Tam Bảo
Tam Bảo (Phật, Pháp, Tăng) như ba viên ngọc quý không gì có thể so sánh được và Tam Bảo có 6 ý nghĩa không thể nghĩ bàn:
_ Một là nghĩa hy hữu, tức là hiếm có, khó được như vàng, bạc, kim cương, ngọc quý… người nghèo khó có được. Phật-Pháp-Tăng cũng vậy! Dù người ở sát bên chùa nhưng thiếu phước cũng khó gặp, không thể thân cận với Tam Bảo nên gọi là hy hữu.
_ Hai là nghĩa ly cấu, tức lìa xa những việc xấu ác, hay làm những việc tốt lành, như châu báu thế gian trong sáng, sạch đẹp, không tỳ vết, khó vấy bẩn. Phật-Pháp-Tăng cũng vậy! Hay xa lìa phiền não, xấu ác nên gọi là ly cấu.
_ Ba là nghĩa thế lực, như châu báu ở thế gian có thế lực lớn giúp người vượt qua nghèo khó, còn dùng trị bệnh trúng độc. Tam Bảo cũng vậy! Có đủ sáu phép thần thông (Lục thông) tùy cơ ứng biến dứt kiếp nghèo khổ, giải thoát được sanh tử luân hồi nên gọi là thế lực.
_ Bốn là nghĩa trang nghiêm, như châu báu ở thế gian làm đồ trang sức cho thân thể trở nên xinh đẹp, lộng lẫy, ai cũng muốn ngắm nhìn. Tam Bảo cũng vậy! Lấy nhân quả, nghiệp báo, nhân duyên làm nền tảng giúp con người làm chủ bản thân, tâm trí trở nên sáng suốt, thanh tịnh, làm việc chân chánh nên gọi là trang nghiêm.
_ Năm là nghĩa tối thắng, như châu báu ở thế gian quý hơn tất cả mọi vật nhưng xét cho cùng không quý bằng mạng sống con người. Tam Bảo cũng vậy! Là pháp thù thắng hơn hết giúp con người vượt qua nỗi khổ, niềm đau, sống được an vui, hạnh phúc nên gọi là tối thắng.
_ Sáu là nghĩa bất biến (không thay đổi), như vàng ròng ở thế gian dù đập, nấu, mài, dũa vẫn không thay đổi bản chất. Tam Bảo cũng vậy! Người thân cận Tam Bảo tất được an vui, hạnh phúc, không có gì cao hơn, hay hơn, không ai có thể làm tốt hơn, không bị vô thường chi phối, nước không thể cuốn trôi, lửa không thể thiêu đốt nên gọi là bất biến.