng tấm lòng yêu thương Niết Bàn (vô ngã).

Đức Thế Tôn đã dạy bài pháp tối hậu được mọi người nhắc mãi–giáo pháp về lòng yêu thương–không phân biệt về giống loài hay con người và toàn sinh vật hữu tình. Con người phải yêu thương đồng bào mình như chính mình; đổi lành lấy dữ; đổi yêu thương lấy hận thù; vị đó phải trải lòng từ bi cho loài cá dưới biển và loài mãnh thú trong rừng, cũng như loài chim trên không trung, cho thảo mộc cây cối, cho dòng sông, rừng núi... Vị đó chớ nên sát hại đồng bào của mình dù là để tự vệ. Tóm lại, toàn bộ chiến tranh đều là thói phàm tục thiếu đạo đức.

Cái duy nhất mà ta phải giết là lòng tham ái và sự hận thù. Chúng không phải ở bên trong mà cũng không phải ở bên ngoài. Con người là người bạn tốt nhất của chính mình, mà cũng là kẻ thù tai hại nhất.

Đức Phật dạy: "Hãy đoạn diệt hận thù bằng tình thương, giữ gìn 5 học giới là trọng yếu sống hạnh phúc".

Chiến tranh là hình thức sát hại, tà dâm, nói láo và uống rượu qui mô nhất; chiến tranh cũng là sự phá hoại qui mô nhất đối với 5 học giới nói trên. Vì lẽ đó chúng ta hãy dạy các con em tinh tấn giữ gìn 5 học giới. Nếu mỗi một em được giáo dục có tâm hạnh chán ghét tuyệt đối việc sát sanh, trộm cắp.v.v... thì nơi nào còn có thể xảy ra chiến tranh trong tương lai nữa? Chúng ta hãy cải biến xã hội bằng cách nhỏ từng giọt phẩm hạnh tình thương và hòa bình vào tâm thức còn mềm dẻo của thanh thiếu niên. Một khi thanh thiếu niên trưởng thành chúng sẽ tuyên bố một cách phản kháng: "Chúng tôi không chiến đấu nữa!". Và đây là tiếng kêu vang dội sẽ bay khắp thế giới. Đây là cách mà nhân dân trên toàn cầu có thể thành tựu việc giảm trừ chiến tranh đưa đến hòa bình thế giới.

Lại nữa, dù chúng ta có dư cảnh sát an ninh, chúng ta vẫn thấy mãi nhiều vụ sát hại, cướp bóc và tà dâm..., dù chúng ta có nhiều đồng minh quốc gia, chúng ta vẫn còn chiến tranh. Chỉ có một cách hoàn toàn chấm dứt tội ác và chiến tranh nghĩa là chúng ta phải có đồn cảnh sát bên trong tâm hồn mỗi người; hãy để mỗi người có cảnh sát riêng cho mỗi người. Khi mọi nguời chuyên cần tự mình kiểm soát an ninh cho chính mình thì nơi đây cần gì cảnh sát bên ngoài, liên minh các quốc gia hoặc là giải trừ vũ khí? Thế nên chúng ta phải dạy các thanh thiếu niên phải cố gắng thọ trì 5 học giới trên, chúng ta phải huấn luyện tuổi trẻ. Đây là cách mà nhân dân trên thế giới có thể giải trừ vũ khí trên toàn cầu.

Chỉ có tu tập 5 học giới mới có thể dập tắt chiến tranh. Bởi vì 5 học giới giúp chúng ta biết yêu thương loài vật và tránh uống rượu–điều mà trong các điều răn không thấy dạy. Trong các điều răn, họ cho phép giết các loài vật và không có điều thứ 11: ngăn cấm uống rượu. Trong Phật Giáo có một huấn thị khuyên không nên uống rượu. Tâm là năng lực có thể đào phá con đường Niết Bàn. Nếu tâm không được trong sáng 100% thì làm sao con người có thể giải thoát cho mình vượt qua tham ái và những kẻ thù nội tâm vốn gây trở ngại cho con đường tiến đến Niết Bàn. Thế nên chúng ta phải giữ gìn bộ não cho sắc bén để có thể triệt phá những kẻ thù bên trong tâm thức mình, nó gây trở ngại cho ta trên bước đường giải thoát. Chúng ta hãy cống hiến cho lớp trẻ những huấn thị đạo hạnh đúng đắn, huấn luyện cho các thanh niên biết chán ghét đam mê khoái lạc giác quan. Nếu món ăn vật chất cần đòi hỏi mỗi ngày cho thân xác thì món ăn tinh thần cũng cần đáp ứng cho tinh thần và óc não. Ngày hôm nay toàn thế giới đang đau khổ vì thiếu món ăn tinh thần. Sự khao khát này là nguyên nhân dẫn đến chiến tranh. Thế nên thế giới cần phải có những chất liệu tốt để dinh dưỡng tinh thần. Chừng nào mà sự khao khát tinh thần trên toàn cầu không còn nữa thì vấn đề giải trừ quân sự và hòa bình thế giới mới có thể đạt được.

Vấn đề then chốt trong việc giải binh toàn cầu và hòa bình thế giới là gì? Liệu có một tấm gương độc nhất nào trong lịch sử, nơi đó nhà vua cai trị đã ổn định hòa bình mà không cần dàn dựng chiến lược quân sự? Có! Hoàng đế ASOKA là tấm gương độc nhất này trong lịch sử. Hoàng đế ASOKA lúc chưa quy y Phật thường chém giết người như giết gà. Nhớ lại trận chiến của nhà vua với dân thành Kalinga, nhà vua tàn sát khắp nơi mà không nương tay, giết 100.000 người và bắt làm nô lệ 150.000 người chỉ vì ông muốn cướp đoạt thêm thành Kalinga.

Chính lòng tham ái và dục vọng cuồng nhiệt muốn chiếm đoạt thêm một thành trì nữa đã khiến nhà vua Asoka tàn sát hàng trăm ngàn người. Vậy mà sau đó quý vị có thể tưởng tượng nỗi, vua xin quy y Phật, hạ bỏ gươm giáo và trở thành con người hiền hòa như con cừu vô hại. Đức Vua tuyên bố với các quốc vương lân cận: "Nay tôi là Phật tử, tôi nguyện từ bỏ chiến tranh chém giết". Và sau đó nhà vua cho ngưng chiến toàn bộ.

Lòng đầy hối tiếc về những điều mình đã gây nên thưở chưa quay về nương tựa nơi giáo Pháp cao siêu của Đức Phật, Đức Vua cho xây nhiều bệnh viện cho nhân dân kể cả bệnh viện cho loài vật, cho đào giếng nước bên đường, tạo công viên và trồng cây bóng mát nhiều nơi. Đức Vua cải biến cách ăn uống hàng ngày và trở thành một Phật tử ăn chay trường. Đồng thời còn cổ vũ trong hoàng tộc, nhân sự phục vụ ... tất cả phát tâm ăn chay.

Vị tông đồ hòa bình này đã làm kinh ngạc thế giới với những trụ đá khắc chữ đồ sộ kiên cố toát ra nội dung tinh thần từ bi vô lượng do Đức Phật giảng dạy. Hoàng Đế ASOKA rộng lòng ban trải đức từ bi Phật tính vô ngại. Nhà Vua còn dũng mãnh gởi các Sứ giả hoằng Pháp sang khắp các nước trên thế giới; kể cả người con trai và người con gái của mình cũng được gởi sang Tích Lan để hoằng Đạo. Hoàng Đế Asoka quả thật đã đóng vai trò trọng yếu trong công đức hòa giải chiến tranh và khôi phục hòa bình thế giới.

Sir Edwin Arnold–tác giả tập sách "Ánh sáng Á Châu" đã ghi những lời: "Phật Giáo là tôn giáo có từ bản thân tính thường trụ, niềm hy vọng của toàn cầu. Sự bất diệt của đức từ bi vô lượng và nhân tố bất hoại của lòng tin vào quả lành sau cùng, cũng như sự khẳng định tự hào nhất trong quá trình từng xây dựng hòa bình cho nhân loại. Điều hãnh diện nữa là trong suốt 2500 năm, Phật Giáo chưa bao giờ làm rơi một giọt máu nào, cũng không bao giờ có những cuộc thập tự chinh nẩy lửa hay cuộc hành quyết đầy sắc máu, không hề đưa một tín đồ Phật tử nào lên giàn hỏa bởi vì Phật Giáo thường dạy lòng đại từ đại bi đối với chúng sanh không phân biệt".

Trường hợp của tôi cũng vậy. Quý vị có ngạc nhiên không khi biết rằng chúng tôi cũng suýt bị chôn sống khi đang thuyết giảng bài Pháp về triết học Phật Giáo.

Vấn đề tự thắng mình là chiến thắng vĩ đại trong tất cả mọi sự chiến thắng, vì Đức Thế Tôn đã dạy:

Dù tại bãi chiến trường

Ngàn lần thắng ngàn người

Nhưng tự thắng chính mình

Là người thắng vĩ đại.

Thế nên mỗi người chúng ta hãy tự chiến thắng mình, có được như vậy thì thế giới mới được bình yên phúc lạc.

Tất cả mọi người hãy rộng lòng ban trải hạnh từ bi hỷ xả. Hãy đối xử với người lân cận như chính mình, bởi vì nếu người lân cận là chính mình thì mọi sự sống đều là một và toàn thế giới sẽ được an lạc, không còn hận thù.

Đức Phật đã dạy một quy luật muôn đời: "Lấy oán báo thù, oán thù, chồng chất. Lấy đức báo oán, oán tự tiêu tan". Nhiều ngườì tin rằng họ có thể tiêu diệt hận thù bằng sự thù hận khác thô bạo hơn–nhưng không bao giờ được. Chỉ có cách ngược lại là dùng tình thương mới đoạn diệt được hận thù, thì nhất định hòa bình hiện hữu trường tồn.

Phạt án tử hình cũng là một trong những nguyên nhân của chiến tranh. Hỡi các nhà làm luật! Tại sao quý vị không giam sống họ trong nhà tù? Quý vị phải biết rằng tội nhân có thể kiếm sống trong trại giam bằng sự lao động có ích lợi cho họ. Chắc quý vị cũng biết tử hình là hình thức bạo ngược triệt phá lòng rthân từ. Và nhớ rằng khi tình thương yêu ra đi thì hòa bình cũng đi theo luôn. Giết nhiều người trong các nhà tù là đưa đến tàn sát con người ngoài mặt trận. Hành động đó là biện pháp kinh tế tầm thường khi nghĩ đến phương sách tiết kiệm tiền bạc bằng cách giết bớt những kẻ sát nhân. Cuộc chém giết như vậy dẫn đến cuộc thảm sát tập thể ngoài chiến trường với hậu quả tổn thất vô cùng to lớn.

Tử hình là áp dụng thực tế theo luật Moses nghĩa là mắt đổi mắt, răng đổi răng, mạng đổi mạng...Nhưng luật ăn miếng trả miếng này hoàn toàn khác với luật "Bất phản kháng" của Chúa Jésus có nghĩa là không chống lại điều ác: nếu ai tát má bên phải; bạn đưa thêm má bên trái cho tát. Sự thù hận luôn luôn đưa đến chiến tranh, tha thứ đưa đến Hòa Bình tịnh lạc.

Ước gì tôi có khả năng chuyển hóa tâm thức các nhà lãnh tụ, các tướng quân trên thế giới. Tôi sẽ khuyên họ: tại sao quý vị lại thích giao tranh, xâm chiếm lãnh thổ lẫn nhau? đất đai cơ đồ này có giá trị gì. Máu xương của loài người mới đáng giá! Tôi tin rằng quý vị cũng không biết mình gây chiến tranh để làm gì. Lòng tham ái si mê đã che mờ mắt quý vị khiến cho quý vị ham gây chiến. Tại sao quý vị lại muốn tuôn ra hàng biển máu chỉ đổi lấy thứ đất bùn vô giá trị. Thật là bi thương khủng khiếp! Hàng biển nước mắt hòa chung với máu của bao sinh linh đàn ông, đàn bà, con nít, nát tan từng mảnh trong sự thống khổ điêu tàn của chiến tranh quy mô.

Trong khi các nước đang hung hăng tiêu diệt lẫn nhau không chút thương xót, chúng ta nên mạnh dạn cất tiếng nói; rung lên hồi chuông báo động để cứu vớt nhân loại đang khổ đau trong sự hủy diệt và đang rơi vào trong các đọa xứ. Quý vị không nhận ra rằng chính mình đang hạ sát huynh đệ của mình chứ không phải kẻ thù. Mọi quốc gia đều là thiện hữu tâm giao. Tham ái, sân hận, ngu si mới là kẻ thù của quý vị. Kẻ thù nguy hiểm này đang nằm bên trong ta.

Đức Bồ Tát đã dạy: "Thà chết mà chiến thắng cám dỗ còn hơn là sống mà phải thảm bại"; cho nên tự chiến thắng mình mới là chiến thắng vĩ đại.

Các quốc vương thích giao tranh nhưng không phải chiến trường trong tâm. Nếu các vị lãnh tụ tự chinh phục mình thay vì chinh phục kẻ thù bên ngoài thì họ sẽ tận hưởng hòa bình an lạc. Thời Cổ đại xa xưa có tục lệ vua giao chiến với vua. Tôi nhớ không lầm, lịch sử của Silanka (Ceylon) vua Dutugemunu giao tranh với vua Elasa nói: "Để ta giao chiến với đối thủ". Vậy là quân lính giạt ra hai bên làm khán giả, nhìn hai tướng quân của mình so gươm sinh tử. Quân lính sẽ thấy rõ ai là người thắng, ai là kẻ bại cuộc. Vua Dutu giết chết vua Elasa, tức thì quân lính của phía bại trận chạy về; cuộc chiến chấm dứt. Tập tục này thật hay, cứu được nhiều mạng người. Đó là loại chiến thuật chìến lược hết sức tiết kiệm. Chỉ có một trong hai người chết, còn bao nhiêu đều sống sót. Quả là đại hạnh phúc.

Có một sự kiện mà các nhà chiến sự không mấy ai thông hiểu, đó là một niệm tưởng cuối cùng của một quân sĩ vừa tắt thở. Đức Phật đã dạy: Những vị được gọi là anh hùng đó lúc chết ngoài chiến trường, linh thức sẽ đi thẳng vào địa ngục "địa ngục bạt thiệt" vì tranh chấp lý sự. Điều gì xảy ra? Bởi vì niệm tưởng sau cùng là niệm tưởng sân hận. Hàng ngàn quân sĩ đang chết mỗi ngày sẽ tái sinh vào địa ngục. Chiến tranh không phải là khốn khổ sao? Vui thích phần mình có một thoáng chốc và sau đó phải rơi vào các đọa xứ địa ngục. Vì vậy chúng ta không nên vui thích sát hại sinh mạng kẻ khác mà nên kham nhẫn trải lòng từ và quên lãng mọi sự.

Một nước nào đó bị bại trận sẽ nuôi hận trong tâm. Chúng ta chiến thắng tức là đã tạo thêm nhiều kẻ thù. Vì vậy nên hòa hoãn và tha thứ. Người thắng, kẻ thua phải ôm chầm nhau trong tình thân ái như hai võ sĩ giao đấu trên võ đài. Sau trận đấu họ bắt tay nhau nở nụ cười trong tinh thần võ sĩ đạo cao thượng. Cũng theo gương đó, khi các quốc vương chấm dứt cuộc chiến thế giới, các quốc gia hãy bắt tay nhau. Chúng ta chỉ cần có vậy, chúng ta nên giúp đỡ lẫn nhau.

Vì khát vọng của mỗi quốc gia là Hòa Bình. Quê hương họ có còn thống khổ do sự khủng khiếp của chiến tranh đẫm máu nữa không? Lòng tham dục đã khiến họ tham chiến! Lòng nham hiểm của con người thì vô tận. Sự hủy diệt loài sinh vật chính là nguyên nhân tiêu diệt loài người. Chiến tranh đang bừng cháy, ngọn lửa bên trong, ngọn lửa bên ngoài, lửa cháy khắp nơi. Lòng tham là ngọn lửa hung tàn nhất. Đam mê dục vọng là nguyên nhân gây ra chiến tranh, chiến tranh bên trong tâm hồn là nguyên nhân thúc đẩy chiến tranh bên ngoài.

Người chiến thắng vĩ đại nhất mà thế giới từng ca ngợi đó là Đức Phật–người chiến thắng vô song. Những hào kiệt như Alexander Ceasar, Napoleon không thể đem so sánh với Đức Phật, vì Ngài là bậc Giác Ngộ chinh phục được toàn thế giới, điều mà những người khác không thể thực hiện được.

Chúng ta hãy làm cho các lãnh tụ quốc gia hiểu rằng cố gắng chinh phục thế giới bằng hận thù đều vô ích. Chúng ta hãy noi gương Đức Phật hàng phục thế giới bằng tình thương. Người chiến thắng vinh quang nhất bằng hận thù chỉ đưa đến bại vong sau cùng. Đức Phật đã hàng phục thế giới cách đây 2500 năm bằng loại vũ khí tình thương và chân lý như thực. Ngài mãi mãi là bậc Thầy của nhân loại, là ánh sáng của 10 ngàn thế giới, làm cho mọi chúng sinh trở thành những máy phát điện tình thương, những bộ pin tình thương, những đài phát thanh tình thương, khiến cho con người tỏa sáng mãnh liệt những niệm tưởng từ bi vô lượng trên khắp vũ trụ nhân gian. Dù đi, đứng, nằm, ngồi, hãy làm cho chúng sinh tràn ngập lòng từ bi khắp nơi. Chỉ có tình thương mới hàng phục được hận thù. Bởi vì tịnh hóa thế giới mới đưa đến hòa bình thế giới.

Chúng ta hy vọng rằng thế giới này sẽ chuyển hóa thành quốc độ Phật, tràn ngập lòng từ bi phổ khắp đến vô lượng chúng sinh, bởi vì chỉ khi nào tình thương trở thành thân thiết, nơi đó sẽ không còn có biên cương, địa giới, không còn kỳ thị; thế giới sẽ thực sự hưởng được hòa bình an lạc khắp nơi. Hãy nhớ rằng ngay như cõi Trời cũng có chiến tranh. Chúng ta được Kinh Phật dạy rằng chư Thiên và Thần Atula đã từng giao chiến với nhau. Nếu các vị Thần Thánh mà không thể hòa mình với nhau, làm sao con người có được. Điều đó khá bi quan và mâu thuẫn. Dù sao thì mỗi người chúng ta vẫn có thể tự chinh phục mình. Tất cả sau cùng sẽ tự thắng mình, bởi vì mọi người đều bình đẳng và khi đã dũng cảm hàng phục được mình thì toàn bộ thế giới sẽ thực sự hưởng được hòa bình an lạc.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com