Phan Minh Đức
Cầu an là mong muốn có được đời sống an vui hạnh phúc, không bệnh tật, khổ não, ít rủi ro, bất trắc…
“An” ở mỗi con người phải là thân an, (khỏe mạnh, sống lâu, không bệnh tật, không tai nạn, rủi ro…), tâm an (trạng thái tinh thần thanh thản, thoải mái, không lo âu phiền muộn, không sợ hãi, khủng hoảng, không căng thẳng bức bối…), hoàn cảnh an (gia đình ấm no hạnh phúc, điều kiện sống, hoàn cảnh sống tốt, các mối quan hệ tốt đẹp, gặp nhiều thuận duyên trong cuộc sống…).
Muốn được những điều đó cần phải tu dưỡng, rèn luyện thân, tâm, tích cực xây dựng đời sống cá nhân, đời sống xã hội trên tinh thần nhân quả, có chánh kiến (thấy, biết chơn chánh, nhận thức đúng đắn), chánh tư duy (suy nghĩ chơn chánh, tích cực), chánh ngữ (lời nói chơn chánh, hiền hòa, từ ái, có lợi ích thiết thực cho mình và cho người), chánh nghiệp (hành vi chơn chánh, ba nghiệp thân, khẩu, ý trong sạch), chánh mạng (nuôi sống thân mạng bằng nghề nghiệp, việc làm chơn chánh), chánh niệm (ý niệm chơn chánh, thường nhớ nghĩ điều lành, không vọng tưởng điên đảo, không niệm tham, sân, si), có tu tập thiền định (để có năng lực làm chủ cảm xúc, tình cảm, tâm lý, không dễ dàng bị lôi cuốn, cám dỗ bởi hành vi, lối sống tiêu cực, bất thiện), trí tuệ (nhận thức sáng suốt, năng lực hiểu biết đúng đắn, tích cực giúp xác định rõ đâu là điều thiện, đâu là điều bất thiện, hành vi nào mang lại an lạc, hạnh phúc cho mình và tha nhân.
Cao hơn nữa là thấy rõ bản chất của đời sống (duyên sinh, vô thường, khổ, không, vô ngã), thoát khỏi những ảo tưởng, ảo kiến của người bình thường, từ đó không còn bị ràng buộc, hệ luỵ, không còn những bất an, đau khổ).
Nếu chúng ta muốn xây dựng một đời sống an vui hạnh phúc thì không gì hơn cố gắng tạo nhiều thiện nghiệp, không làm phát sinh những bất thiện nghiệp chưa phát sinh và chừa bỏ những bất thiện nghiệp đã tạo.
Có thể đời sống hiện tại của chúng ta đang gặp nhiều khó khăn, khổ đau, bất hạnh, đó là do nghiệp nhân từ những đời trước hoặc quá khứ của đời này, nhưng các nghiệp thiện được tạo tác trong hiện tại có thể hóa giải phần nào các nghiệp bất thiện trước kia. Bởi vì từ nhân đi đến quả có các yếu tố duyên (các nhân phụ) xen vào nên nghiệp quả sẽ có sự chuyển biến. Cũng có trường hợp nghiệp quả không hình thành do sự can thiệp quá mạnh của các duyên.
Trong kinh Pháp cú Thí dụ, phẩm Vô thường thứ I có kể về vị trời Đế Thích sắp mãn phước, mất đi năm đức tướng (Ngũ suy tướng: 1. Mất hào quang, thân thể hôi dơ, 2. Hoa trên mão đội trên đầu khô héo, 3. Không còn ưa thích chỗ ở của mình, 4. Dưới nách chảy mồ hôi dơ, 5. Bụi bám lên thân).
Ông biết mình sắp mạng chung và tái sinh vào thai con lừa của một người thợ làm đồ gốm. Ông hết sức lo buồn, vội tìm đến chỗ Phật xin Phật cứu độ cho. Đế Thích đến nơi gặp Phật liền phủ phục sát đất đảnh lễ, chí tâm quy mạng Phật, Pháp, Tăng. Nhờ công đức phước lành đó mà ông thoát khỏi kiếp lừa sắp tái sinh và giữ được thân tướng Thiên Đế đầy đủ năm đức tướng.
Vì thế cần phải hiểu là tất cả những gì trong hiện tại không phải hoàn toàn do nghiệp nhân các đời quá khứ quyết định mà còn do nghiệp nhân trong hiện tại tạo nên, đó là thái độ sống, quan niệm, những suy nghĩ, hành vi tiêu cực hoặc tích cực trong hiện tại. Cho nên không tạo nghiệp nhân xấu, tạo nhiều nghiệp nhân thiện trong hiện tại là thái độ sáng suốt để cải thiện đời sống bất như ý và xây dựng đời sống an vui hạnh phúc cho mình. Đó là cách thức cầu an tích cực.
Ta có thể chuyển nghiệp nặng thành nhẹ bằng cách ăn năn sám hối những nghiệp đã tạo và nỗ lực tu tập, tạo các nhân duyên lành làm trở ngại sự hình thành nghiệp quả. Bằng sự thực hành các thiện pháp, bằng sự tu tập giới, định, tuệ, chúng ta có thể vô hiệu hoá các nghiệp nhẹ mà đáng lẽ chúng ta phải nhận lãnh quả báo.
Ngoài sự chuyển hoá tâm ra thì mọi nhân duyên can thiệp vào cơ chế nhân quả đều có giá trị tạm thời hoặc phản tác dụng. Ví dụ như dùng quyền năng của chú thuật hay thần thông để ngăn chặn nghiệp quả, né tránh nghiệp quả thì chỉ có thể trốn tránh nhất thời chứ không trốn tranh mãi được.
Chỉ những người có thiện tâm, hành động của thân, khẩu, ý đều là hành động thiện lành thì những nghiệp nhân đó khế hợp với bổn hoài chư Phật, tương ưng với tâm đại bi của chư Phật nên chiêu cảm quả báo tốt, biểu hiện ở chỗ cầu có linh ứng, có hiệu nghiệm, gặp nhiều thuận duyên v.v... chứ không phải Phật, Bồ-tát ban phước hay tiêu trừ nghiệp chướng cho chúng ta.
Không ai có thể ban phước giáng họa cho chúng ta kể cả Đức Phật. Nếu người tạo nhiều nghiệp bất thiện mà người khác có thể gánh chịu thay cho hoặc giúp cho thoát khỏi quả khổ thì định luật nhân quả nghiệp báo không còn. Đức Phật cứu độ chúng ta là giúp cải thiện chính mình, từ đó làm thay đổi hoàn cảnh.
Khi chúng ta phát khởi thiện tâm chính là tạo nghiệp nhân thiện, từ đó đưa đến quả báo tốt: Đời sống an vui hạnh phúc, gặp nhiều điều xứng ý vừa lòng. Hành động đi chùa cúng dường Tam bảo, kính Phật, trọng Tăng là hành động thiện, là nghiệp nhân thiện tất nhiên đưa đến quả báo tốt đẹp chứ kỳ thực không ai ban cho ta cả.
Trong kinh Pháp Cú Đức Phật có dạy: “Trong các pháp, tâm dẫn đầu, tâm làm chủ, tâm tạo tác. Nếu nói năng, hành động với tâm ô nhiễm thì sự khổ sẽ theo nghiệp kéo đến như bánh xe lăn theo chân con vật kéo. Nếu nói năng, hành động với tâm thanh tịnh thì sự vui sẽ theo nghiệp kéo đến như bóng theo hình” (Pháp Cú 1-2, Phẩm Song Yếu).
Nếu chúng ta sống đời sống không chơn chánh, đời sống bất thiện (trộm cắp, cướp giật, lừa đảo, chiếm đoạt, mua gian bán lận, giả dối lọc lừa, làm giàu bằng xương máu kẻ khác…), nếu chúng ta sống buông thả không có trách nhiệm đối với bản thân, đối với gia đình, xã hội (rượu chè, cờ bạc, sa đọa, truỵ lạc, làm khổ cho mình và người khác…) thì dù có cầu cho lắm cũng không an, cầu đến đâu cũng không ai cứu độ được. Nên nhớ, ý nghĩa cầu an trong đạo Phật khác các tín ngưỡng dân gian và các tôn giáo thần quyền.
Trong vấn đề cầu siêu cũng vậy, không thể cầu cho người tạo nhiều ác nghiệp được siêu thoát theo ý muốn của mình. Tất cả những việc làm lúc sinh thời là thiện nghiệp hay ác nghiệp, sau khi chết sẽ phải nhận lãnh kết quả dưới hình thức tái sinh cao hay thấp. Tức con người sau khi chết sẽ siêu thoát (tái sinh vào nhàn cảnh) hay đọa lạc (tái sinh vào khổ cảnh) tùy thuộc vào nghiệp mà mình đã tạo.
Cầu siêu có nghĩa là mong muốn hương linh người đã khuất siêu thoát khỏi khổ cảnh (địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh), được tái sinh vào cõi người hoặc các lạc cảnh khác (cõi Phật, cõi trời). Cầu siêu đích thực phải là sự mong mỏi, sự thành tâm thành ý và hành động hữu ích giúp hương linh được lợi lạc trong quá trình tái sinh.
Việc cầu siêu chỉ có ý nghĩa, giá trị khi người còn sống khai thị, cảnh tỉnh, giúp người chết chuyển đổi tâm niệm của mình. Pháp ngữ, lời kinh, tiếng kệ có năng lực giúp hương linh giác ngộ, tỉnh thức và sinh tâm hoan hỷ, nhờ đó họ an lạc không còn khổ não. Những công đức phước báu mà người thân làm để hồi hướng cho hương linh cũng mang lại nhiều lợi ích cho hương linh.
Khi người chết biết tùy hỷ trước những việc làm nhằm tạo công đức phước lành của những người thân của mình và phát khởi lòng thành kính hướng về Tam bảo thì họ đã chuyển hóa được phần nào những nghiệp ác bất thiện và tăng trưởng phước báu cho tự thân, nhờ đó mà được tái sinh vào lạc cảnh. Như trường hợp bà Thanh Đề, mẹ của Tôn giả Mục Kiền Liên, hay Hoàng hậu Hy Thị vợ vua Lương Võ Đế. Bà Thanh Đề lúc còn sống xan tham, bỏn xẻn, không kính tin Tam bảo, tạo nhiều nghiệp ác bất thiện, nên sau khi chết bị đọa làm ngạ quỷ phải chịu đau khổ, đói khát. Tôn giả Mục Kiền Liên đã tổ chức trai đàn, thỉnh Phật và mười phương Tăng siêu độ cho bà. Nhờ công đức phước báu cúng dường Tam bảo của tôn giả Mục Kiền Liên và sự phát tâm hoan hỷ của bà trước việc làm của Tôn giả mà bà thoát khỏi tội báo mang thân ngạ quỷ.
Bà Hy Thị lúc sinh tiền cũng tạo nhiều ác nghiệp nên sau khi chết sinh làm rắn. Nhờ vua Lương Võ Đế thỉnh Hòa thượng Chí Công và chư Tăng mở đàn tràng Lương Hoàng Sám giúp bà sám hối tội lỗi mà bà thoát khỏi kiếp rắn.
Thời Phật còn tại thế, có lần Ngài gặp một tội nhân bị chặt hết tay chân đem đến dâng cúng Ngài một cành hoa sen, Phật bảo với các Tỳ-kheo rằng: “Nhờ phước đức này, suốt trong chín mươi mốt kiếp sắp tới người cụt tay chân kia không những khỏi bị đoạ vào ba đường dữ là địa ngục, ngạ quỷ và súc sinh mà còn được sinh lên các cõi trời cho đến khi hưởng hết phước ấy mới trở lại làm người”.
Trong kinh Kutadanta thuộc Trường Bộ kinh số 5, Đức Phật có dạy rằng, thường xuyên cúng dường các sa môn, xây tịnh xá, quy kính Tam bảo và thọ trì ngũ giới cùng thực hành các pháp môn tu tập là những cách tế lễ, cầu nguyện thực sự đem lại nhiều lợi ích nhất.
Mỗi người khi còn sinh tiền nên tạo cho mình những nghiệp nhân thiện, vì đó là hành trang duy nhất chúng ta có thể mang theo sau khi chết, nó quyết định đời sống kế tiếp của chúng ta. Đây là điều cần quan tâm nhất. Còn vấn đề cầu siêu sau khi chết chỉ là trợ duyên, chỉ có lợi ích khi hương linh người quá cố nghe tiếng kệ lời kinh mà giác ngộ tỉnh thức, sinh tâm hoan hỷ thành kính hướng về Tam bảo, tín thọ giáo pháp mà chuyển hoá tự tâm.
Vai trò của hương linh là chính yếu, kế đó là sự thanh tịnh của trai đàn, uy đức đạo hạnh của chư Tăng và sự thành kính, thiết tha của thân nhân người quá cố cùng với những phước báu mà họ tạo được và hồi hướng cho hương linh.
Tuy hương linh đóng vai trò quyết định, vì hương linh có thay đổi tâm niệm, buông bỏ những ý niệm mê lầm, xả bỏ phiền não, tham đắm, chấp trước, tự chuyển nghiệp của mình thì mới siêu thoát được, nhưng nếu không có sự giúp đỡ, trợ duyên của chư Tăng và người thân bằng cách khai thị, cảnh tỉnh, hướng dẫn hương linh hướng tâm về Tam bảo, làm các việc lành để hồi hướng công đức phước báu cho thì hương linh cũng khó mong siêu thoát, do đó người thân cần phải hỗ trợ cho hương linh để hương linh thoát khổ và được phần lợi lạc.
Cầu an-cầu siêu là hoạt động văn hóa tinh thần, hoạt động của đời sống tâm linh, từ lâu đã trở thành nhu cầu thiết thực đối với những ai quan tâm đến những giá trị tinh thần. Trong cuộc sống ai cũng muốn được an ổn, hạnh phúc, có sức khỏe, sống lâu trường thọ, đời sống gặp nhiều thuận duyên, ít rủi ro bất trắc…
Ai cũng muốn những người thân của mình sau khi qua đời sẽ được tái sinh vào các cảnh giới an vui, được về cõi Phật hoặc cõi Trời, hay ít ra cũng được trở lại làm người, không rơi vào các khổ cảnh địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh. Đó là nhu cầu chính đáng. Cầu an cho bản thân, gia đình, xã hội, quốc gia, nhân loại là nghĩa cử đẹp đáng khích lệ, tán dương, là việc làm thấm đẫm tình người, giàu lòng từ bi.
Cầu siêu cho những người thân của mình đồng thời cũng cầu cho tất cả những vong linh chưa siêu thoát là việc làm thể hiện ân tình nghĩa cảm của người còn sống đối với những người đã khuất, thể hiện mối liên hệ giữa người với người dù sống trong hai thế giới hoàn toàn khác biệt.
Việc cầu siêu với mong muốn giúp cho những vong linh chưa siêu thoát được siêu thoát, đang ở trong cảnh khổ được thoát khổ cũng là biểu hiện của lòng từ bi, việc làm ấy cần được quan tâm phát triển.