Mười Bốn Điều Phật Dạy (PDF)

09/12/201222:52(Xem: 20578)
Mười Bốn Điều Phật Dạy (PDF)
TỦ SÁCH ĐẠO PHẬT NGÀY NAY
THÍCH NHẬT TỪ
MƯỜI BỐN ĐIỀU
PHẬT DẠY
Phiên tả:
Đào Bích, Nguyễn Hoa, Diệu Tịnh, Bích Thảo
Sơn Dương, Ngọc Phương
Hiệu chỉnh phiên tả:
Thích Nữ Tâm Minh
NHÀ XUẤT BẢN HỒNG ĐỨC



MỤC LỤC
Lời đầu sách
Điều I: Vượt qua cái tôi
Điều II: Đừng tự lừa dối mình
Điều III: Tự đại sẽ đưa đến thất bại
Điều IV: Tùy hỷ để xả bỏ cái tôi.
Điều V: Đừng đánh mất chính mình.
Điều VI: Hiếu kính cha mẹ.
Điều VII: Tự ti là khóa các tiềm năng.
Điều VIII: Biết đứng dậy sau vấp ngã.
Điều IX: Nuôi dưỡng ước muốn
Điều X: Có sức khỏe là có tất cả
Điều XI: Ái tình là sợi dây ràng buộc.
Điều XII: Khoan dung độ lượng.
Điều XIII: Con đường tuệ giác.
Điều XIV: Bố thí sẽ được an vui.

LỜI ĐẦU SÁCH

muoibondieuphatday-02-contentNgười ta thường nói rằng tác giả 14 điều Phật dạy là Hòa thượng Kim Cang Tử. Thực tế không phải như vậy. Hòa thượng Kim Cang Tử chỉ có công phiên dịch 14 điều này ra từ chữ Hán. Vào những năm 1998-1999, ta mới thấy 14 câu này được lưu hành. Gần đây, chúng tôi có đọc được bản nguyên tác chữ Hán có ghi rõ xuất xứ là chùa Thiếu Lâm ở Trung Quốc tặng cho các phái đoàn Việt Nam.

Có lẽ là phái đoàn của Hòa thượng Kim Cang Tử nhận được phần quà này, thấy hay nên Hòa thượng đã phát tâm dịch ra rồi để tên mình bên dưới, vô tình làm cho những người phổ biến những điều răn này dưới dạng thư pháp và tranh ảnh treo tường tưởng rằng Hòa thượng là tác giả. Đã gọi là 14 điều răn của Phật thì tác giả không thể là người phàm được. Do đó ta phải hiểu là không có bản kinh nào tên là “Kinh 14 điều răn”. Chỉ biết là chùa Thiếu Lâm - Trung Quốc đã tuyển chọn được 14 câu tư tưởng, mà theo họ là có nội dung hay để chia sẻ như những danh ngôn dành cho mọi người.

Khi tiếp nhận tác phẩm này, ta phải phân tích dưới góc độ hiện đại sẽ có hiệu quả cao hơn là sử dụng ngôn ngữ gốc. Bởi vì ta thấy trong bản dịch tiếng Việt, từ ngữ hiện đại được sử dụng nhiều và từ ngữ truyền thống ít được sử dụng. Đây cũng là dụng ý mà Hòa thượng Kim Cang Tử đã gởi gắm qua bản dịch mà tôi cho rằng rất thành công.

Bản dịch tiếng Việt dùng từ điều răn; từ này khiế n cho người ứng dụng hà nh trì có cảm giác như bị ép buộc, răn đe. Đạo đức học Phật giá o ít dùng khái niệm điều răn, mà dùng điều đạo đức. Nguyên ngữ trong tiếng Pàli gọi là Sila, tức điều đạo đức. Khi gọ i là điề u đạ o đứ c, ngườ i ứ ng dụ ng hà nh trì sẽ cả m thấy có nhu cầu hướng tớ i, bởi điều đạo đức luôn mang đế n hạnh phúc an lành cho con người.

Các bản dịch cần có độ chính xác. Tùy theo ngữ cảnh có thể vận dụng khéo léo cho phù hợp để tôn thêm ý nghĩa, hiệu quả , nhưng không nên dễ dãi thuậ n theo những từ ngữ thường dùng mà làm lệch đi ý nghĩa nguyên tác.
Chúng tôi xin đề nghị đổi câu 14 điều răn của Phật thành 14 điều Phật dạy, nghe bình dị và gần gũi hơn. Gọi là điều dạy, điều minh triết hay câu danh ngôn thì phù hợp vớ i nội dung và ý nghĩa củ a lời Phật nó i ơn.

Qua nghiên cứu kinh tạng Pàli, kinh điển A-hàm và kinh Đại thừa, chúng tôi có thể đánh giá rằng không có bài kinh nào trong nguyên hệ chứa đủ 14 điều Phật dạy được phổ biến và lưu truyền ở chùa Thiếu Lâm Tung Sơn. Như vậy, 14 điề u Phậ t dạ y đượ c trích dẫn, gộ p lạ i từ những ý tưởng sâu sắc trong nhiều bản kinh khác nhau. Cũng giống như bộ kinh Pháp Cú của Phật giáo Nam tông và kinh 42 Chương của Phật giáo Đại thừa. Cả hai kinh đề u dạy cách tu tập đại hạnh, giúp ta có cái nhìn bao quát về minh triết đức Phật dạy trong đời sống. Kinh Pháp Cú gồm 423 câu, chia làm nhiều chương, mỗi chương một chủ đề. Kinh 42 Chương gồ m 42 đoạn văn trích dẫn từ những bài kinh trong ba kho tàng kinh điển theo dụng ý của ngài Ca Diếp Ma Đằng và Trúc Pháp Lan. Năm 1989, chúng tôi biên soạn quyển kinh 42 Chương, tì m kiế m miệ t mà i mớ i phát hiện đượ c gần như 2/3 xuất xứ của kinh nằ m trong ba kho tàng kinh điển; do vậ y mà phả i đế n 18 năm sau (2007) chú ng tôi mới ấn bản đượ c (khoả ng 500 trang).

Việ c truy tì m xuấ t xứ củ a 14 điề u Phậ t dạy rút từ cá c tạ ng kinh là rất khó. Tạm thời chúng ta chưa vội quan tâm đến vấ n đề nà y mà chỉ tậ p trung phân tích nội dung, triết lý cũng như giá trị ứng dụng củ a 14 điề u Phậ t dạy cho việ c hà nh trì tu tậ p và sinh hoạt trong đờ i số ng hằ ng ngà y.

Kính chúc quý Phật tử tu được tinh tấn, góp phần đưa tuệ giác của đức Phật vào cuộc đời thông qua con đường bố thí. Những người Phật tử có cơ hội làm tốt được hai vai trò này cũng như những người xuất gia, chúng ta không nên nghĩ con đường hoằng pháp chỉ dành cho người tu mà thôi. Còn người tu, ngược lại cũng phải nghĩ rằng: Chức năng truyền tuệ giác là chức năng truyền thống, nếu ta kết hợp thêm công tác từ thiện thì hiệu quả giáo dục truyền thống của nhà Phật sẽ đạt hiệu quả rất cao.

TT. Thích Nhật Từ
Tổng Biên tập
Tạp chí và Tủ sách Đạo Phật Ngày Nay


Đọc chi tiết nội dung: MƯỜI BỐN ĐIỀU PHẬT DẠY- Thích Nhật Từ (PDF)

Xem video:Thầy Thích Nhật Từ giảng tại chùa Thanh Nhàn (Hà Nội) ngày 29-06-2008
Xem thêm bài liên quan:
MƯỜI BỐN ĐIỀU RĂN CỦA PHẬT

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
22/10/2025(Xem: 839)
Các học thuyết xã hội và giáo lý tôn giáo đã tranh luận rất nhiều về sự giải phóng con người, và tất cả đều hướng tới một thế giới tự do lý tưởng vì tự do là khát vọng muôn đời của loài người. Thế giới lý tưởng đó là thiên đường đầy hoa trái, chỉ có hạnh phúc, tình yêu và không có hận thù theo Cơ đốc giáo1 và cả Hồi giáo2. Nho giáo, Đạo của sĩ phu của quân tử, thì cho rằng xã hội lý tưởng là một thế giới lý tưởng của kẻ sĩ, của bậc quân tử (Trần Trọng Kim, 1996, tr. 106)3.
25/08/2025(Xem: 844)
Kinh Kim Cang có tên gọi đầy đủ là “Kinh Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật” (Vajracchedika Prajna Paramita Sutra, tiếng Phạn) tương truyền được đức Phật thuyết giảng vào thời Bát Nhã, khoảng 20 năm sau ngày Phật Thành Đạo, và là 1 trong 600 quyển kinh thuộc hệ Đại Bát Nhã. Sau đó, kinh được đưa từ Ấn Độ sang qua Trung Quốc vào khoảng hậu bán thế kỷ thứ hai và được dịch từ Phạn văn sang Hán văn bởi nhiều vị dịch giả, trong đó bản dịch vào năm 401 của ngài Cưu Ma La Thập (344-413) được xem là phổ dụng nhất. Tổng số chữ (Hán tự) trong kinh này chỉ có 4,720 chữ, bao gồm 8 chữ tựa đề kinh. Điểm đặc biệt là bố cục kinh không có phân đoạn ra các chương, các phẩm
25/04/2025(Xem: 2335)
Đôi khi bạn rơi vào một diễn đàn Phật pháp trên Internet, bất ngờ lại thấy tranh cãi bộ phái, rằng chuyện Nam Tông thế này và Bắc Tông thế kia , rằng chuyện Thiền Tông bên ni và Tịnh Độ bên nớ, và những chuyện tương tự... khi người này nói rằng chỉ có họ đúng và người khác hẳn phải là sai. Ngay cả đôi khi bạn mở truyền hình ra xem, cũng bất ngờ khi thấy một vị sư hay một cư sĩ Phật tử nói những chuyện tương tự. Những tranh cãi hiện ra bất kể rằng họ cùng thờ Đức Phật, cùng công nhận các pháp ấn, cùng tu pháp Bát Chánh Đạo, nhưng một khác biệt nào đó đã được xem là lệch nghĩa. Dò lại kinh điển, chúng ta thấy rằng Đức Phật nói rằng người trí sẽ không thấy gì để tranh cãi nữa, vì tâm họ đã xa lìa cõi này.
15/01/2025(Xem: 1071)
Thiền Tông dạy rằng người nào sống với Vô tâm là giải thoát. Trần Nhân Tông, vị Thiền sư nổi tiếng của Việt Nam trong thế kỷ 13, từng viết rằng khi gặp cảnh, giữ được vô tâm, thì không cần hỏi tới Thiền nữa. Đức Phật trước đó đã dạy pháp Vô tâm trong Kinh Phật Tự Thuyết Ud 1.10. Bài này sẽ viết theo nhiều bản Anh dịch trên Sutta Central. Một đạo sĩ tên là Bahiya cư trú ở thị trấn Supparaka. Bahiya được cư dân tôn kính, cúng dường y phụ, nhà ở và nhiều thứ. Bahiya tự tin rằng đã chứng quả A la hán, hoặc sắp thành A la hán. Một vị cõi trời, kiếp trước từng là người thân của Bahiya, muốn điều tốt lành cho Bahiya, nên hiện ra, nói với Bahiya rằng Bahiya chưa phải là A la hán, và cũng chưa tu đúng con đường để trở thành A la hán.
15/01/2025(Xem: 1107)
Trong rất nhiều truyện cổ dân gian Việt Nam, cũng như truyện cổ của nhiều quốc gia khác trên thế giới, có một niềm tin vững chắc rằng mỗi người chúng ta đều có một kiếp sau ở tương lai. Không chỉ riêng với Phật giáo dân gian, hầu hết (và có thể là tất cả) các tôn giáo khác, đều tin rằng có một kiếp sau, hay một đời sau. Chuyện kiếp sau này cần được phân tích minh bạch, để không rơi vào một niềm tin nhầm lẫn.
15/01/2025(Xem: 1203)
Bài này sẽ viết trong tinh thần đối chiếu Kinh Pháp Cú với Thiền Tông. Để nói lên một phương pháp của Thiền rằng, trong khi thiền tập, hễ tin Phật hay nghi Phật đều sẽ hỏng, đều rơi vào bất thiện pháp, sẽ không thấy được pháp Vô Vi. Muốn vào đạo Phật, trước tiên phải tin và phải quy y Phật, Pháp, và Tăng. Người tu theo lời Phật dạy phải tin vào Tứ Thánh Đế, tức là Khổ, Tập, Diệt, Đạo. Trong khi tu tập, người tu phải thành tựu tín, giới, văn, thí, huệ mới có thể đoạn trừ bất thiện pháp. Như vậy, người không có lòng tin chắc thật vào Đức Phật sẽ không đi được con đường dài như thế để thành tựu giải thoát.
15/01/2025(Xem: 915)
Bài này sẽ nói về vai trò của người cư sĩ với nhiệm vụ nên học nhiều về Kinh điển, nên hiểu Phật pháp cho thâm sâu, nên tu tinh tấn để làm gương cho người đời thường, và nên sống đơn giản nhằm thích nghi với mọi hoàn cảnh cần để hoằng pháp. Không phải ai cũng có cơ duyên để học nhiều về Kinh điển. May mắn, thời nay chúng ta đã có kinh điển dịch ra tiếng Việt rất nhiều. Các Kinh điển, Bộ Nikaya và Bộ A Hàm đều đã dịch ra tiếng Việt. Trong khi đó, các buổi giảng Kinh do nhiều vị tăng ni thực hiện đã phổ biến nhiều trên YouTube và các trang web về Phật học. Những gì thắc mắc, có thể hỏi trên mạng Google hay các mạng trí tuệ nhân tạo, như ChatGPT hay Gemini, đều có thể được giải thích ở mức độ tổng quát. Tuy nhiên các giải thích này đều khả vấn, có khi là trích dẫn theo sự giải thích của các học giả Ky Tô Giáo hay không phải Phật tử, cần kiểm chứng.
15/01/2025(Xem: 938)
Trong khi học Phật, chúng ta thường đọc thấy ba pháp ấn là vô thường, khổ, và vô ngã. Đôi khi, chúng ta đọc thấy trong kinh nói về bốn pháp ấn là vô thường, khổ, vô ngã và Niết Bàn. Tùy theo dị biệt bộ phái, mỗi vị thầy ưa nói cách này hay cách kia. Thực tế, nói cách nào cũng đúng, cũng phù hợp kinh điển. Trong khi đó, theo cách nhìn của Thiền tông Việt Nam, tất cả các pháp tự thân đã là tịch diệt, bời vì lìa phiền não thì không có bồ đề, lìa sanh tử thì không có Niết bàn. Cũng như sóng không lìa nước, và ảnh không lìa gương. Do vậy, Thiền tông nêu lên ý chỉ là phải nhìn thấy để sống với pháp tánh, với Niết bàn tự tâm.
15/01/2025(Xem: 1113)
Trong nhiều kinh, Đức Phật khi giải thích về vô thường đã hỏi rằng có phải mắt và cái được thấy là vô thường hay không, rồi hỏi có phải tai và cái được nghe là vô thường hay không, và rồi vân vân. Như thế, đối với nhiều người tu, quán sát nơi con mắt sẽ là bước đầu để học đạo giải thoát. Tuy nhiên, đối với Thiền Tông Việt Nam, có một số vị thầy dạy rằng hãy nhìn như một người mù nhìn, và hãy nghe như một người điếc nghe. Lời dạy về con đường giải thoát này là như thế nào?
15/01/2025(Xem: 1054)
Khi chúng ta nói rằng nhiều người Việt Nam đã học đạo từ khi nằm nôi, chỉ là một hình ảnh cho thấy Phật giáo đã gắn bó với lịch sử dân tộc Việt Nam từ nhiểu ngàn năm. Nhiều lời dạy trong Kinh Phật đã ăn sâu vào trong chính sử, và cả huyền sử của dân tộc Việt.