KHÁI NIỆM VỀ NGHIỆP TRONG PHẬT GIÁO
Hoang Phong
Nghiệp là một khái niệm chủ yếu trong giáo lý Phật giáo mang nhiều khíacạnh tâm lý và triết học siêu hình thật sâu sắc và phức tạp, thế nhưng lại thườngđược hiểu một cách quá máy móc và đơn giản. Bài viết dưới đây sẽ cố gắng trìnhbày khái niệm căn bản này dưới các góc nhìn bao quát, khoa học và triết học hơn.
Vài nét đại cương về nghiệp theo giáo lý Phậtgiáo
Nghiệptiếng Phạn là karma haykarman, tiếng Pali là kamma, có nghĩa là một "hành động", một "hành vi". Vần kar (car)trong chữ karma có nghĩa là "hành động", "tác động", và cũng là vần gốclàm phát sinh ra chữ crearetrong tiếngLa-tinh, chữ creare lại biến thành créerkhi chuyển sang tiếng Pháp và chữ createtrong tiếng Anh, tất cả các chữ nàyđều có nghĩa là tạo ra, gây ra... Tóm lại có thể hình dung karma như làmột động lực thúc đẩyđểtác tạomột cái gì đó.
Phật giáo Tây phương khôngdịch chữ này mà dùng thẳng tiếng Phạn là karmahay karmanhoặc tiếng Pali là kamma.Ngày nay chữ karma đã trở thành một từ thông dụng trong các ngôn ngữ Tây phươngvà các tự điển phổ thông đều có nêu lên và giải thích từ này. Nói thế để thấy rằngngày nay đối với nền văn hóa phương Tây khái niệm về nghiệp đã trở nên phổ cập.
Thế nhưng đối với quảngđại quần chúng Tây phương và có thể cả Á đông, nghiệp đôi khi được hiểu như mộtthứ định mệnh, một hình phạt đeo sát người "tạo ra" nó như bóng với hình.Khi nghe nói đến nghiệp họ thường liên tưởng đến một cái gì đó thật tệ hại mà họphải gánh chịu. Đối với những người có đôi chút kiến thức về Đạo Pháp thì nghiệptượng trưng cho một khía cạnh vận hành nào đó của một quy luật tổng quát gọi làquy luật "nguyên nhân - hậu quả". Đấy là một quy luật tự nhiên, mang tínhcách toàn cầu và không nhất thiết tượng trưng cho một sự áp đặt. Người tu tập đúngđắn chẳng những không sợ hãi quy luật ấy mà còn biết dùng nó để hành động một cáchchân chính để thực hiện những quyết tâm và ước vọng của mình hầu mang lại hạnhphúc cho chính mình và người khác.
Tuy nhiên cách hiểu trênđây về nghiệp cũng đã được đơn giản hóa rất nhiều, vì thật ra nghiệp hàm chứanhiều khía cạnh phức tạp liên quan đến nhiều khái niệm khác trong giáo lý Phậtgiáo. Thật vậy đối với Phật giáo, khái niệm về nghiệp không đơn thuần tượng trưngcho một chuỗi tiếp nối giữa những nguyên nhân ngẫu biến mang lại những hậu quảtất yếu mà con người phải gánh chịu một cách thụ động, mà cũng không quan niệmnghiệp là một thứ định mệnh an bài mang tính cách tiền định và thiêng liêng. Thậtvậy, nếu hiểu đúng những lời giáo huấn của Đức Phật thì nghiệp chính là một sựcảnh giác, một niềm hy vọng lớn lao, một cách ý thức trách nhiệm đối với chínhmình và người khác.
Văn hóa Tây phương chịuảnh hưởng nặng nề về một định đề triết học và tôn giáo lâu đời dựa trên nền tảngchủ nghĩa cá nhân, tức xem con người là duy nhất, khác biệt nhau và tách rời khỏithế giới chung quanh. Sự hiểu biết về nghiệp của một số người Tây phương do đó đôikhi cũng trở nên đơn giản và máy móc. Thật vậy, ta sẽ không thể nào hiểu được nghiệpnếu chỉ biết đơn giản căn cứ vào sự phân biệt giữa "cái tốt" và"cái xấu", "cái đúng" và "cái sai". Cách suy luậnnhư thế quả thật quá đơn sơ và thô thiển để có thể hiểu được khái niệm về nghiệpmột cách thỏa đáng.
Cái Lôgic (hay sự hợp lý)của nghiệp thực sự không mang tính cách trực tiếp tức hướng theo một đường thẳng- hoặc tích cực hoặc tiêu cực - mà đúng hơn đấy là một sự tương tác vô cùng phứctạp giữa vô số hiện tượng, vừa vật-chất và phi-vật-chất, xuyên qua không gian vàthời gian, liên quan đến lãnh vực nội tâm của một cá thể và cả thế giới hiện thựcbên ngoài. Vậy nghiệp thực sự là gì ?
Trước hết nghiệp có nghĩalà một sự chủ tâm, một ý định (intention), một tác động tâm thần mangtính cách duy ý còn gọi làtác ý (volition),tiếng Phạn là cetana. Tác ýhay sự chủ tâm (cetana) là mộttrong sáu khả năng căn bản của tâm thức gọi là tri thức tâm thần (manovijnana),năm tri thức kia là năm tri thức giác cảm.Tri thức tâm thần luôn luôn sinh động trong tâm trí của một cá thể và hàm chứakhả năng cảm nhận một vật thể hoặc một biến cố thuộc ngoại cảnh, hoặc một hình ảnhphát sinh trong tâm thức. Các đối tượng vừa kể khi được cảm nhận bởi tri thức sẽlàm nảy sinh ra xúc cảm. Xúc cảm hiển lộ dưới thể dạng một hành vi tâm thần, tứcmột sự duy ý hay tác ý và đấy chính là nghiệp. Nói cách khác nếu sự cảm nhận củangũ giác và tri thức khi tiếp xúc với đối tượng nhưng không làm phát sinh ra ý định, duy ý hay tác ý thì sẽ không tạora nghiệp, chẳng hạn như sự tiêu hóa, bài tiết, kể cả các giác cảm và sự nhậnthức đơn thuần.
Tóm lại sự chú tâm, ý địnhhay tác ý giữ vai trò hướng tâm thứcvào một đối tượng thuộc bối cảnh bên ngoài hay một hình ảnh trong tâm thức, dođó người ta có thể định nghĩa nghiệp là một sự chuyển động hay một động tác.Sự chuyển động của nghiệp tác động liên tục trên dòng chảy của tâm thức. Vì thếnếu không chủ động được sự tác động của dòng lưu chuyển đó thì một cá thể sẽ liên tục tạo nghiệp cho chính mình. Thiền địnhlà một cách làm giảm bớt đi hoặc ngưng hẳn dòng chuyển động và hình thành liêntục của nghiệp trong tâm thức. Trong quyển sách (L'Enseignement du Bouddha, Seuil, 1961, trang 42) Walpora Rahula cótrích dẫn một lời giảng của Đức Phật trong TăngChị Bộ kinhnhư sau :
"Này các tỳ kheo, Ta bảo rằng tác ý (cetana) đấy là nghiệp (kamma).Với ý muốn (chủ đích trong tâm thức) người ta hành động bằng thân xác, bằng ngôntừ và bằng cơ quan tâm thần của mình",(Tăng Chi Bộ Kinh, Anguttara-nikaya, III, 415, ấn bảnColombo, 1929, trang 500).Thiết nghĩ để có thể hiểuđược nghiệp là gì thì có lẽ đây là một trong những lời giảng quan trọng của ĐứcPhật. Ý nghĩa trong câu trên đây cho thấy rõ tác ý đã là nghiệp, từ nghiệp sinhra hành động trên thân xác, bằng ngôn từ hay trong nội tâm tức cơ quan tâm thần. Chữ cơ quan tâm thầnlà dịch từ chữ organe mentaltrong câu tiếng Pháp, tiếngPhạn là manas, tiếng Pali là mano, kinh sách gốc Hán dịch là mạt-na thức. Mạt-na thức là thức thứ sáucòn gọi là tri thức(consciousness),hoặc nếu hiểu theo học phái Duy thức (Yogacara) thì đấy là thức thứ bảy (còn gọilà nhiễm tâm - klistamanas), các vấnđề liên quan đến các thuật ngữ này sẽ được trình bày chi tiết trong các phần bêndưới.
Ý địnhhay tác ýxảy ratrong từng khoảnh khắc một, tức mang tính cách nhất thời có nghĩa là không liêntục, thế nhưng khi khoảnh khắc ấy chấm dứt thì vết hằn hay sự tồn dư vẫn tiếp tụclưu lại trong khoảnh khắc xảy ra tiếp theo sau đó, đây cũng là cách giải thíchvề trí nhớ theo quan điểm của Phật giáo.
Vết hằn củatác ý lưu lại một dấu vết trên dòng chảy của tâm thức gọi là mầm mống, nghiệp lực,chủng tử,v.v...(tiếng Phạn vasana),tượng trưng cho một xung nănghay một sức mạnh thúc đẩy. Vào một lúc nào đókhi một số điều kiện hay cơ duyên hội đủ tạo ra hoàn cảnh thuận lợi thì các vếthằn của nghiệp sẽ làm phát sinh ra hậu quả mang cùng một bản chất tích cực haytiêu cực với các dấu vết ấy. Câu trích dẫn sau đây trong kinh Di-lan-đà(Milandapanha, còn gọi là Na-tiênTỳ kheo kinh) có thể tóm lược những gì vừa trính bày trên đây. Trong kinh nàynhà vua Di-lan-đà (Milanda, vua xứ Penjab, thế kỷ thứ II trước Tây lịch) có hỏitỳ kheo Na-tiên (Nagasena) như sau :
"Thế thì nghiệp nó nằm ở đâu ?". Tỳ kheo Na-tiên trả lờinhư sau : "Thưa Đại vương, không thểbảo nghiệp được "cất giữ " một nơi nào đó [cố định] trong cái tri thứcluôn luôn chuyển động không thể nắm bắt được, hoặc một nơi nào đó trong thânxác. Thế nhưng nó lại tùy thuộc vào tâm thức và vật chất (thân xác) và sẽ phát hiệnvào một thời điểm thích nghi. Cũng thế không thể bảo rằng các quả xoài được "cấtgiữ" một nơi nào đó trong cây xoài, thế nhưng nó lại lệ thuộc vào cây xoàivà hiện ra (đơm quả) khi mùa màng thích nghi", (dựa theo bản dịch tiếngPháp của Louis Finot, Les questions deMilanda, Ed. Dharmas, 1983)
Khi một vết hằn được lưulại trên dòng tri thức của một cá thể, nó sẽ liên kết với vô số các dấu vết kháctức những ý định hay tác ý khác có sẵn từ trước hoặc sẽ phát sinh sau đó để tạora một sự "kết hợp" mang một "xu hướng chung", thúc đẩy cáthể ấy phát lộ trong tương lai những tác ý mang một xu hướng nào đó mà cá thể ấykhông cưỡng lại được. Tác ý sẽ xui khiến cá thể ấy "phạm" vào những hànhđộng mang tính cách tự phát tức có nghĩa là thực thi một cách tự động.
Tóm lại nghiệp gồm cóhai thành phần và cả hai đều thuộc vào lãnh vực tâm thần : thành phần thứ nhấtlà ý địnhtức thuộc cùng một thể loạiphi-vật-chất với tâm thức, thành phần thứ hai là một vết hằnghi khắc trên dòng tri thức của một cá thể. Vết hằn có thểhiển hiện và chuyển thành quả bất cứ lúc nào, do đó có thể gọi nó là mầm mốngtồn lưu trong tri thức. Mầm mống đó sẽ tác động và chi phối sự hìnhthành của một cá thể trong tương lai, tức ảnh hưởng đến sự cấu tạo hình tướngvà tâm thức của cá thể ấy.
Các đặc tính chính yếu của nghiệp dựa vàokinh sách
Trênđây là vài nét đại cương về nghiệp và dưới đây là phần trình bày các đặc tính chính yếu căn cứ theo kinh sách.
I-Bốn đặc tính căn bản của nghiệp (catvari karmasvabhava).
Nghiệp gồm có bốn thểtánh hay đặc tính như sau :
1- Thể tánh quyết định của nghiệp : nghiệp mang tính cách quyết địnhtức có nghĩa là quả luôn luônmang cùng một bản chất với nghiệp làm phát sinh ra nó.
2- Sự tăng trưởng của nghiệp: nghiệp luôn luôn sinh động, trong trường hợp nếu nghiệp không được tinh khiết hóa thìnó sẽ liên tục tăng trưởng cho đến khi nào gặp được các điều kiện thích nghikhiến cho nó phát sinh ra quả.
3- Nghiệp không thực thi (không hoàn tất) : nếu không hề cótác ý, cũng không hề có hành độngthì đương nhiên cũng sẽ không cómột hậu quả nào xảy ra.
4- Nghiệp đã hoàn tất : nghiệp khi đã hoàn tất sẽ không thể tan biếnđi được và nhất định nó sẽ tạo ra quả vào một thờiđiểm nào đó, tất nhiên là trừ trường hợp nghiệp ấy đã được hóa giải hay tinhkhiết hóa bằng sự tu tập.
II-Bản sắc và cường độ của nghiệp
Tùy theo bản chất của ý địnhvà hành động,nghiệp sẽ mang các sắc thái và cường độ khác nhau :
- Hành động đạo hạnhhay trong trắng(kusalakarma): hậu quả mang lại sẽ tốt lànhvà thuận lợi.
- Hành động tiêu cựchay đen tối(akusalakarma) : hậuquả mang lại sẽ là khổ đau.
- Hành động trung hòa(avyakrtakarma) : hậu quả mang lại không hạnh phúc cũng không khổđau.
Các đặc tính như thuận lợihay bất thuận lợikhông nhất thiết liên hệ hay tương quan với các nguyêntắc đạo đức quy định bởi nền luân lý quy ước và độc đoán do con người thiết đặt,mà tùy thuộc vào bản chất đích thực củachính hành động thực thi. Bản chất đó được xác định căn cứ vào chủ đích củađộng cơ thúc đẩy một chủ thể hành động với mục đích tạo ra sự tốt lành hay khổ đaucho các chúng sinh khác, thí dụ như cứu giúp kẻ khốn cùng vì lòng từ bi hoặc sátsinh vì hung ác....Vì thế nếu muốn xácđịnh bản chất đích thựccủa nghiệp thìphải phân biệt thật rõ rệt bản chất của ýđịnhhay sự chủ tâmlà gì và bảnchất của hành động thực thi là gì. Thídụ :
- Ý định trong trắngvà hành động trong trắng: chẳng hạn như ý định trong trắngphát xuất từ lòng từ bi và hànhđộng trong trắngnhằm giúp đỡ ngườikhác tránh khỏi khổ đau.
- Ý định trong trắngnhưng hành động đen tối: Ý định trong thâm tâm mang tínhcách tích cực, thế nhưng hành động phát lộ bên ngoài là sự nghiêm khắc và giậndữ nhằm mục đích cảnh giác và làm thức tỉnh người khác.
- Ý định đen tốinhưng hành động trong trắng: cho một người nào đó mộtthứ gì nguy hại, chẳng hạn như biếu rượu cho người say sưa, hoặc giả vờ hiền lànhvà dễ thương nhằm mục đích lường gạt hoặc thực hiện một ý đồ ích kỷ nào đó.
- Ý định đen tốivà hành động đen tối: thí dụ một người nào đó bị cácxung năng tiêu cực thúc đẩy làm điều sai trái đối với người khác, chẳng hạn nhưnguyền rủa hoặc gây thương tích cho người khác.
Sau đây là bảng liệt kê các hành động tạo ra nghiệptrong trắng và nghiệp đen tối :
- Nghiệp trong trắnghay thuận lợi : gồm có mười hành vi thiếu đạo đức phải tránh và mười điềuđạo hạnh nên làm :
Ba điều thuộc thân xác :
1- Không tước đoạt sự sống - cứu được một sinh linhthoát chết.
2- Không trộm cắp - bố thí.
3- Không phạm vào hành vi tính dục thiếu đạo hạnh - biếtgiữ gìn sự tiết dục.
Bốn điều thuộc ngôn từ :
4- Không nói dối - nói lời ngay thật.
5- Không gièm pha - nói lời hàn gắn và hòa giải.
6- Không nguyền rủa - nói lời êm ái.
7- Không ăn nói huyên thuyên vô bổ - thường xuyên tụngniệm.
Ba điều thuộc tâm thức :
8- Không ganh tị - hân hoan khi thấy người khác được hạnhphúc.
9- Không ác ý - phát lộ lòng nhân từ.
10- Loại bỏ những quan điểm sai lầm - chọn lựa nhữngquan điểm đúng đắn.
- Nghiệp đen tốihay bất thuận lợi bắt nguồn từ :
Sáu thứ dục vọng căn bản,kinhsách gốc Hán gọi là lục đại phiền não,gồm có : bám víu, ghét bỏ, vô minh, tựkiêu, nghi ngờ, quan điểm sai lầm.
Hai mươi dục vọng thứ yếu, gồm có : thùnghịch, oán hận, ác ý, ganh tị, lừa lọc, v.v...
Phạm vào mười hành động thiếu đạo hạnh, gồm có :
- Ba hành động thuộc thân xác : sátsinh, trộm cắp, hành vi tính dục thiếu đạo hạnh.
- Bốn hành động thuộc ngôn từ : nóidối, vu khống, nguyền rủa, ăn nói huyên thiên vô bổ.
- Bốn hành động thuộc tâm thần : thèmmuốn, ác tâm, nuôi dưỡng những quan điểm lệch lạc.
III-Nghiệp thúc đẩy và nghiệp bị khích động
Có hai loại nghiệp khácnhau :
- Nghiệp thúc đẩy : còn gọi là ý nghiệp(tiếng Phạn cetanakarma) tức là nghiệpmang tích cách chủ động, giữ vai trò xui khiến và khích động (volition,intentional action, karma producing impulses). Nghiệp thúc đẩy là nghiệp phátsinh từ những ý định trong tâm thức.
- Nghiệp bị khích động : (tiếng Phạn cetayitvakarma)tức là nghiệp thực thi do tâm thức thúc đẩy, tức do ý chí xui khiến. Nghiệp bị thúcđẩy hay bị khích động gồm cóthân nghiệp (kayakarma), khẩu nghiệp(vakkhakarma)và ý nghiệp (manaskarma) phát sinh trong tâm thức.
Thí dụ : thù ghétmột người nào đó (nghiệp thúc đẩy) và lấy gậy đánhngười này (thân nghiệp), hoặc chửi rủangười này (khẩu nghiệp), hoặc không chửirủa cũng không đánh người này nhưng lại mưuđồtrong tâm thức ám hại người này (ýnghiệp, tâm nghiệp), xin chú ý là trong trường hợp này ý nghiệptrở thành một hànhvi trong tâm thức và có thể xem như là một thứ nghiệp thúc đẩy.
Tóm lại loại nghiệp thứnhất tức nghiệp thúc đẩy(cetanakarma)mang tính cách chủ động là loại nghiệp quan trọng hơn cả vì giữvai trò khích động, thúc đẩy làm phát sinh ra thân nghiệp, khẩu nghiệp và tâm nghiệp(ý nghiệp).
IV-Con đường của nghiệp (Karmamarga)
Con đường của nghiệpnguyên nghĩa tiếng Phạn là karmamarga(margacó nghĩa là con đường) tượng trưng chosự tiến hành hay quá trình diễn tiến của nghiệp. Con đường củanghiệp khi được diễn tiến đầy đủ tức có nghĩa là hoàn tất, sẽ gồm có bốn giai đoạnhay bốn điều kiện tất yếu như sau :
1- Căn bảnhay cơ sở(vastu) : tức bắt buộc phải có một đối tượng giúp cho nghiệp hướng vàođó để hoàn tất. Căn bản hay cơ sở đó là một chúng sinh có giác cảm. Thí dụ nghiệpsát sinh chỉ có thể hình thành khi có một chúng sinh bị giết, nghiệp do việc sănbắn chỉ có thể xảy ra khi nào có một con thú bị giết.
2- Tư duy(asaya) : tức phải có một ý địnhhay ý muốn. Tư duy (ý định, ý muốn) gồm có ba thành phần :
a) sự xác địnhhay sự nhận dạnghướng vào một căn bản hay cơ sởnàođó,(thí dụ : nhận dạng một con thú).
b) sự khích động: tức ý địnhhay ý muốnthực thi một hành động hoàntoàn ý thức, (thí dụ : chủ tâm muốn giết con thú).
c) bản chất của sự khích động: bản chất của sự khích động hay sự hammuốn có thể mang tính cách tích cực hoặc tiêu cực, (thí dụ sự khích động mang bảnchất tiêu cực : ham muốn được ăn thịt con thú hoặc thèm muốn có tấm da thú).
3- Hành động(prayoga) : tức là giai đoạn khi ý địnhhay ý muốn được thực thi một cách cụ thể, (thí dụ : cầm khẩu súng nhắm vào conthú và bóp cò).
4- Sự hoàn tất (nisthagamana) : tức mục đích của ý địnhđã được thực hiện và hoàn tất, có nghĩa là hành động mang lại hiệu quả phù hợpvới ý muốn, (thí dụ : con vật bị giết).
Khi hội đủ bốn yếu tốhay điều kiện trên đây thì nghiệp được gọi là hoàn tất.
V-Hậu quả của nghiệp (karmaphala)
Nếu bốn giai đoạn trên đâyxảy ra trọn vẹn thì con đường của nghiệpsẽ mang lại ba loại hậu quả theo thứ tự như sau :
1- Kết quả hoàn toàn chín muồi(vipakaphala): thí dụ trong trường hợp tiêu cực, hậu quả trọn vẹn do nó mang lại sẽ là sự táisinh trong một cảnh giới thấp, chẳng hạn như nghiệp do sự giận dữ sẽ khiến táisinh trong cõi địa ngục, nghiệp do vô minh và đần độn sẽ khiến tái sinh trong cõingạ quỷ hay súc sinh...
2- Kết quả phù hợp với nguyên nhân(nisyandaphala) : hậu quả mang cùng một thể loại hay bản chất với hànhđộng, có nghĩa là hậu quả luôn luôn phù hợp với xu hướng hay xung năng thúc đẩymột cá thể ưa thích một số hành động nào đó. Thí dụ nghiệp do hành động sát nhânsẽ thúc đẩy một cá thể sau khi tái sinh mang bản tính hung hăng thích việc sátsinh, hoặc nhận chịu hậu quả cùng một thể loại với hành động mà chính mình đãthực thi trước kia, chẳng hạn như sẽ bị giết hay sẽ phải tái sinh, hoặc sẽ phảichết non trong nhiều kiếp liên tiếp.
3-Kết quả phù hợp với quyền lợi (adhipatihala) : đó là kết quả đưa đẩy mộtcá thể tái sinh trong một môi trường sống phù hợp và tương quan với nghiệp củacá thể ấy. Thí dụ một số nghiệp tiêu cực đưa đến sự tái sinh trong một môi trườngbất thuận lợi, chẳng hạn như một nơi nghèo đói, chiến tranh, chậm tiến, hoặctrong một gia đình nghèo khổ, bất hạnh... Có ba loại nghiệp tương quan với bảnchất của kết quả như sau :
a) Nghiệp xứng đáng(punyakarma): tức nghiệp tích cực khiến tái sinh trong hoàn cảnh thuận lợi thuộc cõi dục giới.
b) Nghiệp không xứng đáng(apunyakarma): tức nghiệp tiêu cực khiến tái sinh trong hoàn cảnh bất thuận lợi thuộc cõi dụcgiới.
c) Nghiệp tĩnh lặng(aninjyakarma): tức là nghiệp mang lại từ sự vắng lặng hay tĩnh lặng của tâm thức, đấy là mộtthứ nghiệp tích cực khiến tái sinh trong cõi sắc giới (cõi hình tướng tinh khiết- rupadathu) hoặc cõi vô sắc giới (cõivô hình tướng hay phi-vật-chất - arupadathu).
Tuy nhiên cũng nên hiểulà chúng sinh trong cả ba cõi trên đây - dục giới, sắc giới và vô sắc giới - vẫncòn bị trói buộc trong vòng tái sinh vì các chúng sinh ấy vẫn còn vướng mắctrong vô minh có nghĩa là vẫn còn nhận diện một cái tôivà đồng thời không nhìn thấy bản chất đích thực của mọi hiện tượng.
VI-Sự tích lũy và hoàn tất của nghiệp
Khi một cá thể bắt đầu phátlộ trong tâm thức một sự chủ ýhay quyết tâmnhằm thực hiện một hành độngnào đó thì đấy gọi là nghiệp tích lũyhay tích tụ, có nghĩa là chưa phát hiệnthành hành động trên thân xác hay bằng ngôn từ. Nghiệp được gọi là hoàn tất khinào hành động đã hoàn toàn được thực hiện. Cách phân loại nghiệp như trên đâycho thấy khi vừa có mộtý định, một quyết tâm,có nghĩa là tác ýhiển hiện trong tâm thức, thì tứckhắc nghiệp đã bắt đầu hình thành. Khi tácýchuyển thành hành độngthì khi đómới thật sự tạo ra khẩu nghiệp, thân nghiệphay ý nghiệp.Trong trường hợp này nên hiểu ý nghiệphay tâm nghiệplàmột "hành động"xảy ratrong tâm thức, thí dụ như nguyền rủa trong đầu hoặc mưu tính ám hại một ngườimà mình thù ghét.
Bốn trường hợp có thể xảyra trong quá trình diễn tiến từ nghiệp tích lũy đến nghiệp hoàn tất :
a) Nghiệp tích lũy được hoàn tất : thí dụ ta có ý sát sinh và đem ý địnhấy ra thực hiện (giết được một con thú chẳng hạn).
b) Nghiệp đã được tích lũy thế nhưng không hoàn tất: thí dụ ta có ýsát sinh thế nhưng lại không giết con vật.
c) Nghiệp không tích lũy thế nhưng được hoàn tất: thi dụ ta không cóý định sát sinh thế nhưng lại vô ý phạm vào hành động đó.
d) Nghiệp không tích lũy cũng không hoàn tất: thí dụ ta không có ýsát sinh thế nhưng lại vô tình phạm vào hành động đó, tuy nhiên ta biết hối hậnngay và tức thời sử dụng bốn sức mạnh(hối hận, không tái phạm, đạo đức, tu tập) để tinh khiết hóa hành động đó.
VII-Sức mạnh của nghiệp
Sức mạnh hay cường lực tácđộng của nghiệp tùy thuộc vào các yếu tố sau đây :
a) Thời gian : nghiệp tiềm tàng hay chất chứa càng lâu càng trở nên mạnhmẽ hơn, có nghĩa là khoảng cách giữa thời điểm khi nghiệp được ghi khắc và thờiđiểm khi quả phát sinh là một yếu tố khiến gia tăng thêm cường lực của nghiệp.
b) Con đường của nghiệp: sức tác động của nghiệp càng mạnh nếu quátrình diễn tiến của nghiệp tức là con đườngcủa nghiệpđược tiến hành trọn vẹn (gồm có : căn bản- tư duy - hành động- sự hoàn tất).
c) Đối tượng của nghiệp: nếu đối tượng của hành động tạo nghiệp tiêucực là một thánh nhân, một người đạo đức, một người thân thuộc (chẳng hạn nhưcha mẹ), một vị bồ-tát hoặc một chúng sinh đang lâm vào hoàn cảnh khốn cùng vàtuyệt vọng (tạo ra dịp cho ta lợi dụng) thì sức tác động của nghiệp càng trởnên mãnh liệt hơn.
d) Tính cách thường xuyên: nếu liên tiếp thực thi một hành động cùngmột thể loại và mang cùng một mục đích thì sự tái diễn đó sẽ khiến cho nghiệp lựccủa từng hành động gia tăng mạnh mẽ hơn.
e) Cường độ của ý định: nghiệp lực có sức tác động khác nhau giữa sựbực bội thoáng qua và lòng hận thù sâu đậm, giữa sự thương hại nhất thời và lòngtừ bi lâu bền.
f) Nghiệp đối kháng hay đối nghịch: một nghiệp mang bản chất đối khánghay đối nghịch với một nghiệp khác sẽ có khả năng làm giảm bớt, chận đứng hoặchóa giải được nghiệp ấy, (thí dụ : tuy tham lam thế nhưng thường xuyên tham giavào các công tác từ thiện, hoặc biết sám hối).
VIII-Sự tinh khiết hoá của nghiệp
Theo Phật giáo Đại thừakhi một nghiệp cố tình hay cố ý tức duy ý dù đã được ghi khắc trên dòng tiếp nốiliên tục của tri thức, vẫn có thể tinh khiết hóa hay hóa giải được nó. Vì thế nếutinh khiết hóa càng sớm thì càng dễ dàng hơn, vì lúc đó nghiệp chưa phát triển quámạnh và chưa ăn quá sâu vào dòng tiếp nối của tri thức, tức có nghĩa là lúc mà cáthể tạo nghiệp còn nhớ được hành động của mình và ý thức được tác động của nó đểtinh khiết hóa nó. Sự tinh khiết hóa cầnđến sự phối hợp của bốn sức mạnhnhưsau :
a) Sức mạnh của sự hốihận.
b) Sức mạnh của lòngquyết tâm không tái phạm.
c) Sức mạnh do sự giữ gìnđạo đức.
d) Sức mạnh do sự tu tập: chẳng hạn như sám hối trước chư Phật, phát động sự giác ngộ, tụng niệmman-tra, tinh khiết hóa bằng phép tu tập Kim cương Tát đóa (Vajrasattava),....
Ngược lại các nghiệp tíchcực và các phẩm hạnh tích lũy từ trước cũng có thể bị các nghiệp tiêu cực xảyra sau đó làm cho tiêu tan. Kinh sách thường cảnh giác người tu tập như sau : "một phút giây nóng giận cũng có thểlàm tiêu tan nghiệp lành tích lũy từ muôn ngàn kiếp". Ngoài ra cũng cầnghi nhớ là khi cơ duyên đã hội đủ giúp cho nghiệp trở thành chín muồi thì khiđó sẽ không còn phương cách nào có thể hoá giải được nó và sự phát hiện của quảtrở thành một điều tất yếu.
IX-Bản chất tâm thần của nghiệp :
Nghiệp luôn luôn mang tínhcách tâm thần. Những gì không mang tính cách duy ý hay chủ tâm thì không tạo ranghiệp kể cả những cảm nhận trên thân xác (giác cảm) và sự nhận thức đơn thuần(không kèm theo sự diễn đạt) trong tâm thức. Xin trích dẫn câu sau đây trongquyển sách của Walpola Rahula (L'Enseignementdu Bouddha, op. cit., trang 42) :
"Các giác cảm và nhận thức không phải là những hành động duy ý.Chúng không gây tác động làm phát sinh ra nghiệp. Chỉ có những hành động chủ ýmới tạo ra nghiệp, chẳng hạn như : sự chú tâm (manasikara), sự tin tưởng(saddha), sự tập trung (samadhi), trí tuệ (panna), nghị lực (viriya), sự thèmkhát (raga), sự ghê tởm hay hận thù (patigha), vô minh (avijja), sự kiêu căng (mana),ý nghĩ về cái tôi (sakkaya-ditthi), v.v..."
Câu trên đây cho thấychỉ có sự chủ ý trong tâm thức mới lưu lại một vết hằn trên dòng chảy của trithức, tất cả những gì xảy ra thuộc ngoại cảnh kể cả các giác cảm trên thân xácvà sự nhận thức tâm thần (không đi kèm với sự diễn đạt) cũng không tạo ra nghiệplực. Xin trở lại thí dụ về người đi săn, người này nâng súng nhắm vào con thúvà bóp có, và đấy là một sự chủ tâm chuyển thành hành động. Vậy những gì sẽ xảyra sau đó ?
Trường hợp con thú bịtrúng đạn và dẫy chết, người săn bắn thích thú và vui mừng. Sự thích thú và vuimừng (thật ra chỉ là những phản ứng mang bản chất vô minh) là những gì trực tiếptạo ra nghiệp và để lại một vết hằn trong dòng tri thức của người săn bắn. Sựđau đớn của con thú dẫy chết, vết thương phun máu... thuộc vào bối cảnh bênngoài nên không trực tiếp tạo ra nghiệp, sự vui thích (mang bản chất tiêu cực)trong tâm thức của người săn bắn mới để lại vết hằn trong tâm thức của người ấy.
Trường hợp con thú bịthương, què một chân và chạy thoát. Người săn bắn tiếc rẻ, đuổi theo và hy vọngtìm ra nó và bắn được nó. Tiếc rẻ và hy vọng tạo ra nghiệp, con thú bị thươngkhông tạo ra nghiệp mà chỉ gián tiếp làm đối tượng (cơ sở hay căn bản) cho sự tạonghiệp của người săn bắn. Tuy rằng cái chết của một con vật không để lại vết hằntrong tâm thức của người săn bắn, thế nhưng lại trực tiếp tạo ra tác động đối vớimôi sinh. Sự tác động đó (dù vô nghĩa đi nữa) cũng sẽ ảnh hưởng đến sự biến đổicủa môi trường và toàn thể sự sống trong đó có người đi săn. Hậu quả của hành độngsát sinh sẽ dễ nhận thấy hơn nếu đấy không phải là một con vật bị bắn mà là mộtcon người bị giết. Cái chết ấy sẽ gây ra hận thù và đau thương..., đau thươngvà hận thù sẽ nhân lên và tỏa rộng.
Nếu đấy không phải mộtcon người bị giết mà là một cuộc chiến xảy ra, thì khổ đau và oán hận sẽ khi khắctrên dòng tri thức của hàng triệu người chiến bại, "hân hoan" và"hạnh phúc", biểu hiện của vô minh sẽ tràn ngập dòng tri thức củahàng triệu người chiến thắng. Nghiệp là như thế, khởi đầu chỉ là một chủ ý (cetana) trong tâm thức của mỗi cá thể, hậuquả là thế giới ta-bà.
Xin nêu lên một thí dụ đốinghich, chẳng hạn như một người ngồi thiền vẫn nhận biết các giác cảm phát sinhtrên thân xác, các chức năng nhận thức vẫn sinh hoạt trong tâm thức, thế nhưngkhông có sự diễn đạt (xúc cảm) hay chủ ý (cetana)nào xảy ra, sự tạo nghiệp do đó cũng không có. Thế nhưng nếu trí tuệ (sự tậptrung) vụt hiển hiện dù thuộc vào một cấp bậc nào thì đấy là một nhân tố tạonghiệp, nhưng lại là một thứ nghiệp mang lại sự giải thoát.
Cộng nghiệp và sự hồi hướng
Ngoài các đặc tính củanghiệp được liệt kê trên đây, có lẽ cũng cần nêu lên hai khái niệm ít nhiều liênquan đến các đặc tính của nghiệp, đấy là cộng nghiệp và sự hồi hướng.
Vậy cộng nghiệp là gì ?Thật ra khái niệm về cộng nghiệp không thấy bàn đến (?) trong các kinh sách vàcác tập luận giải xưa, hoặc cũng có thể không hay chưa tìm thấy (?) vì con sốkinh sách quá lớn. Hơn nữa cũng không thấy các học giả Phật giáo ngày nay nhấtlà các học giả Tây phương đề cập đến vấn đề này một cách rộng rãi. Do đó có thểhiểu nghiệp nhất thiết mang tính cách cá thể nhiều hơn.
Thông thường người ta"hình dung" hay "suy ra" cộng nghiệp khi nhìn vào các hậuquả xảy ra giống nhau, chung cho nhiều người kể cả một dân tộc. Dù cho một tậpthể thực thi hay biểu lộ một hành động chung nào đó, thí dụ như sinh sống bằngmột nghề giống nhau, nhiều người phản kháng một đạo luật hay một thể chế chínhtrị, thực thi một mục đích hay lý tưởng chung, hoặc đổ xô theo một phong tràohay một giáo phái nào đó..., thì tác động gây ra từ những hành động ấy rất cóthể là không giống nhau trong tâm thức của mỗi cá thể, bởi vì các hành động đócòn kết hợp và tương tác với các xu hướng, xung năng và quyền lợi cá nhân phát sinhtừ những nghiệp khác có sẵn trong mỗi cá thể.
Hãy lấy một thí dụ cụthể, khi nhìn vào một tại nạn phi cơ xảy ra chẳng hạn, người ta có thể nghĩ rằngđấy là do nơi cộng nghiệp của hành khách và cả phi hành đoàn đã đến lúc chín muồivà hậu quả tất yếu đã xảy ra chung cho mọi người. Thế nhưng hành khách thì thuộcmọi lứa tuổi, mang nhiều quốc tịch khác nhau, thừa hưởng những nền văn hóa,giáo dục và tính ngưỡng khác nhau, mang những cá tính khác nhau, một cách tóm tắtlà thừa hưởng những nghiệp rất khác biệt nhau. Tại nạn phi cơ chỉ là một biến cố(cơ duyên) phối hợp với nghiệp chín muồi của từng người để tạo ra một thứ quảtrùng hợp cho tất cả.
Khái niệm thứ hai liênhệ ít nhiều với nghiệp có thể cũng cần nêu lên, đấy là sự hồi hướng nghiệp lànhhay công đức mà mình đã thực hiện được hướng vào người khác. Hồi hướng là mộtphép tu tập đặc thù của Phật giáo Đại thừa, thế nhưng ngày nay người ta thấy Phậtgiáo Nguyên thủy (Therevada) đôi khi cũng thực thi phép tu tập này, nhất là tạiThái lan và Miến điện. Vậy hồi hướng có mang lại hiệu quả hay không, có làmthay đổi được nghiệp của một cá thể khác hay không ?
Trước hết sự hồi hướngsẽ mang lại cho người tu tập những xúc cảm sâu xa và một sức mạnh vô biên vì đấylà biểu hiện của lòng từ bi, điều kiện duy nhất là phải quyết tâm, thành thật vàngười tu tập đã thực hiện được những hành động hay phát lộ được những tư duy sâuxa mang lại những điều xứng đáng, có nghĩa là đã từng tạo được những nghiệp lành.Đối với đối tượng của sự hồi hướng tức là người khác, thì họ có tiếp nhận đượcnhững điều đạo hạnh mà người tu tập hồi hướng cho họ hay không ? Đối với Phậtgiáo Tây tạng thì câu trả lời rất dứt khoát là có. Nếu nhìn vào quy luật tươngliên, tương kết của mọi hiện tượng, kể cả những hiện tượng phi-vật-chất trực tiếpliên quan đến sự vận hành của tâm thức thì cũng có thể hiểu rằng hành động hồihướng nhất định phải mang lại một tác động nào đó. Tuy rằng tiếng vỗ tay của mộtbàn tay không gây ra tiếng vang, thế nhưng nếu đấy là một bàn tay ngữa ra để bốthí hoặc là một bàn tay đưa ra phía trước để che chở cho một chúng sinh gặp cảnhkhốn cùng không phương tự vệ, thì biết đâu tiếng vỗ của một bàn tay cũng có thểvang ra tám phương trời mười phương Phật.
Trên phương diện hoàntoàn duy lý thiết nghĩ cũng có thể suy ra hiệu quả của sự hồi hướng. Nghiệpkhông tượng trưng cho một định mệnh tuyệt đối mà luôn luôn tương tác và biến độngdưới sự chi phối của quy luật tương liên. Vì thế trên nguyên tắc một sự tác độnghổ tương giữa nghiệp của chủ thể hồi hướng và nghiệp của đối tượng hồi hướng cũngcó thể xảy ra được, tất nhiên là với điều kiện các nghiệp ấy phải gặp được cơduyên thích nghi để tương tác với nhau.
Ngoài ra cũng có mộtchi tiết cần được nêu lên, theo kinh sách và sự tin tưởng thì sau khi chết mộtcá thể sẽ phải tái sinh trong vòng 49 ngày. Vậy thí dụ ta hồi hướng nghiệp lànhcho cha mẹ mình đã chết từ lâu thì việc gì sẽ xảy ra ? Dù cho cha mẹ đã táisinh và đã mang hình tướng khác dưới thể dạng của những thể loại chúng sinh khác,thì ta cứ hồi hướng cho các chúng sinh ấy như chính cha mẹ mình. Đó là một cáchmở rộng lòng từ bi đối với tất cả chúng sinh trong sáu cõi luân hồi. Trong sáucõi ấy, mỗi chúng sinh đều có thể là cha hay mẹ của ta một lúc nào đó trong quákhứ.
Quá trình tiến hóa của khái niệm về nghiệp
Trên đây là phần tóm lượccác đặc tính căn bản của nghiệp mang tính cách "thực dụng" giúp vào việctu tập, do đó chúng ta có thể cũng cần mở rộng thêm tầm nhìn để tìm hiểu sâu xahơn về khái niệm này trong Phật giáo. Thật vậy trên dòng tiến hóa sinh học nếutổ tiên con người được hình thành cách nay vài triệu năm tại phía đông lục địaPhi châu và sau đó lan tràn khắp địa cầu, thì thung lũng sông Hằng lại chính lànơi mà tôn giáo và các trào lưu tâm linh cũng như triết học lâu đời nhất củanhân loại đã được hun đúc và phát sinh.
Ý niệm phôi thai về nghiệphay karmathật ra phát sinh trước Phậtgiáo rất lâu trong thung lũng sông HHằngqua kinh Vệ-đà (khoảng giữa thế kỷ XVIII và XVI trước Tây lịch), kinh Rig-Veda(khoảng giữa thế kỷ XVIII và IX trước Tây lịch), kinh Bramana (khoảng giữa thếkỷ thứ X và VIII trước Tây Lịch), và sau đó là các kinh Upanisad tức các kinh Vệ-đà"cải tiến" (khoảng giữa thế kỷ thứ VII và thứ VI trước Tây lịch).
Chữ karmađề cập trong các kinh sách vừa kể chỉđơn giản có nghĩa là một hành động hiếnsinhhay một hình thức lễ báinhằmmục đích cầu xin cho cuộc sống của mỗi người được cải thiện hơn và xã hội được trậttự hơn. Nói cách khác karmatrong cáckinh sách này không mang một ý nghĩa luân lý hay triết học nào cả, nếu không thìđấy chỉ là bổn phận của tập thể con người trong xã hội và của các vị Bà-la-môn,tức là các vị giáo sĩ hướng dẫn và đại diện cho các tập thể đó, vì chỉ có các vịnày mới nắm vững được các nghi thức cúng bái để đứng ra làm chủ tế các lễ hiếnsinh.
Suốt hơn mười thế kỷ toànthể thung lũng sông Hằng chịu ảnh hưởng của các tín ngưỡng tạm gọi chung là đạoBà-la-môn trên đây, chỉ trừ ra một lãnh thổ rộng lớn và khá biệt lập là xứMa-kiệt-đà (Magadha), ngàynay là tiểu bang Bihar của Ấn độ. Tuy lọttrong bối cảnh đó thế nhưng xứ Ma-kiệt-đà hầu như không hề chịu ảnh hưởng nặngnề của các tôn giáo trên đây. Tại lãnh thổ này vào khoảng thế kỷ thứ VI và Vtrước Tây lịch có ba tôn giáo vô thần được hình thành là Phật giáo, đạo Ja-in(Jaïnism) và đạo Ajivika và cả ba đều chủ trương khái niệm karma,tuy thế ý nghĩa của chữ này thì lại hoàn toàn khác biệt nhaugiữa ba tôn giáo. Trong số các tôn giáo này chỉ có Phật giáo trở thành một tôngiáo lớn phát triển ra khỏi biên giới thung lũng sông Hằng và ngày nay đang bànhtrướng trên thế giới. Trong khi đó đạo Ja-in chỉ còn khoảng 12 triệu tín đồtrên toàn thể nước Ấn và đạo Ajivika thì đã mai một.
Đạo Ja-in tin rằng bấtcứ hành động nào cũng trở thành một nguyên nhân và bất cứ nguyên nhân nào cũngđều đưa đến tái sinh và khổ đau, không có một ngoại lệ nào cả. Vì thế đạo Ja-inchủ trương phải chận đứng tất cả mọi hành động phát sinh từ thân xác, ngôn từvà tâm thức, đấy là cách duy nhất ngăn chận không cho nguyên nhân phát sinh, vìnếu không tạo ra nguyên nhân thì hậu quả là sự tái sinh và khổ đau cũng sẽ khôngphát sinh. Do đó tu tập đối với đạo Ja-in là phải giữ cho thân xác bất động, chẳnghạn như đứng bằng một chân, hai tay chắp vào nhau và đưa thẳng lên trời, tuyệtđối phải giữ yên lặng ở thế bất động đó cho đến khi kiệt lực. Phép tu tập giữcho thân xác bất động sẽ không tạo ra nghiệp mới, thế nhưng các nguyên nhân đãcó từ trước thì vẫn còn, do đó phải hành xác để tinh khiết hóa các dấu vết tồndư của nghiệp trong quá khứ. Đấy là nguyên tắc căn bản của phép tu tập của đạoJa-in hầu giúp một cá thể tự giải thoát khỏi chu kỳ của sự hiện hữu.
Ngược lại với đạo Ja-in,đạo Ajivika chủ trương không có một phương cách nào tránh khỏi sự tái sinh vì đấylà một hiện tượng tự nhiên, tất yếu, mang tính cách "máy móc", có nghĩalà một sự chuyển vận tự nhiên và tất yếu của sự sống. Dù giữ gìn đạo đức hay thựcthi những điều kém phẩm hạnh thì cũng đều vô ích như nhau vì những hành động đókhông gây ra một tác động nào đối với chu kỳ tái sinh của một cá thể. ĐạoAjivika chủ trương định mệnh (niyati)mang tính cách tuyệt đối, đấy là một động lực vận hành mang tính cách "cơhọc" và chức năng của nó là thúc đẩy sự tái sinh hay luân hồi của một thể dạng sinh độnggọi là linh hồn(tiếng Phạn jiva -the life-pinciple) thuộc "sự sống" tạm bợ này. Linh hồn(jiva) của một cá thể lệ thuộc vào sốphận (niyati - destiny) của cá thể ấy,do đó không thể thay đổi hay cải thiện được. Tuy thế đạo Ajivika cũng cho rằng dòngluân hồi không mang tính cách bất tận mà chỉ kéo dài 84 000 kiếp sống, trêndòng luân hồi đó một cá thể sẽ được tự động tinh khiết hóa dần dần trong từngkiếp một cho đến lúc đạt được sự giải thoát vào kiếp cuối cùng. Sự tiến hóa (parinama) tự nhiên và tuần tự từ sự hiệnhữu này sang sự hiện hữu khác tượng trưng cho một quá trình tinh khiết hóa nhằm"tẩy sạch" karma, bởi vìnghiệp bị một yếu tố "vật lý" mang "màu sắc" (lesya) làm cho ô nhiễm. Vì lý do ô nhiễmbởi "màu sắc" cho nên có tất cả năm thể loại cá thể (chúng sinh), mỗiloại cá thể mang một màu sắc khác nhau : đen, xanh, đỏ, vàng và trắng, tươngquan với năm cấp bậc tinh khiết hóa : từ cõi địa ngục tối tăm cho đến cõi trongsáng của thể dạng giải thoát. Các giá trị đạo đức chỉ đơn giản là các "dấuhiệu" bên ngoài chứng tỏ cấp bậc tiến hóa của một cá thể trên dòng táisinh, nhưng tuyệt nhiên không tham gia hay liên hệ gì đến quá trình tiến hóaqua các kiếp sống. Quan điểm cho rằng hành động không mang lại một hiệu quả nàovà định mệnh mang tính cách tuyệt đối của đạo Ajivika hoàn toàn khác biệt và đốinghịch với giáo lý Phật giáo và cả với đạo Ja-in.
Thế nhưng cả hai tôngiáo Ajivika và Ja-in đều chủ trương các phép tu tập khá giống nhau đấy là cáchsống khổ hạnh và hành xác. Khổ hạnh đối với đạo Ja-in nhằm vào mục đích tẩy sạchnghiệp trong quá khứ, đối với đạo Ajivika là cách chứng tỏ giai đoạn thuộc cáckiếp sống cuối cùng mà người tu tập sắp đạt được, tức là thời điểm sắp được giảithoát khỏi chuỗi dài của sinh tử. Cách sống trần truồng và khất thực của đạoAjivika là để chứng tỏ người tu tập không còn màng gì nữa đến các giá trị xã hộicủa cuộc sống thế tục. Điểm tương đồng thứ hai là cả hai tôn giáo Ja-in vàAjivika đều chủ trương sự hiện hữu của một cái ngã(atman) hay linh hồn(jiva). Cái ngã hay linh hồnlà một thực thể hay một chất liệu(dravya) có thật, mang tính cách trường tồn và sáng suốt, giúp bảotoàn một cá thể xuyên qua những thử thách của sự biến đổi là cái chết. Tuykhông thuộc thành phần của thể xác thế nhưng cái ngãhay linh hồncókhả năng duy trì sự sống cho thân xác. Cũng xin nhắc thêm là đối với hai tínngưỡng trên đây cái ngãhay linh hồnmang tính cách cá nhân tuyệt đối,khác với quan điểm của Ấn giáo xuất hiện sau này, vì Ấn giáo tin rằng cái ngãhay linh hồn(atman) của mộtcá thể chỉ là một phần nhỏ hay một đơn vị của một thể dạng linh hồn "tậpthể" rộng lớn mang tính cách vũ trụ (paratman).Trên đây là phần trình bày sơ lược về nghiệp theo quan điểm của đạo Ja-in và đạoAjivika, hai tín ngưỡng này hình thành gần như đồng thời với nhau và đã từng"cạnh tranh" với Phật giáo trong lãnh thổ Ma-kiệt-đà. Sau đây là quanđiểm của Phật giáo về nghiệp.
Khái niệm về nghiệp trongPhật giáo khác hẳn với quan điểm của hai tín ngưỡng trên đây. Đức Phật nêu lênkhái niệm về nghiệp trong khuôn khổ của một nguyên tắc toàn cầu, đấy là quy luật tương liên và tương tạo, chi phối tấtcả mọi hiện tượng trong vũ trụ(pratityasamutpada).Kinh sách gốc Hán gọi quy luật này là lýduyên khởi, ngôn ngữ Tây phương thì gọi là interdependencehay coproductionconditionnée, hay conditionedco-production (cũng có học giả đề nghị nên dịch là coproduction conditionnelle - conditioning co-productionthì đúnghơn, thế nhưng cách dịch trước đây đã trở thành quen thuộc trong kinh sách Tâyphương). Lời giảng nổi tiếng sau đâycủa Đức Phật tóm lược thật minh bạch quy luật đó :
"Imasmimsati, idam hoti [bhavati];imassuppâdâ,idam uppajjati.Imasmimasati, idam na hoti;imassânirodha, idam nirujjhati.""Cái này có, cái kia hình thành;Cái này hiển hiện, cái kia sinh ra.Cái này không có, cái kia không hiển hiện;Cái này đình chỉ (biến mất), cái kia không sinhra."(TrungBộ kinh, Majjhima-nikaya, III, trang 63)Câu trên đây là mộttrong những câu đơn giản nhất và đồng thời cũng thâm sâu nhất trong số các lờigiảng huấn của Đức Phật, tuy hết sức đơn giản nhưng câu ấy đã giải thích trọn vẹnbản chất của vũ trụ này. Các nhà khoa học và các triết gia Tây phương đều vôcùng khâm phục ý nghĩa sâu xa hàm chứa trong câu nói thật đơn sơ trên đây.
Thật vậy quy luật tươngliên và tương kết cho thấy tất cả mọi hiện tượng đều mang tính cách cấu hợp,liên kết và lệ thuộc vào nhau để hiện hữu và biến động, dù đấy là những hiện tượngthuộc lãnh vực vật-chất hay phi-vật-chất, thuộc sự sống hay chỉ là vật chất đơnthuần. Trong bối cảnh chung của quy luật tương liên mang tính cách vũ trụ đó, karmahay nghiệpchỉ là một khía cạnh đặcthù, một trường hợp cá biệtliênquan mật thiết đến sự sống của chúng sinh (sattva)hàm chứa một thể dạng hay một cấp bậc tâmthức nào đó, đấy là các chúng sinh cógiác cảmthuộc vào sáu cõi luân hồi(lục đạo). Kinh sách gốc Hán gọi đấylà các chúng sinh hữu tình, mặc dầu chữ hữu tình không được chính xác lắm và dễgây ra hiểu lầm. Vậy một cách cụ thể phải hiểu nghiệp như thế nào ?
Nghiệp là gì ?
Xin nhắc lại nghiệp làmột hành độngthế nhưng phải hiểu rằngđấy không phải là một hành động bằng cử chỉ có thể quan sát được hay là một lờinói có thể nghe thấy được, mà đúng hơn là một tác độnghay một xúc cảmxảy ra trong tâm thức. Một số kinh sách phân chia nghiệp thành ba loại là thânnghiệp, khẩu nghiệp và ý nghiệp, tuy nhiên cách phân loại này cần phải được giảithích thêm vì dễ gây ra hiểu lầm. Nghiệp trước hết là một tác ý(cetana) tức là mộtsự chủ tâm,một ý định, mộtý muốn trongtâm thức,sau đó từ nghiệp tác ýmới sinh ra hành động(trên thân xác), ngôn từ vàtâm ý (thuộc cơ quan tâm thần, thí dụ : mưu đồ, dự tính... phát sinh trong tâmthức). Tóm lại chỉ có hành động trên thân xác và ngôn từ là những biểu hiện củanghiệp "quan sát" được vì thuộc vào thế giới bên ngoài. Vì thế các thuậtngữ như tác ý(cetana), ý nghiệp(cetanakarma) hay tâm nghiệp(manakarma) đềuchỉ định nghiệp thuộc lãnh vực tâm thần và mang ý nghĩa khá gần nhau. Bản chất tâmthần của nghiệp rất quan trọng vì sẽ giúp tìm hiểu sự chống đỡ và vận hành của nótrong tâm thức. Dưới đây xin trích dẫn bốn câu song hành đầu tiên trong kinhPháp Cú cho thấy vai trò tiên khởi và chủ động của tâm ý tức là ý nghiệp hay tâmnghiệp :
"Mọihiện tượng đều do tâm ýmà ra,Tất cả đềusinh ra từ tâm ý.Một ngườiăn nói và hành động với tâm ý xấu,Khổ đau sẽlăn theo người ấy như bánh xe lăn theo bước chân của con vật kéo xe.Mọi hiệntượng đều do tâm ý mà ra,Tất cả đềusinh ra từ tâm ý.Một người ăn nói và hành động vớitâm ý tinh khiết (tốt),Hạnh phúc sẽ lăn theo người ấynhư bánh xe lăn theo bước chân của con vật kéo xe".Tâm ý (tri thức) vừa là nơi phátsinh ra nghiệp cũng vừa là trung tâm phát tán của nghiệp. Ngôn từ và hành độngtrên thân xác chỉ là những cách phát lộ hay những phương tiện biểu lộ của tâm ý.Kinh A-tì-đạt-ma(Abhidharma- Luận tạng) phân loại nghiệp rất minh bạch : "ý nghiệp"là loại nghiệp khơi động (thúc đẩy) mang tínhcách chủ động, "khẩu nghiệp" và"thân nghiệp"là các nghiệp bị thúc đẩy tức bị xui khiến bởi tâmý, các nghiệp này mang tính cách lệ thuộc và "thụ động". Tác ý (cetana), ý nghiệp (cetanakarma) và tâm nghiệp (manakarma)đều mang bản chất chủ động, vì thế sựphân biệt ba "thể dạng" tâm thần này trở nên khá tế nhị, tuy nhiên vớimục đích đơn giản hóa chúng ta có thể tạm xem sự khác biệt ấy thuộc vào lãnh vựcthuật ngữ. Tóm lại nghiệp là một hành vi kích động của tâm thức hướng vào các phẩmtính hay các khuyết điểm của một đối tượng nào đó.
Thiết nghĩ cũng cần nhắc lại là tâm ýhay hành vi tâm thầnhoàn toàn không lệ thuộc vào ý chí hay một sức mạnhbên ngoài mang tính cách thiêng liêng mà đấy chỉ là một hiện tượng tâm thầnlệ thuộc vào những kinh nghiệm quá khứvà những xuhướnghay thói quencủa một cá thể,tượng trưng cho một phản ứng mang tính cách đạo hạnh hay kém đạo hạnh. Tóm lại tác ýhay tâm ý(volition) là một phản ứngcủa một cá thể khi tiếp xúc với một đối tượng và đối tượng này khơi động lại nhữngkinh nghiệm cảm nhận mà cá thể ấy đã có từ trước trong quá khứ đối với một đốitượng cùng loại.
Trong bất cứ trường hợp nào, tâm ý hayhành vi tâm thần tức là tác ý hay nghiệp luôn luôn kết nối với sự cảm nhận về cái tôihay cái ngãđứng phía sau mọi ý nghĩ và hành động. Nói cách khác nghiệpđược định nghĩa như một hành vi mang nặnghậu ý của một cái ngã làm chủ thể cho hành vi ấy. Dưới một góc nhìn nào đó nghiệpcó thể xem là một phương cách gián tiếp biểu lộ cái tôivà xác định sự hiện hữu vững chắc của nó. Sự cảm nhận cái tôiấy là biểu hiện của vô minh và vô minh thì lại là động lực tất yếu đưa đến sựtái sinh.
Sự tạo nghiệp
Phần trình bày trên đây cho thấy tácđộng và sự vận hành của nghiệp như thế nào, vậy chúng ta thử tìm hiểu thêm xem cơsở nào hay chức năng nào đã làm phát sinh ra các tác động tạo nghiệp trên đây ?Để trả lời cho câu hỏi này cần phải nhờ đến khái niệm về ngũ uẩn (panca skandha) tứclà năm thứ cấu hợptạo ra cá thể conngười. Trong số ngũ uẩn thì uẩn thứ tư gọi là hành(samskara) là uẩn giữchức năng tổng kết và diễn đạt các giác cảm. Chữ samskaragồm có hai vần : vần thứ nhất là samcó nghĩa là sự kết hợp(tiếng Hy lạp là Syn-, tiếng La tinhlà Cum-, tiếng Pháp và Anh là Con-), vần thứ hai là kravà cũng là vần tạo ra chữ karma. Do đócác ngôn ngữ Tây phương dịch chữ samskara là formationkarmique, formation volitionnelle, facteurs de composition, forcesconcrétisantes du karma, mental formation impulses, v.v..., một cách vắn tắtcác cụm từ ấy có nghĩa là sự tạo nghiệp.Mạn phép dài dòng như trên đây vì chữ hànhtrong kinh sách tiếng Việt không diễn tả được đầy đủ ý nghĩa của chữ samskara. Vậy samskarahay sự tạo nghiệpthật sự là gì ?
Samskarahay uẩn thứ tưgồm có 49 yếu tố tâmthần, chẳng hạn như : ham muốn, ganh tị, hiểu biết, bám víu, giận dữ, sao lãng,đờ đẫn, hối hận, lý luận, v.v. và v. v. Tập A-tì-đạt-matập luận(Abhidharma-samuccaya) củaVô Trước (Asanga) có liệt kê đầy đủ các yếu tố này. Riêng Phật giáo Tây tạng thìđưa ra một danh sách gồm đến 51 yếu tố. Đấy là các yếu tố hay nhân tố tâm thần nốikết tri thức (consciousness) với đối tượng mà nó cảm nhận được, nói cách khác đấylà sự diễn đạt của tri thức khi tiếpxúc với một đối tượng nào đó. Sự diễn đạt này tạo ra một xu hướng hay xung năngthúc đẩy dưới hình thức một tác ý (volition) phát sinh trong tâm thức. Tác ý ấyliên quan đến các thói quen và phản ứng có sẵn trong "tiềm thức" củamột cá thể nhằm khích động hay xui khiến cá thể ấy thực thi một hành động nàođó mang tích cách tích cực, tiêu cực hay trung hòa. Năng lực thúc đẩy hay khíchđộng trên đây liên hệ mật thiết với nghiệp trong quá khứ, đồng thời cũng nhấtthiết phù hợp với tác ý của cá thể ấy. Năng lực thúc đẩy đưa đến tác ý và hànhđộng đều thuộc vào một thể loại chung tức có cùng một bản chất như nhau : hoặc tíchcực, tiêu cực hay trung hòa.
Để cụ thể hóa cách trình bày baoquát và trừu tượng trên đây xin đơn cử một một thí dụ như sau. Người ta thường nói đến một hiệntượng si mê hay đam mê gọi là "tiếng sét ái tình" xảy ra một cách độtngột đối với một cá thể hay chung cho hai cá thể, hoặc khác phái hoặc đồng tínhkhi họ gặp nhau. Tác động gây ra tiếng sét "ái tình" thuộc vào chứcnăng diễn đạtcủa samskara, tức cấu hợp thứ tư trong ngũ uẩn.Tiếng sét ấy là xung năng của nghiệp lực ghi khắc trên dòng tri thức của cá thểấy phù hợp với đối tượng là một cá thể khác. Nếu một cá thể nào đó bị"giáng cho một cú" thì đấy là quả do nghiệp từ trước đã chín muồi vàgặp được cơ duyên. Cú sét có thể bị "tịt ngòi" và trong trường hợp nàycá thể có thể bị khổ sở, đau buồn, nhớ nhung... nôm na là "thấttình", hoặc có thể được "thoả mãn" trong nhất thời sau đó thìsinh con đẻ cái, hạnh phúc "lâu bền", hoặc cũng có thể phía sau tiếngsét đó là khổ đau, là những trận cãi vã, kể cả những xung khắc nặng nề... Nghiệpcó thể "rất lớn" và "lan rộng", thế nhưng khi khởi sự thì chỉlà "một tia chớp" tức là một tácý(cetana) phát sinh từ một vết hằntrong tâm thức (nghiệp) khi nó bị một đối tượng bên ngoài (cơ duyên) "châmngòi".
Tóm lại những gì vừa trình bày trên đâycho thấy nghiệp mang hai sắc thái khác biệt nhau và có thể xem là đối nghịch vớinhau nữa : nghiệp vừa là một hành vi lệthuộc, tức phải gánh chịu sự chi phối của tác ý(cetana), vừa tượngtrưng cho một hành động tâm thần mangtính cách chủ động(samskara), tứclà hành động bám víu - tiêu cực hay tích cực - hướng vào đối tượng cảm nhận xuyênqua các xung năng phát sinh từ các hành vi trong quá khứ.
Trong một bài viết của PhilippeCornu (Une petite histoire du Karman enInde, Les Cahiers bouddhiques N°6, Université Bouddhique Européenne, 2011,trang 46), nhà học giả Phật giáo lỗi lạc này đã giải thích rất rõ hai đặc tính trênđây của nghiệp bằng cách dùng các chữ bị tróibuộc hay bị quy định(conditionné- conditioned) để giải thích tính cách lệthuộccủa tác ý, và chữ quy địnhhay tạo điều kiện(conditionnant - conditioning) để giải thích tính cáchchủ độngcủa nghiệp. Tóm lại nghiệp thểhiện dưới hai thể dạng khác biệt nhau : thể dạng thứ nhất là một tác ý(cetana) mang tính cách lệ thuộc(conditioned) phát sinh từ những thói quen và xu hướng do nghiệp trong quá khứkhơi động, thể dạng thứ hai là một tác động(samskara) hàm chứa khả năng tạo dựng, thiết kếhay thực hiệnmộtcái gì đó (conditioning).
Đức Phật cũng đã giải thích rất tườngtận sự khác biệt giữa hành động tiên khởi giữ vai trò nguyên nhân thúc đẩy (chủđộng) và sự phát hiện sau đó của hậu quả (phala)khi nguyên nhân đã trở thành "chín muồi" (thụ động). Hậu quả có thể xảyra trong tức khắc hoặc hoãn lại trong một thời gian lâu dài hơn, dù sao thì sựchín muồi đó không phải là một phần thưởng cũng không phải là một thứ hình phạtmang tính cách thiêng liêng. Thể dạng "chín muồi" ấy chỉ là giai đoạncuối cùng (quả) của một quá trình diễn tiến tự nhiên của một năng lực tồn dưphát sinh từ một hành động trước đó (nhân).
Sau đây là một đoạn ngắn trích dẫn từmột bài viết của Mahathera Narada (1898-1993) trong một quyển sách do học giảRené de Berval làm chủ biên, gom góp các bài viết bằng Pháp ngữ hoặc đã được dịchsang Pháp ngữ của một số học giả và triết gia Phật giáo nổi tiếng nhất của tiềnbán thế kỷ XX trên toàn thế giới. Sách được xuất bản tại Sài gòn năm 1959 để kỷniệm lễ Phật đản thứ 2500, tái bản lần thứ nhất tại Pháp năm 1987, và lần thứhai năm 2008. Mahathera Narada viết nhưsau:
"Hân hoan hay khổ đau là số phận chung của nhân loại, đấy là hậuquả không tránh khỏi của một hay nhiều nguyên nhân nào đó. Đối với quan điểm củaPhật giáo, đấy không phải là một phần thưởng hay một sự trừng phạt do một sức mạnhthống trị siêu nhiên và toàn năng phân phát cho một linh hồn đã thực hiện đượcmột việc tốt hay xấu. Những người theo các tôn giáo hữu thần chỉ tìm cách giảithích tất cả mọi thứ trong cuộc sống hiện tại và cuộc sống tương lai, nhưng lạimù tịt những gì thuộc về quá khứ. Họ tin vào một thứ công lý sau khi chết (postmortem) và xem những phút hân hoan hay đau khổ trong hiện tại là sự ban thưởnghay trừng phạt do một vị Trời tối thượng, siêu nhiên và toàn năng ban xuống chohọ, sau khi họ được sáng tạo [làm người]. Phật giáo không chấp nhận một vị Trờisáng tạo như thế, và chỉ tin vào một quy luật tự nhiên và một nền công lý tựnhiên, diễn tiến một cách vững chắc và vận hành một cách tự nhiên. Các vị trời,chư Phật hay con người, không một ai có thể chận đứng dù chỉ tạm thời sự vậnhành của quy luật đó. [...] Thế nhưng giáo lý nhà Phật về nghiệp không hề đưara một cái nhìn khôi hài mang tính cách số mệnh đại loại như : "Bạn sinhra nghèo đói, chẳng qua vì nghiệp của bạn xấu. Bạn sinh ra giàu có, ấy là nhờnghiệp của bạn tốt. Vậy bạn hãy an phận với phần số của bạn đi và cố gắng làmđiều tốt để kiếp sau được giàu có". Đức Phật vô cùng từ bi không thuyết giảngquy luật về nghiệp để bào chữa cho người giàu và an ủi người nghèo bằng cách hứahẹn một niềm hạnh phúc phù du trong kiếp sau".
(MahatheraNarada - La doctrine du Kamma,Présence du Bouddhisme, chủ biên René de Berval, Gallimard, tái bản lần thứhai, 2008, trang 139).
Nhữnggì vừa trình bày trên đây cho thấy tác ý phát sinh từ vết hằn của nghiệp như thếnào và sau đó hành động được phát sinh từ tác ý ra sao. Vậychúng ta thử trở ngược xa hơn các quá trình này để tìm hiểu vết hằn của nghiệp đãđược ghi khắc như thế nào và đã được chuyển tải ra sao trước khi trở thành tácý và hành động. Nếu muốn tìm hiểu các vấn đề này thì trước hết phải nắm vững trithức (consciousness) là gì ?
Dòng lưu chuyển của tri thức là gì ?
Theo quan điểm Phật giáo tri thức làtác động tâm thần mang lại sự hiểu biết(acte de connaissance - act of knowledge). Sự sinh hoạt của tri thức gồm có nhiềutác động nối tiếp nhau, mỗi tác động tượng trưng cho một "đơn vị" cảmnhận thật ngắn, xảy ra thật nhanh, tương tợ như hình ảnh của một đoạn phim chiếutrên màn ảnh. Sự xuất hiện và biến mất liên tục của các hình ảnh rời rạc tạo rasự chuyển động, đối với một đoạn phim thì tốc độ là 24 hình ảnh tiếp nối nhautrong một giây, hoặc cũng có thể so sánh với một máy chụp ảnh kỹ thuật số màngười ta có thể sử dụng để chụp từng tấm ảnh một hoặc ghi liên tục nhiều hình ảnhliên tiếp để tạo ra một đoạn phim. Tóm lại tri thức là một dòng chảy liên tụcghi nhận nhiều hình ảnh nối tiếp nhau.
Do đó có thể định nghĩa tri thức nhưmột dòng tiếp nối liên tục(continuum) của những khoảnh khắc hiểu biết. Các khoảnh khắc tiếp nối của trithức thường được xem như những đơn vị hiểubiết, do đó tri thức là một cấu hợp, vì thế nó cũng vô thường và mang tínhcách lệ thuộc như tất cả các hiện tượng hay những thứ cấu hợp khác. Mỗi đơn vịhiểu biết dù cho thuần nhất đi nữa thì nó vẫn lệ thuộc vào đơn vị trước nó và đồngthời làm nguyên nhân tạo ra điều kiện cần thiết để làm phát sinh ra đơn vị hiểubiết xảy ra sau nó. Là một cấu hợp nên dòng tiếp nối liên tục đó tự luân lưukhi hội đủ một số điều kiện cần thiết.
Phật Âm (Buddhagosa, thế kỷ thứ IV) mộtđại luận sư của học phái Thượng Tọa bộ (thuộc Phật giáo Nguyên Thủy Therevada)có viết như sau trong tập Thanh Tịnh Đạo (Visuddhimagga) (Bản dịch tiếng Pháp : Le chemin de la Pureté, Fayard, 2002,trang 668) để giải thích nguyên nhân làm phát sinh ra dòng lưu chuyển của trithức : "Chẳng có một vị trời nào hay một vị Brahma (thượng đế của Ấn giáo)nào tạo ra dòng chuyển động liên tục đó ; đơn giản đấy chỉ là những nhân tố hiểnhiện khi hội đủ một số điều kiện [cần thiết]".Tóm lại tri thức là một cấu hợp vô thường, luân lưu như một dòngchảy khi hội đủ một số điều kiện nhất định. Vì thế tri thức nhất thiết không phảilà một linh hồn trường tồn do một sức mạnh thiêng liêng sáng tạo. Tri thức cóthể hoạt động rất tốt biểu hiện cho trí thông minh hoặc kém bình thường làmphát sinh những sự rối loạn mà người ta gọi là bệnh tâm thần.
Ngoài ra tri thức (vijnana) còn được định nghĩa là cấu hợp thứ năm của ngũ uẩn(vijnana-skandha). Cũng xin nhắc lại là mộtcá thể được hình thành từ sự kết hợp của năm thứ cấu hợp gọi là uẩn : uẩn thứnhất là cấu hợp vật chất (thân xác) và bốn uẩn còn lại tương trưng cho bốn chứcnăng sinh hoạt của tri thức tạo ra tâm thần. Cấu hợp tri thức tức uẩn thứ năm làbiểu hiện của sự nhận biết cao nhất tức là khoảnhkhắc nhận thức minh bạch một đối tượng căn cứ vào sự cảm nhận toàn bộ của bốnuẩn khác. Hầu hết các học phái xưa như Tì-bà-sa luận (Vaibhasika), Kinh lượng bộ (Sautrantika), Cụ duyên tông (Prasangika)...vàmột số các tông phái Đại thừa quan niệm rằng cấu hợp tri thức (vijnana) gồm có sáu thể loại tri thứcnhư sau :
1- tri thức thị giác (caksurvijnana)
2- tri thức thính giác (srotravijnana)
3- tri thức vị giác (ghranavijnana)
4- tri thức khứu giác (jihvavijnana)
5- tri thức xúc giác (kayavijnana)
6- tri thức tâm thần (manovijnana)
Năm tri thức đầu tiên là các tri thức giác cảmgiữ vai trò cảm nhận cácđối tượng thuộc thế giới bên ngoài (ngoại cảnh). Các loại cảm nhận này mang tínhcách phiến diện và rời rạc, tương tợ như trường hợp năm người mù sờ con voi.Tri thức thứ sáu là tri thức tâm thần(manovijnana) giữ vai trò tiếp nhận,phối kiểm và tổng kết các cảm nhận rời rạc trên đây để tạo ra một tổng thể hiểubiết có tính cách mạch lạc hơn (toàn bộ hình tướng một con voi), giúp một cá thểmở rộng sự nhận thức của mình đối với thế giới nên ngoài. Tri thức này còn đượcgọi là mạt-na thức hay tri thức(consciousness) theo định nghĩacủa người Tây phương. Tóm lại thế giới mà một cá thể nhận thức hay hình dung trongtâm thức tùy thuộc vào sáu thể loại tri thức trên đây. Đồng thời, cái "thếgiới" hiện ra với từng cá thể hoàn toàn mang tính cách chủ quan. Nhờ vào giáodục (học hỏi) và tính cách quy ước của ngôn từ mà mọi người hình dung ra thế giới"giống nhau", thế nhưng trên thực tế mỗi người nhìn thấy thế giới"hoàn toàn khác nhau" vì cái nhìn ấy bị ảnh hưởng bởi giáo dục, sự bénnhạy của các cơ quan giác cảm và nghiệp lực chi phối tâm thức của mỗi cá thể.
Vết hằn của nghiệp
Mỗi khoảnh khắc hiển hiện trong trithức tương quan và liên kết với đối tượng do nó cảm nhận được và đồng thời lệthuộc vào những kinh nghiệm quá khứ tồn lưu trong tri thức. Các kinh nghiệm quákhứ tô thêm "màu sắc" cho đối tượng cảm nhận, tức có nghĩa là ghépthêm vào sự cảm nhận của tri thức một số "xúc cảm" nào đó. "Màusắc" hay "xúc cảm" tô thêm và ghép thêm vào sự cảm nhận của trithức liên hệ trực tiếp đến các vết hằn (cetana)của quá khứ. Xin trở lại thí dụ về "tiếng sét ái tình", "tiếngsét" là kết quả phát sinh từ sự diễnđạt của tri thứckhi nó góp nhặt và tổng kết các cảm nhận của giác cảm (hìnhdáng, tóc tai, mặt mũi, cử chỉ, giọng nói, v.v... của đối tượng cảm nhận) và sauđó thì ghép thêm vào các sự cảm nhận ấy các xúccảmvà màu mèphát sinh từ nghiệptrong quá khứ. Vì thế các sự cảm nhậnvà diễn đạtđó mang tính cách chủquan rõ rệt, nói cách khác là một cá thể "nhìn" các đối tượng xuyênqua cái tôihay cái ngãcủa mình, tương tợ như chúng ta "nhìn" thế giớixuyên qua các lăng kính của một ống nhòm, các lăng kính của ống nhòm tượngtrưng cho các xu hướng hay xung năng tâm thần tức là các nhân tố phát sinh từcác vết hằn của nghiệp.
Tóm lại nghiệp lưu lại các dấu vết trêndòng tiếp nối liên tục của tri thức. Tuy mỗi khoảnh khắc tạo ra dòng tiếp nối củatri thức được xem như một "đơn vị", thế nhưng bản chất của từng"đơn vị" vẫn là một sự cấu hợp (lệ thuộc vào đơn vị trước đó và tạora các điều kiện làm phát sinh ra đơn vị tiêp theo sau, và đồng thời cất chứa vôsố vết hằn của nghiệp), vì thế mỗi đơn vị và toàn bộ tri thức đều mang bản chấtvô thường tức luôn luôn biến động. Nghiệp được ghi khắc hay tồn dư trong từngđơn vị tri thức dưới thể dạng các vết hằn (cetana)và tự nó cũng chuyển động theo với dòng tri thức, tức phát triển trong từng khoảnhkhắc để trở thành thể dạng chín muồi một lúc nào đó. Tuy nhiên quá trình chínmuồi đó cũng có thể tạm thời diễn tiến "chậm lại", hoặc bị "chậnđứng" trong một thời gian, hoặc cũng có thể hoàn toàn bị hóa giải, tất cả đềutùy thuộc vào tác động của những nghiệp khác có sẵn hoặc sẽ phát sinh sau đó trêndòng lưu chuyển không ngưng nghỉ của tri thức.
Các quan điểm khác về nghiệp
Trên đây là cách giải thích tác độngcủa nghiệp và sự vận hành của tri thức theo quan điểm của các học phái Nguyênthủy (tức các học phái xưa) và một số học phái Đại thừa. Thế nhưng hai học pháiDuy thức (Yogakara-Cittamatra) và Trungquán - Duy thức tông (Yogakara-madhyamika)là hai học phái Đại thừa nghiêng nhiều về triết học nhất là tâm lý học, lại cònđi xa và chi tiết hơn. Trong NhậpLăng-già kinh (Lankavatarasutra)và trong các tập luận của Vô Trước (Asanga, sinh vào thế kỷ thứ IV) và của ngườiem là Thế Thân (Vasubandhu), người ta thấy tri thức (consciousness) được chialàm tám thể loại, có nghĩa là ngoài sáu thể loại tri thức tạo ra một tổng thểtri thức chung (vijnana) theo cách môtả trong Luận Tạng(Abhidharma), còn có hai thể loại tri thứckhác nữa là : tri thức ô nhiễm(klistamanas) mà kinh sách gốc Hán gọi lànhiễm tâm,và tri-thức-căn-bản-của-tất-cả(alayavinana)dịch âm là a-lại-da thức. Kinh sáchHán ngữdịch chữ alayavinana là tàng thức, cónghĩa là tri thức cất chứa tất cả.Thậtra hai cách phân chia tri thức thành sáu và tám thể loại trên đây không gây ramột sự mâu thuẫn nào, sở dĩ có sự khác biệt là do hai cách giải thích khác nhauvề sự vận hành của tri thức, cách giải thích bằng tám thể loại có phần chi tiếtvà tinh tế hơn so với cách giải thích bằng sáu thể loại.
Vậy tri thức thứ bảy và thứ támtrong kinh Lăng-giàvà học phái Duythức của Vô Trước và Thế Thân là gì ? Tri thức thứ bảy hay nhiễm tâm(klistamanas) cũngcó khi được gọi là mạt-na thứclà thểloại tri thức làm phát hiện sự cảm nhận về cáitôihay cái ngãluôn luôn "ẩnnấp" phía sau mọi sự nhận thức với tư cách là một chủ thể đứng ra nhận thức.Thế nhưng cái tôihay cái ngãthật ra chỉ là ảo giác và khônghề hiện hữu, do đó sự cảm nhận của tri thức thứ bảy là một sự sai lầm, và đấy làlý do giải thích tại sao lại gọi tri thức thứ bảy là tri thức ô nhiễm.
Tri thức thứ tám gọi là a-lại-da thức nguyênnghĩa tiếng Phạn là tri-thức-căn-bản-của-tất-cảvà cũng là tri thức quan trọng hơn hết. Với mục đích đơn giản hóa cho dễ hiểu cóthể tạm so sánh a-lại-da thức với tiềm thức (subconscious) trong khoa Tâm lý họchiện đại. A-lại-da thức là nền tảng chống đỡ và cất chứa các vết hằn của nghiệp,tượng tợ như tầng hầm của một căn nhà dùng để cất giữ tất cả những gì chưa cầndùng đến ngay. Tuy nhiên a-lại-da thức không phải chỉ giữ chức năng cất chứa nhữngtồn tích từ các cảm nhận của một cá thể mà còn ghi khắc các xu hướng và xung năngphát sinh từ những tồn tích ấy dưới dạng những vết hằn. Các vết hằn tiếp tục sinhhoạt, thăng tiến và tương tác với nhau một cách kín đáo trong a-lại-da thức vàbất chợt vọt lên trên và ra khỏi a-lại-da thức bất cứ lúc nào để trở thành các chủngtử (vasana) làm phát sinh ra tác ý (cetana). Tác ý tham gia vào sự sinh hoạtcủa tri thức thông thường (vijnana) đểđưa đến các hành động tạo nghiệp (karma).
Hãy trở lại với sáu tri thức thứ nhất.Năm tri thức đầu tiên lệ thuộc vào sự bén nhạy của năm cơ quan giác cảm. Các cơquan này ghi nhận các "cảm giác" khi tiếp xúc với các đối tượng bênngoài, tiếp theo đó tri thức thứ sáu tức trithức tâm thần(manovijnana) sẽ phốikiểm, kết hợp và diễn đạt các cảm giác ấy. Sự hoạt động của tất cả sáu thể dạngtri thức trên đây lệ thuộc vào các đối tượng của ngoại cảnh do đó sự sinh hoạt củachúng mang tính cách "thô thiển" và "giai đoạn" tức khôngthường xuyên và liên tục. Thí dụ đối với trường hợp một người mù thì thị giác bịhỏng và tri thức thị giác không hoạt động. Trái lại sự sinh hoạt của tri thứcthứ bảy và thứ tám luôn luôn sinh động. Trong giấc ngủ, các cơ quan giác cảm kểcả tri thức thứ sáu không hoạt động, thế nhưng tri thức thứ bảy và thứ tám vẫnhoạt động bình thường không ngưng nghỉ, vì thế những gì xuất hiện trong giấc mơchỉ là những hình ảnh tâm thần tức không liên hệ với các đối tượng thuộc bối cảnhbên ngoài. Kể cả trong giấc ngủ thật sâu hoặc những lúc hôn mê (coma) tri thứcthứ bảy và thứ tám vẫn tiếp tục hoạt động, nhờ đó thân xác không trở thành mộtxác chết và khi tỉnh lại ta vẫn nhớ được những gì trước khi ngủ. Tóm lại tri thứcthứ bảy là một thể dạng tri thức làm nhịp cầu trung gian liên kết sự sinh hoạtcủa tri thức thứ sáu mang tính cách nhất thời và thứ tám mang tính cách thườngxuyên.
Tri thức thứ bảy là một thể dạng trithức bấn loạn làm hiển lộ cái ngã. Sựhoạt động vô minh của nó trực tiếp liên kết với a-lại-da thức vì thế nó cũng gâyra ô nhiễm cho a-lại-da thức bằng cách để lại dấu tích của một cái tôido chính nó làm phát lộ và cả cácvết hằn của nghiệp phát sinh từ sự diễn đạt của tri thức thứ sáu. Sự sinh hoạt củaa-lai-da thức mang tính cách thường xuyên và liên tục và nhờ đó mà a-lại-da thứcđã giữ vai trò chuyển tải các vết hằn của cái tôi và của các nghiệp khác từ kiếpsống này sang kiếp sống khác. Nói cách khác a-lai-da thức là một thể dạng trithức luôn luôn năng hoạt, tiềm ẩn và sâu kín, nối liền cái chết và sự tái sinhvà mang theo với nó tất cả các dấu vết của nghiệp.Tóm lại chức năng củatri thức thứ bảy là làm hiển lộ cái tôi tức là một biểu hiện của vô minh, mộtthứ vô minh tuy tối tăm nhưng lại mạnh mẽ nhất trói buộc một cá thể trong vòngluân hồi. Vậy nghiệpvà luân hồi liên quan với nhau như thế nào?
Nghiệp và luân hồi
Trong số trùng trùng điệp điệp nhữngmối dây liên kết và buộc chặt mọi hiện tượng trong vũ trụ qua quy luật tương liênvà tương kết (pratityasamutpada) ĐứcPhật đã chọn ra mười hai mối dây kết nối nhau (dvadasanga pratityasamutpada) trực tiếp liên quan đến các chúngsinh có giác cảm, có nghĩa là trong số này có cả chúng ta. Sự hiện hữu của chúngta là một chuỗi dài tiếp nối giữa nguyên nhân và hậu quả : nguyên nhân này sinhra hậu quả kia, hậu quả kia lại sinh ra nguyên nhân khác, (chữ lý duyên khởitrong kinh sách Hán ngữ dùngtrong trường hợp này rất phù hợp, thế nhưng nếu dùng để chỉ một thể dạng bao quáthơn tức là sự tương liên giữa mọi hiện tượng - pratityasamutpada- thì không được thích nghi lắm). Chuỗi tiếp nối đóbiểu hiện những hành động (nghiệp) của chúng ta trong quá khứ và trong hiện tại,và đồng thời tạo ra các nguyên nhân mới đưa đến sự hiện hữu của chúng ta trongtương lai. Chuỗi dài tiếp nối của mười hai "nút thắt" hay mối dây nhân-quả(nidana) đó gọi là thập nhị nhânduyênvà thường được tượng trưng bằng một bánh xe gọi là bánh xe luân hồi,bánh xe của sự sống, bánh xe của sự hiện hữu, bánh xe xoay vần của nghiệp lực,v.v...,tiếng Phạn là bhavacakra
Vòng ngoài cùng của bánh xe luân hồi(bhavacakra) được tượng bằng 12 hình ảnh(xem hình). Tuy nhiên trong khuôn khổ tìm hiểu sự vận hành của nghiệp đưa đến sựtái sinh thì chúng ta chỉ cần quan tâm đến ba mối dây nhân-duyên (nidana) đầu tiên cũng đủ giải thích tạisao chúng ta lại đang hiện hữu trong cảnh huống như thế này. Ba mối dây ấy nhưsau :
1- Vô minh (avidya) :làmối dây thứ nhất, tựng trưng bởi mộtngười mù đang chống gậy (hình phía dưới bên trái). Đó là khởi điểm của tất cả mọithứ nghiệp, tượng trưng cho sự thiếu hiểu biết về Tứ Diệu Đế và không thấu triệtbản chất của sự hiện hữu là gì. Kinh sách gọi sự thiếu hiểu biết và không thấutriệt ấy là vô minh tự tại (sahajavidya), Đức Đạt-Lai Lạt-Ma thì gọiđấy là vô minh nguyên thủy. Đấy là mộtthể dạng hoang mang và xao lãng tâm thần khiến ta không nhìn thấy bản chất đíchthực của chính mình. Dưới sự chi phối của thể dạng vô minh đó ta không nhận rabản chất ảo giác của mọi hiện tượng và nhất định cho chúng là thật, và từ sự lầmlẫn hay vô minh đó ta tưởng tượng ra một "cái tôi" làm chủ thể để nắmbắt các hiện tượng ảo giác ấy. Sự "tưởng tượng" đó phát sinh từ sự sinhhoạt của tri thức thứ bảy (klistamanas)và khiến cho tri thức thứ tám là a-lai-dathứcbị ô nhiễm. Sự ô nhiễm gây ra bởi "cái tôi" ảo giác tronga-lại-da thức chính là nguyên nhân nguyênthủyđưa đến sự tái sinh.
2-Sự tạo nghiệp (samskara): là mối dây thứ hai trong thập nhị nhân duyên gọi là hành tiếng Phạn là samskara,tức có nghĩa là sự tạo nghiệp, và đấycũng là chức năng diễn đạt của cấu hợp thứ tư hay uẩn thứ tư(cũng gọi là samskara)trong ngũ uẩnđối với các cảm nhận củangũ giác. Mối dây tạo nghiệp được tượng trưng bởi một người thợ đồ gốm (hình ảnhthứ hai sau người mù, nhìn theo chiều kim đồng hồ) đang nắn một cái bình bằng đấtsét đặt trên một bàn quay. Hình ảnh nhào nặn tượng trưng cho xung năng hay xuhướng phát sinh từ nghiệp trong quá khứ, thúc đẩy người thợ đố gốm nặn ra một cáibình phù hợp với xung năng của mình. Hành động nắn một cái bình tượng trưng choý chí hay ý định tức là tác ý trong tâm thức. Hành động đó vừa lệ thuộc vàonghiệp lại vừa mang tính cách chủ động (hai khía cạnh này của nghiệp cũng đã đượctrình bày trong phần trên đây).
3-Tri thức (vijnana): làmối dây thứ ba tượng trưng bởi một con khỉ trèo trên cây (hình thứ ba, sau ngườithợ đồ gốm), nhảy từ cành này sang cành khác, vừa buông quả này lại với đến quảkia. Đấy là hình ảnh tượng trưng cho sự đòi hỏi, ham muốn đưa đến sự "nhậnbiết" về thế giới này dưới sự chi phối và kiềm tỏa của nghiệp. Đấy là thểdạng tri thức gắn liền với sự tái sinh hàm chứa những xung năng của nghiệptrong kiếp sống trước. Do đó tri thức là mối dây kết nối giữa các sự hiện hữu vớinhau, từ kiếp sống này sang kiếp sống khác, và tượng trưng cho một dòng tiếp nốiliên tục (continuum).
Tóm lại vô minh(avidya) đưa đến tạo nghiệp (samskara), tạo nghiệptạora tri thức(vijnana). Tri thức đồng thời cũng là chức năng của uẩn thứ tư trongngũ uẩn giữ vai trò diễn đạtmọi sự cảmnhận tạo ra tình trạng tâm thầnhay tâm thứccủa chúng ta trong cảnh huốnghiện tại.
Kinh Pháp Cú bắt đầu bằng hai câusau đây :
« Mọi hiện tượng đều do tâm ý mà ra,Tất cả đều sinh ra từ tâmý..."Vì thế nên sự diễn tiến của ba mốidây đầu tiên trong thập nhị nhân duyên xảy ra như sau : vô minh(1) sinh tạo nghiệp (2),tạonghiệp(2) sinh tri thức (3), và trithức (3) (consciousness) chính là tâmthần(mental) hay tâm thức(spirit)mà chúng ta đang có trong lúc này, nói cách khác đấy vừa là căn nguyên vừa là nềnmóng của sự hiện hữu của chính chúng ta trong hiện tại. Kinh sách gọi chung ba mốidây ấy là các yếu tốphóng tưởnghay tạo dựng (projective factors - tiếng Phạn : aksepakanga) tạo ra cảnh huống quy định cuộc sống hiện tại của mỗi chúngta và đồng thời chuẩn bị tạo ra cảnh huống mới cho các kiếp sống tiếp theo. Tómlại nghiệp không nhất thiết là những gì thuộc quá khứ mà thật ra còn là nhữnghành động đang xảy ra trong từng giây phút của hiện tại để góp phần vào việc kiếntạo tương lai.
Sự tiếp nối của nghiệp qua các kiếp sống
Sauhết xin nêu lên một khía cạnh khá "gai góc" nếu không muốn nói là "nghịchlý" liên quan đến khái niệm về nghiệp. Đó là cái "cảm giác" củamột cá thể trong kiếp sống hiện tại phải nhận chịu hậu quả phát sinh từ mộthành động do một "cá thể khác" đã thực thi trong kiếp sống trước. Vậyphải nhìn vấn đề này như thế nào ?
Xin nêu lên hai giả thuyết như sau :
1- Nếu một cá thể (pugala) nào đó thực thi một hành động vàsau đó cũng chính cá thể ấy "đầu thai" để nhận lãnh hậu quả phát sinhtừ hành động trước đó của nó thì trong trường hợp này sẽ không có gì biến đổi haythay đổi giữa hai kiếp sống : "cái tôi" hay "cái ngã" đươngnhiên trở thành trường tồn và bất biến và mang tính cách hoàn toàn cá thể.
2- Nếu có một cá thể thực thi mộthành động và lại có một cá thể khác, hoàn toàn ngoại lai không liên hệ gì vớicá thể thực thi hành động trước đây phải đứng ra nhận lãnh hậu quả của hành độngấy, thì trong trường hợp này sẽ xảy ra một sự nghịch lý hay phi lý đối với quyluật tương liên và tương tác giữa mọi hiện tượng (pratityasamutpada, interdependence hay lý duyên khởi), bởi vì cá thểhành động và cá thể nhận lãnh hậu quả không liên hệ gì với nhau, mỗi cá thể tượngtrưng cho một sự chấm dứt trọn vẹn. Đó là một cách phá vỡ cấu trúc của hiện thực,tức không tôn trọng quy luật nối kết giữa mọi hiện tượng. Đấy là chưa nói đến sựmâu thuẫn trong cách biện luận vì giữa hai cá thể thì không có sự tương liên thếnhưng hành động thì lại tạo ra hậu quả.
Trường hợp thứ nhất tượng trưng cho chủ nghĩa trường tồn(eternalism) và trườnghợp thứ hai tượng trưng cho chủ nghĩa hưvô(nihilism), Trong khi đó Phật giáo luôn luôn chủ trương con đường Trung Đạotức đứng giữa hai cực đoan trên đây. Vậy thì theo Phật giáo "ai" đứngra nhận lãnh cái gánh nặng phát sinh từ một hành động do một cá thể "khác"thực thi ?
Trước hết xin trích dẫn một lời thuyếtgiảng của Đức Phật trong Kinh người vácgánh nặng(Bhara-sutta) như sau :
"Nàycác tỳ kheo, vậy cái gánh nặng là gì ? Cái ấy được diễn đạt (giải thích) bằngdanh xưng gọi là sự chiếm hữu (bám víu) của năm thứ cấu hợp (ngũ uẩn) [...].Đấygọi là gánh nặng. Vậy ai là người vác cái gánh nặng ấy ? Cái ấy (cá thể ấy) đượcdiễn đạt bằng danh xưng của một nhân dạng mang tính cách cá thể. [Thí dụ] ngườinày hay người kia, mang tên như thế này hay như thế kia, xuất thân từ gia đìnhnày hay gia đình nọ, v.v... Đấy chính là người vác gánh nặng. Vậy khuân vác cáigánh nặng là gì ? Ấy là sự thèm khát (tanha), nó sẽ mang lại sự tái-hiện-hữu vàtái-hình-thành [...]. Vậy ném bỏ cái gánh nặng là gì ? Đấy là sự chấm dứt (đìnhchỉ) hoàn toàn sự thèm khát ấy, vứt bỏ nó, từ bỏ nó, tự giải thoát ra khỏi nó,loại bỏ nó..."
(dựatheo bản dịch của Môhan Wijayaratna (Samyuta-Nikaya,Bhara-sutta, Les entretiens du Bouddha, Sueil, 2001, trang 187-188).
Khi năm thứ cấu hợp chiếm giữ một vậtthể thì vật thể ấy mang một danh xưng gọi là gánh nặng(nghiệp) và năm thứ cấu hợp cũng trở thành một cá thể(nhân dạng) để vác cái gánh nặng ấy.Năm thứ cấu hợp không khuân vác gì cả, chỉ có một cá thể dưới hình thức một nhândạng mới vác cái gánh nặng mà thôi. Vậy cái gánh nặng ấy là gì ? Đấy là nghiệphay là sự hiện hữu trói buộc trong cõi ta-bà.
Cao siêu lắm thay một một lời giảng.Suy tư về lời giảng ấy để mở rộng tầm nhìn thì ta sẽ không còn thắc mắc cá thểnào là tác giả của một hành động và cá thể nào nhận lãnh tác động do hành động ấygây ra. Hành động và tác động liên hệ mật thiết với nhau, cá thể hành động và cáthể nhận lãnh tác động cũng chỉ là một, bởi vì cá thể chỉ hình thành khi nào xảyra hành động. Sự hình thành của một cá thể không bao giờ ngưng nghỉ, nó liên tụcphát sinh từ những hành động tạo nghiệp, sự hình thành liên tục ấy chính là sựhiện hữu của chúng ta trong thế giới này.
Sau đây xin trích dẫn thêm một câuphát biểu của một triết gia lỗi lạc chuyên về triết học Ấn độ là PaulMasson-Ourel (1882-1956). Lời phát biểu tuy không thể so sánh kịp với lời giảngcủa Đức Phật trên mọi phương diện, thế nhưng cũng cho thấy cá thể nhận lãnh hậuquả của một hành động cũng chính là cá thể đã thực thi hành động ấy :
"Sốphận nằm bên trong mỗi con người, số phận ấy là do mình tự tạo ra cho mình. Hiệntại phản ảnh quá khứ của chính mình ; cả hiện tại lẫn quá khứ lại kiến tạotương lai cho chính mình. Quy luật chi phối cả hai lãnh vực đạo đức và vật lý ấythật chặt chẽ, không cho phép bất cứ ai thoát khỏi hậu quả phát sinh từ hành độngcủa chính mình, không có một sự may mắn hay tình cờ nào có thể giúp vượt rangoài quy luật ấy, không có một sự tha thứ hay ân huệ thiêng liêng nào có thểlàm nhẹ bớt gánh nặng quá khứ của chính mình. Thật thế định mệnh là do mỗi ngườitự tạo ra cho mình, vì trong từng giây phút một, mỗi người tự lèo lái cái địnhmệnh của mình theo một chiều hướng nào đó để kiến tạo tương lai cho chính mình,hậu quả phát sinh từ những hành động từ trước của mình (nghiệp) cũng tham dự vàosự lèo lái ấy".
(P.Masson-Ourel, La notion indienne deliberté, Revue d'histoire de la Philosophie, avril-juin 1930, trang 3).
Thật vậy, một người tu tập không baogiờ nên tự nhìn mình như một thực thể cố định. "Chúng sinh"(être - being) chỉ là một danh xưng, một têngọi mang tính cách quy ước vì chữ "chúng sinh"chỉ có nghĩa là nămthứ cấu hợp gồm thân xác vật chất và bốn thể loại sinh hoạt của tri thức gọichung là tâm thần (mental- spirit).Hìnhtướng hay nhân dạng mà ta đang có chẳng qua là những biểu hiện tạm thời củanghiệp. Nghiệp và chúng ta níu kéo nhau để cùng nhau liên tục hình thành, vì thếkhông thể nào quy định cho "nhân dạng này" tạo nghiệp và "nhân dạngkia" hưởng quả. Đấy chỉ là một cách nhìn quá đơn giản và thô thiển. Một nhândạng trong hiện tại là kết quả của một sự kết hợp gồm vô số nghiệp phát sinh từthật nhiều nhân dạng đã tái sinh liên tục trước đó. Một nhân dạng đang tạo nghiệp- dù tích cực hay tiêu cực - trong kiếp sống sau có thể chưa gặp được ngay cơduyên thuận lợi để nhận lãnh quả, bởi vì còn có sự tác động của vô số các nghiệpkhác chen vào để hóa giải hay hoãn lại sự tạo quả của các nghiệp ấy.
Trên đây là hai trích dẫn : một là lờigiảng huấn của Đức Phật và một là lời phát biểu của một triết gia Tây phương.Thế nhưng trong suốt lịch sử phát triển của Đạo Pháp đã từng có vô số các vị đạiluận sư đại diện cho thật nhiều học phái đã đưa ra những lời giải thích về vấnđề này. Vậy các vị ấy đã giải thích như thế nào ?
Trong Di-lan-đà kinh(còn gọi là Na-tiênTỳ kheo kinh- Milandapanha) chéplại rằng nhà vua Di-lan-đà (Milanda thế kỷ thứ II trước Tây lịch) hỏi nhà sưNa-tiên (Nagasena) như sau :
"-Nếu người ta đốt một ngọn đuốc, thì nó có cháy được suốt đêm hay chăng ?
-Nhất định là có.
-Ngọn lửa vào canh cuối cùng trong đêm có phải là ngọn lửa vào canh hai haychăng, và ngọn lửa vào canh hai có phải một thứ với ngọn lửa vào canh một haychăng ?
-Không.
-Thế thì trong ba canh, mỗi canh phải có một ngọn đuốc khác, có phải thế không ?
- Không. Chỉcó một ngọn đuốc duy nhất đã cháy suốt đêm.
-Cũng thế, thưa Đại vương, sự tiếp nối của các hiện tượng (dhamma) không ngưngnghỉ : hiện tượng này biến đi thì hiện tượng kia sinh ra ; tương tợ như giữahai hiện tượng không có cái nào trước, cái nào sau. Vì thế không phải cùng mộtngười, cũng không phải là một người khác đã nhận lãnh hậu quả tác động sau cùngcủa tri thức".
(theobản dịch tiếng Pháp của Louis Finot, Lesquestions de Milanda, Ed. Dharma,1983, tập II).
Trong một đoạn khác nhà vuaDi-lan-đà lại hỏi :
"-Này tỳ kheo Na-tiên, thế cái gì tái sinh ?
-Danh-xưng-và-hình-tướng.
- Cóphải là Danh-xưng-và-hình-tướng hiện tại tái sinh hay không ?
-Không. Danh-xưng-và-hình-tướng hiện tại thực thi một hành động tốt hay xấu ; vàchính vì hậu quả của hành động ấy mà một Danh-xưng-và-hình-tướng khác tái sinh.
- Nếukhông phải là Danh-xưng-và-hình-tướng trước kia tái sinh, thìDanh-xưng-và-hình-tướng sau này đâu có vướng mắc vào những tội đã vi phạm từtrước.
- Nếukhông phải [đúng] cái Danh-xưng-và-hình tướng trước kia tái sinh [trở lại], thìtrên thực tế Danh-xưng-và-hình-tướng ấy vẫn tái sinh ; bởi vì nó tái sinh, chonên đấy không còn phải là Danh-xưng-và-hình-tướng của chính nó [trước kia].
- Hãy nêu lên cho trẫmmột thí dụ.
[...]
-Vào mùa đông có một người nhóm một đống lửa trong ruộng của mình để sưởi, khi hắnbỏ đi lại quên tắt. Lửa cháy lan sang ruộng người khác. Người này xin Đại vươngxét xử kẻ đốt ruộng mình. Nếu người bị kiện tự biện hộ như thế này : "Nàotôi có đốt ruộng của người ấy đâu : đấy không phải là lửa mà tôi để lại vì quêntắt, không phải [chính cái] lửa ấy đã làm cháy ruộng của hắn, vậy tôi không cótội tình gì cả.
- Hắncó tội.
- Tạisao lại thế ?
- Bởivì dù cho hắn có nói gì đi nữa thì ngọn lửa sau cùng (đốt cháy ruộng của ngườikhác) vẫn liên hệ với ngọn lửa lúc khởi đầu (mà hắn quên dập tắt).
-Thưa Đại vương, đối với Danh-xưng-và-hình-tướng thì cũng tương tợ như thế."
(theo bản dịch tiếng Pháp của Louis Finot, op. cit.)
Nếu nhìn vấn đề dưới mộtkhía cạnh khác thì chúng ta thấy các luận sư Phật giáo cho rằng tri thức(consciousness) nói chung đã giữ vai trò tiếp nối liên tục giữa các sự hiện hữu.Một cách tổng quát có hai cách giải thích sự liên tục đó : cách thứ nhất hìnhdung một dòng tri thức không gián đoạn (continuum) gồm những khoảnh khắc tiếp nốinhau, cách thứ hai là mô tả một thứ tri thức sâu kín (a-lại-da thức) hoạt động liên tục và làm căn bản cho các kiếp sống liêntiếp. Vấn đề này đã được trình bày trong phần trước đây và chỉ xin tóm lược lạivài quan điểm chính do các học phái khác nhau chủ trương.
Theo học pháiTì-bà-sa-luận (Vaibhasika) thì dòng lưu chuyển liên tục của tri thức giữ vaitrò chống đỡ cho chuỗi tiếp nối không ngưng nghỉ, liên kết giữa hành động và hậuquả, hết kiếp này sang kiếp khác. Học phái này cho rằng sự hoạt động của tri thứctâm thần khác với sự hoạt động của năm tri thức giác cảm, vì tri thức tâm thần hoạtđộng liên tục kể cả trong giấc ngủ thật sâu, trong lúc hôn mê và trong nhữnglúc thiền định về sự tĩnh lặng tức là sự đình chỉ của tâm thức, kể cả tronggiai đoạn xảy ra cái chết, trong khi đó năm tri thức giác cảm chỉ hoạt động khinào có sự tiếp xúc với các đối tượng bên ngoài. Các học phái xưa khác, trong sốnày có học phái Kinh lượng bộ (Sautrantika) thì cho rằng nghiệp hình thành dướimột thể dạng không hẳn là tâm thần cũng không hẳn là vật chất, thể dạng này giữvai trò liên kết giữa hành động và hậu quả, đó là một nhân tố "tồn lưu"hay "tồn tích" trong tri thức giữ vai trò tạo ra quả trong tương laivà nối liền các sự hiện hữu.
Theo Pháp Xứng(Dharmakirti, thế kỷ thứ VII) thuộc học phái Duy thức (Cittamatra) thì dòng tiếpnối liên tục của tri thức tâm thần giữ vai trò chống đỡ và chuyển tải các vết hằncủa nghiệp từ sự hiện hữu này sang sự hiện hữu khác. Vô Trước (Asanga) sáng lậphọc phái Duy thức (Yogacara) và người em là Thế Thân (Vasubhandu) cả hai giảithích rằng các dấu vết hay tồn dư của nghiệp được cất chứa trong tri-thức-căn-bản-của-tất-cả tức là a-lại-da thức(alayavijnana). Các dấu vết hay tồn dư đó sẽ chuyển thành các chủngtử làm phát sinh ra quả. Sự sinh hoạt liên tục của a-lại-da thức giữ vai trò liênkết giữa các sự hiện hữu. Cách giải thích của Vô-Trước và Thế thân được chấp nhậnmột cách rộng rãi trong các học phái Đại thừa nhất là Phật giáo Tây tạng.
Tuy nhiên chúng ta cũngcó thể nghĩ rằng chỉ có Đức Phật mới hiểu được nghiệp là gì và sự tái sinh củamột cá thể là gì. Trí thông minh quy ước của chúng ta chỉ đủ để suy ngược trở lạinguồn gốc của mình kể từ thế hệ cha mẹ đến ông cố bà cố, cha mẹ của ông cố bà cố...,và nếu được như thế cũng đã là nhiều. Trong khi đó trong đêm giác ngộ, vào canhhai Đức Phật quán thấy tất cả tiền thân của Ngài trong quá khứ và của từng chúngsinh một cũng như hoàn cảnh mà họ sẽ tái sinh... Sau đây là một đoạn tóm lược tríchdẫn từ kinh Trung A Hàm:
..."Sang canh hai, Tất-đạt-đa lần lượt hội nhập vào tất cả sáu cõichúng sinh trong thế giới ta-bà, quán thấy thật chi tiết các kiếp sống củachính mình trong quá khứ và đồng thời cũng nhìn thấy trước hoàn cảnh sẽ táisinh của từng chúng sinh một trong tương lai, dù đấy là các chúng sinh tầm thườnghay lừng danh, xinh đẹp hay xấu xí, dù các chúng sinh ấy sẽ tái sinh trong mộtkiếp sống thuận lợi hay khó khăn", (Trung A Hàm, 36).
Chỉ có trí tuệ siêu nhiênvà trực tiếp của Đức Phật mới quán thấy được sự vận hành trọn vẹn của nghiệp, cái"thông minh" quy ước, hạn hẹp và thô thiển của chúng ta nhiều lắm thìcũng chỉ đủ để suy luận một cách gián tiếp để cố gắng tìm hiểu sự vận hành ấy làgì. Dù sao thì chúng ta cũng cứ cố gắng sử dụng những ngôn từ quy ước mà chúngta học hỏi được mà trao đổi với nhau để cầu mong tìm hiểu được phần nào những lờigiảng huấn của Đức Phật hầu giúp đỡ nhau trong việc tu tập. Một ứng dụng thực tếnhất là người tu tập mỗi khi có một tác ý hiển hiện trong tâm thức thì phải quánxét ngay xem đấy là một tác ý do vết hằn mang bản chất tích cực hay tiêu cực làmphát hiện ra tác ý ấy. Nếu tác ý ấy biểu hiện cho một xung năng tiêu cực và đentối thì phải tức khắc chận nó lại, không cho nó phát hiện thành hành động trênthân xác, ngôn từ hay trong tâm thức. Nếu tác ý ấy biểu hiện cho một xung năngtích cực mang bản chất từ bi, thì nên phát động sự hân hoan và sung sướng tronglòng để chuyển ngay nó thành những hành động cụ thể.
LờiKết
Nghiệp phát sinh trong trithức, in dấu trong tri thức, lưu giữ trong tri thức và được chuyển tải nhờ dòngtiếp nối liên tục của tri thức. Sau đó nghiệp phát hiện trở lại trong tri thức,tác động và làm phát lộ những ý định và chủ đích trong tri thức và chuyển nhữngý định hay chủ đích ấy thành ngôn từ hay hành động hướng vào các đối tượng bênngoài. Tri thức lại tiếp nhận những phản hồi củanhững hành động đó để ghi lại những vết hằn mới trên dòng lưu chuyển bất tận củanó.
Trên dòng trôi chảy liên tục đó củatri thức, tư duy (samskara) thúc đẩynhau như những gợn sóng trên mặt một dòng sông, và tác ý (cetana) theo đó cũng cũng bị cuốn trôi để hòa nhập và trôi chảytheo. Kết quả là nghiệp (karma) khôngngừng hình thành, tương tợ như những gợn sóng trên mặt một dòng nước.
Nếu hiểu theo học phái Duy thức thìtri thức thứ sáu liên tục kết hợp, hệ thống hóa và diễn đạt mọi sự cảm nhận hầumang lại sự hiểu biết quy ước và phía sau sự hiểu biết đó tri thức thứ bảy làmhiển hiện thường xuyên một "cái tôi" trường tồn. Sự hiện hữu của"cái tôi" hiện ra một cách kín đáo hay lộ liễu phía sau mọi sự diễn đạtquy ước tượng trưng cho vô minh. "Cái tôi" ấy và những sự diễn đạt củanó dưới thể dạng tác ý (cetana) lưu lạidấu vết trong thể dạng tri thức thứ tám là a-lại-dathức. Nếu "cái tôi" không hiện hữu và cũng không có một sự diễn đạtnào thì a-lại-da thức(alaiyavijnana) cũng sẽ trở nên trong suốttương tợ như nước thật tinh khiết trong một dòng sông im lìm, không một gợn sóng,không chuyển tải một cọng rác, một chiếc lá khô hay một hạt phù sa nào.
Đức Đạt-lai Lạt Ma thường giải thíchlà dòng tri thức của mỗi cá thể gồm những khoảnh khắc tiếp nối nhau liên tục từkiếp sống này sang kiếp sống khác, xuyên qua giai đoạn trung gian là cái chết,kể cả sau khi đã đạt được thể dạng giác ngộ. Vì thế thiết nghĩ có thể tạm mượnhình ảnh cụ thể và đơn giản của một dòng sông yên lặng trên đây để tượng trưngcho mục đích tu tập. Thật vậy trên đường tu tập đôi khi cũng có thể xảy ra trườnghợp nhầm lẫn giữa phương tiệnvà cứu cánh. Phật giáo có 84 000 phương tiện thiện xảo(upaya), con số này mang tính cách tượngtrưng trong truyền thống văn hóa Ấn độ, do đó cũng có thể nghĩ rằng mỗi chúngsinh phải cần đến một phương tiện thiện xảo riêng cho mình, vì thật ra không cóhai chúng sinh hoàn toàn giống nhau. Trong khi đó cứu cánh thì chỉ có một tức làsự Giải thoát. Đức Phật có nói : "Nước biển chỉ có một vị mặn, Đạo Phápcủa Như Lai cũng chỉ có một vị duy nhất, đấy là sự Giải thoát". Vậyhãy đơn cử một thí dụ cụ thể, Tây phương cực lạc là một phương tiện thiện xảo, thế nhưng nhiều người lại cứ tưởng đấy là cứu cánh. Vậy cực lạctrong cõi Tây phươngcó nghĩa là gì ?
Cực lạc là sướng tột đỉnh, sướng vôcùng, sướng tối đa. Vậy thì ai sướng hay cái gì sướng ? Thị giác sướng, thínhgiác sướng, khứu giác sướng, vị giác sướng, xúc giác sướng hay cấu hợp tri thứcsướng ? Sướng là một sự diễn đạt thuộc chức năng của uẩn thứ tư (samskara) trong ngũ uẩn, và sự diễn đạtcủa uẩn thứ tư ấy chính là sự tạo nghiệp.Phía sau cái sướng đó có một "cái tôi" thật to lớn ẩn nấp để bám víu.Chính tri thức thứ bảy đã tạo dựng ra "cái tôi" ấy để buộc chặt một cáthể vào chu kỳ luân hồi.
Tóm lại cứu cánh của Phật giáo thậtra không khổ mà cũng chẳng sướng, không thuộc phương Tây mà cũng chẳng phải ởphương Đông. Một cách đơn giản bởi vì :
Phíasau sự tu tập không có người tu tập ;Phíasau phép thiền định không có người hành thiền ;Phíasau lòng từ bi không có người bồ-tát ;Phíasau sự Giác ngộ không có người giác ngộ.Dòng sông tuy vẫn chảy thế nhưng trênmặt sông và bên trong dòng nước, trên thượng nguồn hay dưới hạ lưu, bản chất củanước chỉ là một, không một mảy may khác biệt, tương tợ như nước không chảy, nhưmột dòng sông yên lặng. Đấy là hình ảnh của sự "ngưng nghỉ"hay sự "đìnhchỉ"(nirodha) của một tâmthức không tạo nghiệp. Tuy đìnhchỉthế nhưng tâm thức ấy vẫn lưu chuyển như một dòng sông. Nghiệp phátsinh từ một tâm thức vọng động sẽ tạo ra thế giới, nghiệp phát sinh từ một tâmthức vắng lặng sẽ làm hiển hiện ra niết bàn.
Bures-Sur-Yvette,02.06.11HoangPhong(Thư Viện Hoa Sen)