Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

B. Chánh Tông Phần ( B1 - B2- B3 - B4)

27/04/201311:13(Xem: 3215)
B. Chánh Tông Phần ( B1 - B2- B3 - B4)

PHÁT KHỞI BỒ TÁT THÙ THẮNG CHÍ NHẠO

KINH LƯỢC GIẢNG

(Nguyên văn: Phát Khởi Bồ Tát Thù Thắng Chí Nhạo Kinh Giảng Ký)

Chủ giảng: Hoà Thượng Thích Tịnh Không

Cư Sĩ Truyền Tịnh Chỉnh Lý

Chuyển Ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Hoà

---o0o---

IV. LƯỢC GIẢI KINH VĂN

B. CHÁNH TÔNG PHẦN

1. Có mười sáu vị Bồ Tát nghe theo lời khuyên đến chỗ Phật, gieo mình xuống đất buồn khóc, Phật an ủi bảo họ đứng dậy, lại nói lỗi xưa: ác nghiệp phỉ báng pháp sư, thọ nhiều nỗi khổ, về sau cũng sẽ được vãng sanh thế giới Cực Lạc 

Chánh kinh:

Thị thời, ngũ bách chúng trung, hữu thập lục Bồ Tát dữ Di Lặc Bồ Tát vãng nghệ Phật sở, ngũ thể đầu địa, đảnh lễ Phật túc, bi cảm lưu lệ, bất năng tự khởi. Di Lặc Bồ Tát tu kính dĩ tất, thoái tọa nhất diện.

(Lúc ấy, trong số năm trăm người có mười sáu Bồ Tát cùng Di Lặc Bồ Tát đi đến chỗ Phật, năm vóc gieo xuống đất, đảnh lễ dưới chân Phật, bi cảm ứa lệ, chẳng thể tự đứng lên. Di Lặc Bồ Tát kính lễ xong xuôi, lui ra ngồi một phía). 

Đương thời, trong hội có năm trăm vị Bồ Tát, trong năm trăm người chỉ có mười sáu vị nghe Di Lặc Bồ Tát bảo xong, theo Di Lặc Bồ Tát đi gặp Thích Ca Mâu Ni Phật. Những vị Bồ Tát vừa thuật lỗi mình ấy đều là đại quyền thị hiện. Khi Di Lặc Bồ Tát đem những vị ấy đến trước đức Thế Tôn, sau khi hành lễ hoàn tất, bèn lui ra ngồi.

Chánh kinh:

Nhĩ thời, Phật cáo chư Bồ Tát ngôn:

- Chư thiện nam tử! Nhữ ưng đương khởi, vật phục bi hiều, sanh đại nhiệt não.

(Lúc bấy giờ, đức Phật bảo các Bồ Tát rằng:

- Các thiện nam tử! Các ông hãy đứng lên, đừng có buồn khóc, sanh nhiệt não lớn)

Sau khi chí tâm lễ kính, Di Lặc Bồ Tát ngồi lui qua một bên, mười sáu vị Bồ Tát ấy quỳ mọp dưới đất chẳng đứng lên, sám hối như vậy rất khó ai hơn! Vì thế, đức Phật thấy tình trạng họ như thế bèn an ủi họ, bảo bọn họ chớ nên bi thương, cũng đừng có buồn khổ.

Ở đây có một điểm thường thức, nhân tiện bảo cho các vị luôn. Nếu như trong phần Chánh Tông bắt đầu bằng câu “Nhĩ thời, Phật cáo chư Bồ Tát...”thì trong tựa kinh có thể thêm chữ “Phật thuyết” thành ra “Phật thuyết Phát Khởi Bồ Tát Thù Thắng Chí Nhạo Kinh”; cũng như nếu câu thứ nhất của phần Chánh Tông là ‘Phật nói’ thì thông thường trên tựa đề kinh để thêm chữ “Phật thuyết”. Nếu câu thứ nhất chẳng phải là “Phật thuyết” thì tựa đề chẳng thêm chữ “Phật thuyết”. Bởi thế, quả thật ở đây phần Chánh Tông bắt đầu bằng “Nhĩ thời, ngũ bách chúng trung hữu thập lục Bồ Tát”nên không thêm chữ “Phật thuyết”. Đây là một điểm thường thức, từ rày các vị xem kinh điển, thấy kinh thì đề Phật thuyết, có kinh chẳng đề. Tựa kinh không thêm chữ “Phật Thuyết” bèn gạn là không phải là do Phật nói sao? Vẫn là do Phật nói, thêm chữ “Phật thuyết” hay không là do câu thứ nhất của phần Chánh Tông có hay không có chữ “Phật thuyết”.

Phần khai thị của Phật ở đoạn sau trọng yếu phi thường, chúng ta phải nên cảnh tỉnh, kinh sợ.

Chánh kinh:

Nhữ ư vãng tích, tạo tác ác nghiệp.

(Ông trong xưa kia, gây tạo nghiệp ác).

Câu này là lời nói chung: Trong đời quá khứ, các vị tạo ác nghiệp rất nặng. Ác nghiệp gì vậy?

Chánh kinh:

Ư chư chúng sanh, dĩ sướng duyệt tâm.

(Đối với các chúng sanh, dùng lòng vui sướng).

“Sướng duyệt tâm”là rất thống khoái, rất sung sướng. Làm chuyện gì vậy?

Chánh kinh:

Sân mạ hủy nhục, chướng não tổn hại.

(Nóng chửi hủy nhục, gây chướng ngại, phiền não, tổn hại).

Làm đến tám việc. Đối với chúng sanh, bọn họ chửi người, chửi người thật khoái trá, gây tạo ác nghiệp như thế đó!

Chánh kinh:

Tùy tự phân biệt.

(Theo ý mình phân biệt).

Chấp theo tri kiến phân biệt của chính mình, nói theo tiếng bây giờ là “làm việc theo cảm tình, làm chuyện càn bướng, chẳng đếm xỉa đạo lý!”

Chánh kinh:

Bất năng liễu tri nghiệp báo sai biệt.

(Chẳng thể biết rõ nghiệp báo sai khác)

Lúc tạo những ác nghiệp ấy, bọn họ chẳng biết những nghiệp ấy ắt có quả báo.

Chánh kinh:

Thị cố nhữ đẳng kim vị nghiệp chướng chi sở triền phú.

(Vì thế các ông nay bị nghiệp chướng ràng buộc, che ngăn).

Hiện tại dù bọn họ nghe Phật giảng kinh thuyết pháp nhưng chẳng hiểu được nghĩa chân thật của Như Lai. Đó là vì bị nghiệp chướng buộc ràng, che lấp.

Chánh kinh:

Thời chư Bồ Tát văn thị ngữ dĩ, tùng địa nhi khởi, thiên đản hữu kiên, hữu tất trước địa, hiệp chưởng cung kính, nhi bạch Phật ngôn: “Thiện tai Thế Tôn! Nguyện vị ngã đẳng thuyết thử nghiệp chướng. Ngã đẳng tri tội, đương tự điều phục, ngã tùng kim nhật, cánh bất cảm tác”.

(Khi ấy, các Bồ Tát nghe lời ấy xong, từ dưới đất đứng lên, trật áo vai phải, gối phải đặt sát đất, chắp tay cung kính, bèn bạch Phật rằng: “Lành thay, thưa Thế Tôn! Xin vì chúng con nóinghiệp chướng ấy. Chúng con biết tội sẽ tự điều phục, con từ hôm nay chẳng dám làm nữa!”)

Những điều nói trong đoạn này thật là khó có phi thường, hy hữu. Chịu sửa lỗi, chịu đổi mới, người như vậy cứu được. Có tàm, có quý, cầu Phật chỉ dạy rành rẽ những ác nghiệp mình đã tạo trong quá khứ khiến ngày nay gặp phải những chướng nạn như thế. Biết tội lỗi ấy, bọn họ còn có thể sửa lỗi đổi mới, giống như trong kinh Vô Lượng Thọ nói “tẩy tâm dịch hạnh”(rửa lòng đổi hạnh), từ nay trở đi chẳng dám tái phạm.

Chánh kinh:

Nhĩ thời, Phật cáo chư Bồ Tát ngôn:

(Lúc bấy giờ, đức Phật bảo các Bồ Tát rằng)

Phật giảng cho mười sáu vị Bồ Tát nghe.

Chánh kinh:

Thiện nam tử! Nhữ tằng vãng tích, ư Câu Lưu Tôn Phật Như Lai pháp trung, xuất gia vi đạo.

(Thiện nam tử! Các ông từng trong xưa kia, ở trong pháp của đức Câu Lưu Tôn Phật Như Lai, xuất gia tu đạo)

Thời gian ấy rất lâu. Câu Lưu Tôn Phật vị Phật thứ nhất của Hiền kiếp; Thích Ca Mâu Ni Phật là vị Phật thứ bốn. Thời gian ấy rất dài lâu. Trong thời đức Phật Câu Lưu Tôn, bọn họ xuất gia, tu hành. Câu Lưu Tôn là tiếng Phạn, dịch nghĩa sang tiếng Trung Quốc là Sở Ưng Đoạn (cái đáng nên đoạn). Phiền não là cái đáng nên đoạn, vô minh là cái đáng nên đoạn, những gì đáng đoạn Ngài đều đoạn sạch, ý nghĩa của danh hiệu Ngài là vậy.

Chánh kinh:

Tự thị đa văn, tu trì tịnh giới.

(Tự cậy đa văn, tu trì tịnh giới)

Có thể thấy là hạng người này thông minh và rất có trí huệ, nghe kinh rất nhiều. Bọn họ cậy mình đã nghe nhiều kinh, lại tự cho là mình giới luật rất thanh tịnh. Như vậy cũng chẳng lầm, tu hành cũng tốt, nghiệp chướng là do đâu? Phần kế tiếp nói:

Chánh kinh:

Thường hoài kiêu mạn, ngạo dật chi tâm.

(Thường ôm lòng kiêu mạn, ngạo nghễ, phóng dật).

Bệnh phát từ đây. Đối với người tỏ vẻ kiêu ngạo, nói theo ngôn ngữ bây giờ là “đáng nên kiêu ngạo!”. Bệnh của Bồ Tát là ở chỗ này. Các vị xem: họ đa văn, đa văn vốn là rất tốt, đáng nên kiêu ngạo. Giới luật thanh tịnh rất hay, đáng nên kiêu ngạo! Đáng nên kiêu ngạo là xong rồi! Bây giờ quý vị có điểm sở trường nào, người khác chẳng bằng được mình, quý vị có thấy đáng nên kiêu ngạo hay không? Nếu như quý vị cũng thấy đáng nên kiêu ngạo thì hãy nhớ kỹ đoạn kinh văn này để coi quý vị có còn nên kiêu ngạo hay là không? “Mạn” là ngạo mạn, “dật” là phóng dật, tức là rất tùy tiện.

Chánh kinh:

Hựu hành đầu-đà, thiểu dục tri túc.

(Lại hành đầu đà, ít ham, biết đủ).

Điều này lại càng khó được! Đầu-đà là khổ hạnh, lúc bọn họ tu hành từng đã tu khổ hạnh. “Thiểu dục tri túc” khó được phi thường!

Chánh kinh:

Ư thị công đức, phục sanh chấp trước.

(Với công đức này, lại sanh chấp trước).

Bệnh họ nổi lên rồi: Chấp tướng! Chấp tướng cũng là vướng phải kiêu ngạo. Người khác tu hành đều chẳng bằng họ, bọn họ được tín đồ tại gia cung kính, cúng dường như thế. Ý nghĩa đoạn này rất sâu, rất rộng, quý vị phải rất lắng lòng, rất chú tâm thể hội, chẳng nên đọc sơ sài lướt qua đoạn kinh này. Đoạn dưới, đức Phật nói cụ thể về sự tướng gây tạo ác nghiệp.

Chánh kinh:

Nhĩ thời hữu nhị thuyết pháp tỳ kheo.

(Lúc bấy giờ có hai vị tỳ kheo thuyết pháp).

Có hai vị xuất gia, đại khái là thường giảng kinh thuyết pháp ở bên ngoài. Giảng kinh thuyết pháp đương nhiên thính chúng đông, cúng dường cũng nhiều.

Chánh kinh:

Đa chư thân hữu, danh văn, lợi dưỡng.

(Có nhiều bè bạn, tiếng tăm, lợi lộc).

Pháp sư thuyết pháp nhất định được như vậy, nhất định có hiện tượng như thế.

Chánh kinh:

Nhữ ư thị nhân dĩ xan tật tâm.

(Với hai người ấy, các ông do lòng ghen ghét)


Họ ghen ghét hai vị pháp sư giảng kinh.

Chánh kinh:

Vọng ngôn phỉ báng.

(Bịa đặt phỉ báng).

Các ông muốn phá hoại, ghen ghét họ, phá hoại họ thì phỉ báng điều gì? Đồn đãi, đặt chuyện, nói hai tỳ kheo ấy là:

Chánh kinh:

Hành dâm dục sự. Thị thời pháp sư thân hữu quyến thuộc do nhữ ly gián, thuyết kỳ trọng quá, giai linh nghi hoặc, bất sanh tín thọ. 

(Làm chuyện dâm dục. Khi ấy, thân hữu, quyến thuộc của pháp sư do ông ly gián nói họ phạm lỗi nặng nên đều ngờ vực, chẳng sanh lòng tin nhận [pháp của hai pháp sư ấy giảng nữa])

Đấy là phá hoại tín tâm của thính chúng đối với pháp sư giảng kinh thuyết pháp, khiến cho đại chúng chẳng còn tin tưởng vị pháp sư ấy nữa.

Chánh kinh:

Bỉ chư chúng sanh ư thị pháp sư vô tùy thuận tâm, đoạn chư thiện căn.

(Các chúng sanh ấy đối với pháp sư đó không tâm tùy thuận, dứt các thiện căn)

Cần hiểu là đối với hết thảy pháp, công đức nghe pháp không có gì sánh được nổi, bởi nghe pháp phát sanh trí huệ. Đặc biệt là tâm cung kính. Trong kinh Phật thường dạy, cổ đức cũng thường nói. Ấn Quang đại sư nói rất hay: “Một phần cung kính được một phần lợi ích; mười phần cung kính được mười phần lợi ích”.Nếu lòng cung kính bị phá hoại toàn bộ, bất cứ công đức nào cũng chẳng đạt được. Đó gọi là gì? Đoạn pháp thân huệ mạng của hết thảy chúng sanh. Bọn họ tạo tội nghiệp như thế này: tung tin đồn, đặt chuyện phá hoại đạo tràng. 

Chánh kinh:

Thị cố nhữ đẳng do tư ác nghiệp.

(Vì thế các ông do ác nghiệp ấy).

Do tạo ác nghiệp ấy, các ông đã từng...

Chánh kinh:

Ưlục thập bách thiên tuế trung, sanh A Tỳ địa ngục.

(Trong sáu mươi trăm ngàn năm, sanh trong địa ngục A Tỳ).

Lục thập bách thiên tuế”là sáu trăm vạn. Tạo tội nghiệp đó, bọn họ đã phải sống trong địa ngục A Tỳ sáu trăm vạn năm. Sáu trăm vạn năm là chỉ thời gian trong loài người, tính theo thời gian của chúng ta. Các vị xem: tạo tội rất dễ dàng, đã từng sống trong địa ngục A Tỳ sáu trăm vạn năm. Các vị đọc trong kinh Địa Tạng Bồ Tát Bản Nguyện có giải thích tường tận về địa ngục A Tỳ. Trong kinh Lăng Nghiêm cũng nói rất tường tận.

Chánh kinh:

Dư nghiệp vị tận.

(Nghiệp thừa chưa hết).

Vẫn còn thừa tội: trọng tội đã trả rồi, trả xong vẫn còn dư tội. Lúc đó, chuyển sang một địa ngục so ra nhẹ hơn.

Chánh kinh:

Phục ư tứ thập bách thiên tuế trung, sanh Đẳng Hoạt địa ngục.

(Lại trong bốn mươi trăm ngàn năm, sanh trong địa ngục Đẳng Hoạt).

Tứ thập bách thiên”là bốn trăm vạn. Lại trải qua bốn trăm vạn năm trong Đẳng Hoạt địa ngục. Đẳng Hoạt là một trong tám đại địa ngục, tức là trong tám địa ngục nóng, địa ngục thứ nhất là Đẳng Hoạt.

Chánh kinh:

Dư nghiệp vị tận.

(Nghiệp thừa chưa hết).

Đến đây nghiệp thừa vẫn cứ còn.

Chánh kinh:

Phục ư nhị thập bách thiên tuế trung, sanh Hắc Thằng địa ngục.

(Lại trong hai mươi trăm ngàn năm, sanh trong địa ngục Hắc Thằng).

Phía dưới Đẳng Hoạt là Hắc Thằng. Địa ngục này thọ tội so với địa ngục trên nhẹ hơn một chút, nhưng vẫn thuộc trong tám đại địa ngục.

Chánh kinh:

Phục ư lục thập bách thiên tuế trung, sanh Thiêu Nhiệt địa ngục.

(Lại trong sáu mươi trăm ngàn năm, sanh trong địa ngục Thiêu Nhiệt).

Địa ngục Thiêu Nhiệt là địa ngục thứ sáu trong tám đại địa ngục. Địa ngục thứ bảy tôi không nói chi tiết, Phật Học Đại Từ Điển, kinh Địa Tạng, kinh Lăng Nghiêm, sách Pháp Uyển Châu Lâm đều có nói, tài liệu tham khảo rất nhiều. Thọ báo trong các địa ngục lớn nhỏ kể trên, tính theo thời gian trong nhân gian tổng cộng là một ngàn tám trăm vạn năm. Đấy là tạo tội rất dễ dàng, thọ khổ thật dài lâu, có mấy ai biết chăng?

Chánh kinh:

Tùng bỉ một dĩ, hoàn đắc vi nhân.

(Từ đó chết đi, lại được làm người).

Từ địa ngục thoát ra, lại được làm thân người. Được thân người như thế nào?

Chánh kinh:

Ngũ bách thế trung, sanh manh vô mục.

(Trong năm trăm đời, mù từ lúc vừa sanh, không có mắt).

Tức là mới vừa sanh ra mắt đã mù, cả năm trăm đời! Đó là dư báo.

Chánh kinh:

Dĩ tàn nghiệp cố!

(Do tàn nghiệp vậy)

Đương nhiên người như vậy cuộc sống rất khốn khổ.

Chánh kinh:

Tại tại sở sanh, thường đa mông độn.

(Sanh ở chỗ nào thường hay tối tăm, chậm lụt).

“Độn” là căn tánh chẳng lanh lợi. “Mông” là mờ mờ, mịt mịt, chẳng có trí huệ.

Chánh kinh:

Vong thất chánh niệm, chướng phú thiện căn, phước đức vi thiểu, hình dung xú khuyết, nhân bất hỷ kiến, phỉ báng khinh tiện, hý lộng khi hiềm, thường sanh biên địa.

(Quên mất chánh niệm, che ngăn thiện căn, phước đức ít ỏi, hình dáng xấu xa, thiếu sứt, người khác chẳng ưa trông thấy, phỉ báng, khinh dễ, chọc ghẹo, coi thường, ghét bỏ, thường sanh nơi biên địa).

Đấy là quả báo họ phải gánh chịu. Trong quá khứ họ từng chọc ghẹo người khác, nay được làm thân người bèn thuộc vào địa vị hèn hạ, cũng bị người khác phỉ báng, khinh rẻ, chọc ghẹo, khinh thường. “Thường sanh biên địa”: biên địa là nơi văn hóa lạc hậu phi thường, nói theo ngôn ngữ hiện tại, là nơi không có giáo dục, sống ở những nơi ấy không có cơ hội được hưởng sự giáo dục.

Chánh kinh:

Bần cùng hạ liệt, táng thất tài bảo, tư sanh gian nan, bất vị chúng nhân tôn trọng kính ái.

(Nghèo túng kém hèn, của cải tan mất, cuộc sống khốn khó, chẳng được mọi người tôn trọng, yêu kính).

Trong năm trăm đời tuy được thân người, nhưng chẳng qua chỉ là những năm tháng gian khổ.

Chánh kinh:

Tùng thử một dĩ, ư mạt hậu thế, ngũ bách tuế trung, pháp dục diệt thời, hoàn ư biên địa, hạ liệt gia sanh.

(Từ đấy chết đi, vào đời Mạt sau, trong năm trăm năm, lúc pháp sắp diệt, vẫn sanh trong nhà hèn kém ở nơi biên địa).

Lúc bọn họ lại được làm người nhằm lúc thời kỳ Mạt Pháp hiện tại của chúng ta. “Mạt ngũ bách niên”là năm trăm năm đầu tiên trong thời kỳ Mạt Pháp, cũng trong năm trăm năm thường được nói trong kinh này, trong thời gian ấy, họ vẫn sanh ra nơi biên địa, chẳng có Phật pháp. Do vì quá khứ báng pháp, nên chẳng có cơ hội nghe Phật pháp.

Chánh kinh:

Quỹ phạp cơ đống, vị nhân phỉ báng, vong thất chánh niệm, bất tu thiện pháp. Thiết ư tu hành, đa chư lưu nạn. Tuy tạm phát khởi trí huệ quang minh, dĩ nghiệp chướng cố, tầm phục hoàn một.

(Túng thiếu đói rét, bị người phỉ báng, quên mất chánh niệm, chẳng tu pháp lành. Cho dù tu hành, gặp nhiều tai nạn. Dù trí huệ quang minh có tạm phát khởi, do vì nghiệp chướng, bèn lại mất ngay)

Đây là nghiệp chướng sâu nặng, dù trí huệ vừa mới xuất hiện một chút, lập tức liền lại mê mờ quên mất, hoặc là bị người khác gây chướng ngại. Chướng duyên rất nhiều!

Chánh kinh:

Nhữ đẳng tùng bỉ ngũ bách tuế hậu, thị chư nghiệp chướng nhĩ nãitiêu diệt.

(Các ông sau năm trăm năm ấy, các nghiệp chướng đó mới bèn tiêu diệt).

Có hiện tượng này là do họ thật sự giữ được sự giác ngộ. Bởi thế, giác mà chẳng mê, chánh chứ không tà, tịnh chẳng còn nhiễm, nghiệp chướng của họ tiêu diệt. Sau khi tiêu diệt lại y giáo tu hành, chắc thật niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ, mới hòng thoát khỏi tam giới, mới hòng liễu sanh tử vĩnh viễn thoát luân hồi!

Chánh kinh:

Ư hậu đắc sanh A Di Đà Phật Cực Lạc thế giới. Thị thời bỉ Phật đương vị nhữ đẳng thọ A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề ký.

(Sau đấy được sanh về thế giới Cực Lạc của Phật A Di Đà. Lúc đó, đức Phật ấy sẽ thọ ký quả Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác cho các ông).

Câu này nói về sự thành tựu khi đã sanh về thế giới Cực Lạc.

2. Khi ấy các Bồ Tát liền phát mười ba hoằng thệ, Phật tán thán ấn khả

Chánh kinh:

Nhĩ thời, chư Bồ Tát đẳng văn Phật sở thuyết, cử thân mao thụ, thâm sanh ưu hối, tiện tự vấn lệ, tiền bạch Phật ngôn:

- Thế Tôn! Ngã kim phát lộ, hối kỳ quá cữu, ngã đẳng thường ư Bồ Tát thừa nhân khinh mạn tật nhuế, cập dư nghiệp chướng. Kim ư Phật tiền, như tội sám hối, ngã đẳng kim nhật ư Thế Tôn tiền, phát hoằng thệ nguyện.

(Lúc bấy giờ, các vị Bồ Tát nghe lời Phật dạy, lông trên toàn thân dựng cả lên, sanh lòng buồn tủi, hối hận sâu xa, liền lau nước mắt, bạch trước Phật rằng:

- Bạch đức Thế Tôn! Con nay bày tỏ, hối tội lỗi xưa. Chúng con thường đối với người hành hạnh Bồ Tát khinh mạn, ghét ganh, giận dữ, và [gây tạo] các nghiệp chướng khác. Nay đối trước Phật, đúng như tội mà sám hối, từ ngày hôm nay chúng con đối trước đức Phật phát lời thề rộng lớn)

Như trong phần trên đã nói: các vị Bồ Tát ngu si, nghiệp chướng sâu nặng ấy hữu ý hay vô ý gây tạo các thứ ác nghiệp. Thời gian họ tạo ác nghiệp tuy không lâu nhưng quả báo thật là kinh khủng quá! Trong kinh điển, thấy rất nhiều những lời chỉ dạy giống như ở đây, cớ sao người học Phật vẫn y như cũ chẳng biết kinh sợ, thức tỉnh, vẫn cứ hủy phạm? Trong kinh này, đức Phật đã giảng tường tận sự việc này cho chúng ta, ta phải chú tâm quán sát: gây tạo ác nghiệp tựa hồ chẳng nghiêm trọng, vì sao quả báo lại nặng nề đến thế? Nếu chẳng thể thấu triệt hiểu rõ sự lý của việc này sẽ chẳng thể khiến chúng ta đoạn nghi sanh tín.

Chúng ta xem trong đoạn kinh văn trên đây, các vị Bồ Tát ấy nghe đức Phật nói xong, “lông trên toàn thân dựng đứng lên cả”; chúng ta thường nói là nghe xong “lạnh rởn da gà”. Hôm nay chúng ta nghe [lời Phật dạy] xong tình hình có giống như vậy hay không? Không cảm giác gì hết! Không có cảm giác thì gọi là chai lì bất nhân. Chúng ta phải hiểu đấy là tội nghiệp, đừng có lầm lẫn. Vì vậy biết là: Mười sáu vị Bồ Tát đó nghiệp chướng tuy bảo là nặng, nhưng so với chúng ta còn nhẹ hơn nhiều lắm lắm! Bọn họ nghe xong liền có cảm xúc như thế, chúng ta nghe xong dửng dưng, bọn họ còn có cách cứu, chúng ta hết cách cứu rồi!

Ở phần trước, đức Phật đã nói việc “kết tội” rất rõ ràng, kết tội với chẳng phải chỉ một người! Vì người gây tạo tội nghiệp là do ghen ghét, nóng giận, nên mới ác ý phỉ báng, đồn rao đặt chuyện, phá hoại đạo tràng, phá hoại tín tâm của đại chúng. Nhà Phật thường nói: “Giết mạng người tội còn nhẹ”. Bạn giết người là giết một người, giết một trăm người, cho đến giết một vạn người, một ngàn vạn người, tội nghiệp ấy vẫn chưa nặng lắm. Chứ cái tội đoạn Pháp Thân Huệ Mạng của một người rất nặng đấy!

Vì sao vậy? Nếu như người ấy có cơ hội ngay trong đời này được sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới, một người sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới, người ấy sẽ làm Phật, làm Bồ Tát. Bạn phải biết là người ấy làm Phật, làm Bồ Tát sẽ trong hư không pháp giới độ không ít chúng sanh, chẳng phải chỉ ngàn vạn, ức vạn đâu nhé! Vì thế, nếu bạn chướng ngại Pháp Thân Huệ Mạng của một người, so với cái tội giết một ngàn người, một vạn người chẳng biết là nặng hơn đến thế nào. Điều này rất khó lãnh hội nổi. Phải nên quán sát tư duy cẩn thận mới hòng lãnh hội được đôi phần.

Cổ nhân thường nói: “Người không phải là hiền thánh, ai không lầm lỗi?”Dù pháp sư có lầm lỗi thì ông ta là người phàm, chưa phải là thánh nhân, huống hồ là pháp sư thật sự có lỗi lầm hay là ông ta cố ý thị hiện như thế, ta đâu có biết? Phàm phu chúng ta đâu có hiểu rõ nổi!

Xưa kia, Thiên Thai Trí Giả đại sư đã nói rất hay, Ngài từng bảo: “Người làm pháp sư, người giảng kinh thuyết pháp, nói được nhưng chưa thể làm được, là quốc sư”.Ông ta nói được, nói rồi thì sao? Bản thân ông ta làm chưa được; dạy mọi người đoạn tham, sân, si, nhưng ông ta chưa đoạn tham, sân, si. Ta có nên tôn kính ông ta hay chăng? Phải tôn kính. Ông ta là quốc sư, là thầy của mọi người trong một nước. Vì lời dạy của ông ta đích thực là chánh pháp, lời dạy không sai lầm, chẳng phải là tà pháp. Nếu như chúng ta chịu học hỏi lời dạy ấy, quyết định được lợi ích. Đấy là: “Thanh xuất ư lam, nhi thắng ư lam”(Màu xanh phát xuất từ màu lam, nhưng hơn hẳn màu lam). Học sinh thành tựu vượt hẳn ông thầy, chỉ cần lời ông ta dạy không phải là tà pháp thì ổng là quốc sư vậy.

Nói được và làm được thì là quốc bảo”:Quốc bảo ít, quốc sư nhiều. Cho nên đều phải tôn trọng, đừng thấy có chút tỳ vết bèn chẳng chấp nhận những lời dạy của ông ta. Ấy là đoạn pháp thân huệ mạng của chúng sanh, bởi thế mới gặp phải quả báo tàn khốc. Kinh nói hạng người như thế đọa địa ngục, từ địa ngục A Tỳ, Đẳng Hoạt cho đến Thiêu Nhiệt, tính theo thời gian trong cõi người là một ngàn tám trăm vạn năm, nhưng thật ra bọn họ thọ khổ, cảm thấy đúng là vô lượng kiếp, như ngạn ngữ nói là “một ngày dài như cả năm”. Vì thế họ cảm nhận thời gian trong địa ngục so với thời gian thật sự chẳng biết nhiều gấp bao lần.

Thời pháp là pháp bất định, mỗi cá nhân cảm nhận khác nhau, có người cảm thấy một năm khác nào vài ngày; trôi qua rất nhanh! Có người đang trong lúc khổ sở, hoạn nạn, thấy một năm dài dằng dặc. Phật dạy Thời chẳng phải là pháp bất định, hoàn toàn phụ thuộc vào nghiệp cảm của từng cá nhân. Tính ra, thiện căn của các Bồ Tát ấy sâu dày, nghe Phật dạy qua nhân quả báo ứng, toàn thân bèn rởn ốc.

“Thâm sanh ưu hối”là sanh tâm hổ thẹn.

Tiện tự vấn lệ, tiền bạch Phật ngôn: - Thế Tôn! Ngã kim phát lộ, hối kỳ quá cữu”: “Vấn lệ” là dùng tay áo lau nước mắt. Bọn họ đối trước Phật phát lộ sám hối. “Lộ” là những tội nghiệp đã tạo trong quá khứ, hiện tại, chẳng giấu diếm mảy may, đều nói ra hết. Sám hối tối khẩn yếu là từ nay trở đi, chẳng còn làm những việc lầm lạc như vậy nữa, chân chánh triệt để sửa lỗi đổi mới. Sám hối như vậy mới có công dụng. Quyết định chẳng làm điều lầm lỗi, đối trước đức Phật khẩn cầu sám hối. Nếu ngày mai vẫn làm như cũ, rồi lại sám hối thì chẳng có ích gì hết, tội lại càng thêm nặng; khác chi ngày ngày khinh dối Phật, Bồ Tát, đối trước Phật, Bồ Tát vọng ngữ. Vì thế, sám hối tối khẩn yếu là “về sau chẳng làm nữa”.

Ngã đẳng thường ư Bồ Tát thừa nhân”:“Bồ Tát thừa nhân” là người hoằng pháp lợi sanh, trong đó có Bồ Tát xuất gia và Bồ Tát tại gia. Chẳng cần biết là xuất gia hay tại gia, người hoằng dương chánh pháp đều gọi là “Bồ Tát thừa nhân”, còn gọi là Đại Thừa Bồ Tát.

Khinh mạn tật nhuế, cập dư nghiệp chướng”:Khinh là coi rẻ, khinh thị. Mạn là ngạo mạn. Tật là ghen ghét. Nhuế là nóng giận. Tật và Nhuế là giữ trong tâm, Khinh và Mạn là biểu hiện ra ngoài. Trong lòng ganh ghét, giận dữ, biểu hiện ra ngoài thành khinh rẻ, láo xược, và các nghiệp chướng khác.

Kim ư Phật tiền, như tội sám hối”: Tội lỗi đã tạo trong quá khứ, nay đối trước Phật phát lộ sám hối. Thế nào là pháp sám hối? Sửa lỗi đổi mới. Tiếp theo, các vị phát ra mười ba điều đại nguyện, đấy là “sửa lỗi” một cách cụ thể. Xin hãy xem kinh văn, chúng ta phải hiểu đúng để học tập theo những điều này.

Chánh kinh:

Thế Tôn! Ngã tùng kim nhật chí vị lai tế.

(Bạch Thế Tôn! Con từ hôm nay đến đời vị lai).

Câu “chí vị lai tế”này rất khẩn yếu, bởi lẽ kinh này là kinh Đại Thừa, là pháp Bồ Tát, pháp Tiểu Thừa chỉ là “tận hình thọ”(đến hết một đời), pháp Đại Thừa chẳng thể nói là “tận hình thọ”, phạm vi của “tận hình thọ” quá nhỏ. “Tận vị lai tế”là đời đời kiếp kiếp ta đều tuân thủ, chứ chẳng phải chỉ một đời này! Đấy mới là chân thật sám hối, triệt để sửa lỗi.

Chánh kinh:

Nhược ư Bồ Tát thừa nhân, kiến hữu vi phạm, cử lộ kỳ quá.

(Nếu đối với người thuộc Bồ Tát thừa, thấy có vi phạm mà nêu bày lỗi họ).

Điều tôi làm trước đây là thấy những Bồ Tát hoằng pháp lợi sanh chẳng cần biết là tại gia hay xuất gia, hễ họ phạm giới, làm điều lầm lỗi, tôi bèn “cử lộ kỳ quá”tức là phô bày lỗi lầm của họ, tuyên bố cho đại chúng biết khiến mọi người xa lánh vị Đại Thừa Bồ Tát ấy, chẳng muốn đến nghe nhận pháp người ấy nói, chẳng muốn học hỏi với người ấy nữa. Việc làm khi trước là do tâm ganh ghét gây chướng ngại, hiện tại từ nay trở đi chẳng dám làm chuyện sai lầm nữa. Nếu vẫn làm như vậy thì....

Chánh kinh:

Ngã đẳng tắc vi khi cuống Như Lai.

(Chính là chúng con khinh dối Như Lai)

Vẫn làm những chuyện ấy chính là chúng con khinh dối đức Thế Tôn. Điều này nêu đầu tiên vì đây chính là thí dụ về tạo nghiệp mà đức Thế Tôn đã nói trong phần trước. Đây là điều đầu tiên; điều này rất quan trọng. Hãy xem điều thứ hai.

Chánh kinh:

Thế Tôn! Ngã tùng kim nhật chí vị lai tế.

(Bạch Thế Tôn! Con từ hôm nay đến đời vị lai).

Mười ba đại nguyện, trước mỗi một điều đều là “tùng kim nhật chí vị lai tế”.

Chánh kinh:

Nhược ư Bồ Tát thừa nhân, hý lộng, cơ hiềm, khủng cụ, khinh tiện.

(Nếu đối với người thuộc Bồ Tát thừa mà bỡn cợt, chê ghét, đe đọa, khinh rẻ).

Câu này rất dễ hiểu, chúng tôi chỉ nói đôi chút. “Khủng cụ”ta thường nói là uy hiếp, lấn lướt.

Chánh kinh:

Ngã đẳng tắc vi khi cuống Như Lai.

(Tức là chúng con khi dối Như Lai).

Quá khứ thường phạm cái bệnh này, hoặc hữu ý hoặc vô ý. Vô ý làm sao phạm? Vô ý là từ vô thỉ kiếp đến nay, do ác tập khí, tự mình chẳng thể khống chế được, thường phạm những lỗi ấy. Câu thứ ba là:

Chánh kinh:

Thế Tôn! Ngã tùng kim nhật chí vị lai tế, nhược kiến tại gia, xuất gia Bồ Tát thừa nhân, dĩ ngũ dục lạc du hý, hoan ngu, kiến thọ dụng thời, chung bất ư bỉ ty cầu kỳ quá.

(Bạch đức Thế Tôn! Con từ ngày nay đến tận vị lai, nếu thấy người thuộc Bồ Tát thừa dù là tại gia, hay là xuất gia, lúc thấy họ dùng thú vui ngũ dục để chơi bời, vui sướng hưởng thọ, con trọn chẳng bới tìm lỗi họ).

Điều này rất khó được. “Ngũ dục”là tài, sắc, danh, ăn uống, ngủ nghỉ; người đời coi là sung sướng. Họ thấy Đại Thừa Bồ Tát xuất gia hay tại gia hưởng thọ ngũ dục thế gian, thú vui lục trần, trong quá khứ nếu thấy tình hình như vậy ắt bèn gây phiền phức, liền bới lỗi họ, liền trách lỗi họ, nắm lấy đó để phỉ báng họ, giày xéo họ. Từ nay trở đi hối cải, chẳng những không tạo tội nghiệp như trong quá khứ, mà trái lại còn....

Chánh kinh:

Thường sanh tín kính, khởi giáo sư tưởng.

(Thường sanh lòng tin kính, tưởng như thầy dạy).

Dẫu cho họ có hưởng thọ ngũ dục, thú vui lục trần, chúng con vẫn cứ tin tưởng họ, vẫn cứ tôn kính họ, vẫn cứ thờ họ làm thầy để học theo, đấy là cách sửa lỗi đổi mới cụ thể vậy.

Chánh kinh:

Nhược bất nhĩ giả, ngã đẳng tắc vi khi cuống Như Lai.

(Nếu chẳng như vậy chính là chúng con khi dối Như Lai)

Trong điều này đặc biệt nêu ra xuất gia và tại gia. Người tại gia thị hiện thọ hưởng ngũ dục du hý vui chơi nhiều, người xuất gia so ra ít hơn. Với những chỗ hoan lạc trong thế gian, người xuất gia ít đi đến đó, nhưng tại gia Bồ Tát có thể đến được. Vì thế, đặc biệt nêu ra xuất gia và tại gia. Chúng ta học Phật thường thấy trong các kinh luật nói là hết thảy chúng sanh căn tánh chẳng giống nhau, chư Phật Bồ Tát độ chúng sanh, tức là tiếp dẫn chúng sanh, cũng phải dùng những thủ đoạn, phương pháp khác nhau. Ta là phàm phu mắt thịt không trí huệ, nhìn chẳng ra, lắm phen ta thấy dường như có những vị không tuân thủ giới luật, phá hoại thanh quy, chứ thật ra, [họ làm vậy] để độ một loại chúng sanh nào đó.

Trong lịch sử Trung Quốc, ai nấy đều biết thời cổ xuất hiện vị Tế Công Hoạt Phật. Cận đại, năm Dân Quốc thứ nhất (1911), pháp sư Diệu Thiện ở chùa Kim Sơn tỉnh Giang Tô được mọi người xưng là “Kim Sơn Hoạt Phật”. Hành vi của pháp sư Diệu Thiện chẳng khác Tế Công chi mấy, Ngài cũng thị hiện khùng khùng điên điên. Cảnh giới của Ngài chẳng thể nghĩ bàn, bọn người bình thường ta trọn chẳng thể tưởng tượng, suy lường được nổi. Người như vậy nhất định phải tôn kính, nhất định phải thâm tín chẳng nghi. Quán sát kỹ ngôn hạnh của họ đều là Chánh Pháp, đều là dạy dỗ người liễu sanh thoát tử, thoát tam giới, chẳng hề chống trái với kinh giáo của Phật, chỉ là thủ đoạn của các Ngài chẳng tương đồng. Điều thứ tư là:

Chánh kinh:

Thế Tôn! Ngã tùng kim nhật chí vị lai tế, nhược ư Bồ Tát thừa nhân, xan thân hữu gia cập chư lợi dưỡng, não bỉ thân tâm, linh kỳ bức bách, ngã đẳng tắc vi khi cuống Như Lai.

(Bạch đức Thế Tôn! Con từ ngày nay đến tận vị lai, nếu đối với người thuộc Bồ Tát thừa mà xẻn tiếc kẻ thân hữu và các lợi dưỡng, não loạn thân tâm họ, bức bách họ, tức là chúng con khi dối Như Lai).

Đoạn này ý nói: vị đại đức hoằng pháp (chữ “Bồ Tát thừa nhân”bao gồm tại gia, xuất gia) nhất định có rất nhiều người tôn kính, cúng dường. “Thân hữu gia”là người thân cận, cúng dường, trong đó có thân thích, bạn bè của quý vị, có rất nhiều người quen biết. Quý vị thấy những người ấy cúng dường, tôn kính vị hoằng pháp, trong tâm rất khó chịu. Sự việc này có thật, chẳng giả đâu, chúng tôi cũng từng thấy qua, rõ rệt nhất là ở những vị làm cha mẹ.

Mỗi khi pháp sư đến nhà tín đồ, con cái họ là tín đồ của pháp sư, thấy pháp sư đến liền quỳ lạy, cung kính, cúng dường, cha mẹ ở bên cạnh thấy vậy rất khó chịu! Con cái chẳng thèm lễ bái mình, cũng chẳng cúng dường mình, hằng ngày còn cộc cằn đối với mình khác chi người dưng, ổng là cái thá gì mà nó ngày ngày đến quỳ lạy, tiền bạc chẳng dễ kiếm gì lại đem cúng dường ổng luôn, trong tâm bất phục! Vì vậy, trong lòng nghĩ cách gây chướng ngại.

Não bỉ thân tâm”là khiến người đó sanh phiền não, bức bách kẻ đó, chuyện này rất thường thấy! Kinh này được đức Phật giảng vào ba ngàn năm trước đây, vào lúc đó còn có những chuyện như thế, huống hồ bây giờ? Nói thật ra, pháp sư dạy dỗ tín đồ thì trước hết phải dạy họ hiếu dưỡng phụ mẫu. Nếu quý vị đối với cha mẹ chẳng kính hiếu, đối với pháp sư lại kính hiếu, thì lòng hiếu kính ấy là giả, chẳng thật vậy. Lẽ đâu đối với thân nhân của mình chẳng hiếu kính, lại đi hiếu kính người chỉ có quan hệ sơ sài, xa xôi đối với mình ư? Như vậy, xét về mặt Lý chẳng thông, trái nghịch luân lý. Vì thế, Phật dạy chúng ta điều thứ nhất là “hiếu dưỡng phụ mẫu”, điều thứ hai là “phụng sự sư trưởng”.

Đạo thầy trò kiến lập trên cơ sở hiếu đạo; pháp sư nhất định phải dạy bảo điều này. Nếu quả thật kẻ ấy ở nhà hiếu thuận cha mẹ thì khi pháp sư đến nhà kẻ ấy, cha mẹ kẻ ấy sẽ hoan hỷ. Chuyện đó, đạo lý đó chúng ta đều phải suy nghĩ kỹ, đều phải nỗ lực phản tỉnh, chẳng khiến chúng sanh gây tạo tội nghiệp. Điều thứ năm là:

Chánh kinh:

Thế Tôn! Ngã tùng kim nhật, chí vị lai tế, nhược ư Bồ Tát thừa nhân dĩ nhất thô ngôn linh kỳ bất duyệt, ngã đẳng tắc vi khi cuống Như Lai.

(Bạch đức Thế Tôn! Con từ nay trở đi đến đời vị lai, nếu đối với người thuộc Bồ Tát thừa dùng một câu thô lỗ khiến người ấy chẳng vui thì chính là chúng con khinh dối Như Lai).

Thô ngôn”tức là lời lẽ thô lỗ, lời nói chẳng dễ nghe, khiến tâm người nghe khó chịu. Khẩu nghiệp này rất dễ phạm. Trong việc thanh tịnh ba nghiệp, kinh Vô Lượng Thọ xác lập điều thứ nhất của cương lãnh tu hành là: “Khéo giữ khẩu nghiệp, chẳng chê bai lỗi người khác”.Trong ba điều tương đương với thân - ngữ - ý thì thân nghiệp lẽ ra đứng đầu, vì sao lại đặt ngữ nghiệp làm đầu? Đó là để chỉ rõ khẩu nghiệp dễ phạm nhất, cho nên đặt khẩu nghiệp làm điều thứ nhất.

Điều thứ sáu [trong mười ba hoằng thệ nguyện] là:

Chánh kinh:

Thế Tôn! Ngã tùng kim nhật, chí vị lai tế, nhược ư Bồ Tát thừa nhân trú dạ lục thời bất cần lễ sự, ngã đẳng tắc vi khi cuống Như Lai.

(Bạch đức Thế Tôn! Con từ ngày nay đến đời vị lai nếu đối với người thuộc Bồ Tát thừa, đêm ngày sáu thời chẳng siêng kính thờ, chính là chúng con khinh dối Như Lai).

Năm điều trên là những điều thường vi phạm trong quá khứ và trong đời này. Đối với Đại Thừa Bồ Tát chẳng biết cung kính, chẳng biết thừa sự, lại còn dùng những tâm tư ghen ghét, ngạo mạn để đối xử với những người thuộc Bồ Tát thừa ấy. Từ điều thứ sáu trở đi, kể từ hôm nay chẳng những các tâm thái xấu xa, hèn kém ấy phải thay đổi, mà còn phải nhận thức đúng đắn, siêng năng cung kính, thừa sự. Bởi thế, họ mới phát nguyện “đêm ngày sáu thời”nghĩa là tâm cung kính ấy chẳng gián đoạn, chẳng lui sụt.

Siêng năng thừa sự. “Sự” là hầu hạ. Điều thứ bảy là:

Chánh kinh:

Thế Tôn! Ngã tùng kim nhật chí vị lai tế, vị dục hộ trì thử hoằng thệ cố, bất tích thân mạng. Nhược bất nhĩ giả, ngã đẳng tắc vi khi cuống Như Lai.

(Bạch đức Thế Tôn! Con từ ngày nay đến đời vị lai, vì muốn hộ trì hoằng thệ này cho nên chẳng tiếc thân mạng. Nếu chẳng như thế, chính là chúng con khinh dối Như Lai).

Phần này nói đến “hộ trì hoằng thệ”,nghĩa rộng là cả mười ba điều, nghĩa hẹp là sáu điều trước. Phát thệ tôi nhất định phải làm được, chẳng những hiện tại phải làm được mà đời đời kiếp kiếp vĩnh viễn làm được. “Chẳng tiếc thân mạng”là nếu gặp phải chướng ngại, dẫu có phải bỏ thân mạng cũng chẳng tiếc, tuyệt chẳng trái nghịch thệ nguyện của mình. Tiếp theo đây là một điều nữa:

Chánh kinh:

Thế Tôn! Ngã tùng kim nhật, chí vị lai tế, nhược ư Thanh Văn, cập Bích Chi Phật, dĩ khinh mạn tâm vị ư bỉ đẳng bất thắng ư ngã, ngã đẳng tắc vi khi cuống Như Lai.

(Bạch đức Thế Tôn! Con từ ngày nay đến đời vị lai, nếu đối với Thanh Văn và Bích Chi Phật, do tâm khinh mạn nói họ chẳng hơn được mình, chính là chúng con khinh dối Như Lai).

Những điều ở phần trên là đối với Bồ Tát Đại Thừa, còn điều này là đối với Tiểu Thừa. Người tu học Đại Thừa hay khinh mạn Tiểu Thừa, thấy các pháp sư Tiểu Thừa đều hạ xuống một bực, coi thường họ, khinh dễ họ, như vậy là sai lầm.

Đại Thừa Phổ Hiền Bồ Tát dạy chúng ta “lễ kính chư Phật”.Phạm vi của chữ “chư Phật”rộng lớn phi thường, trừ mình ra đều là chư Phật. Chư Phật bao gồm Phật quá khứ, Phật hiện tại, Phật tương lai. Hết thảy chúng sanh đều là Phật tương lai, há nào có đạo lý chẳng cung kính! Thanh Văn, Duyên Giác cũng là vị lai Phật, tuy hiện tại tu Tiểu Thừa, tương lai nhất định hồi tiểu hướng đại. Trong kinh Phật đã dạy: Người tu Tiểu Thừa sau khi chứng được quả A La Hán, sau hai vạn kiếp sẽ hồi tiểu hướng đại, còn Bích Chi Phật thì một vạn kiếp bèn hồi tiểu hướng đại, cho nên đều là vị lai Phật, há nên dùng tâm khinh mạn bảo họ chẳng phải là Như Lai ư? Chữ “bỉ đẳng”chỉ những người Tiểu Thừa ấy.

“Bất thắng ư ngã” (chẳng hơn được mình) nghĩa là coi họ chẳng bằng được mình vì mình tu Đại Thừa, họ tu Tiểu Thừa. Chẳng được sanh lòng ngạo nghễ, ngã mạn như thế. Sanh tâm như vậy là sanh phiền não, tâm chẳng thanh tịnh, chẳng bình đẳng, tạo thành chướng ngại nghiêm trọng cho việc tu hành của chính mình. Lại xem tiếp điều sau đây:

Chánh kinh:

Thế Tôn! Ngã tùng kim nhật, chí vị lai tế, nhược bất thiện năng tồi phục kỳ thân, sanh hạ liệt tưởng như Chiên-đà-la, cập ư cẩu khuyển, ngã đẳng tắc vi khi cuống Như Lai.

(Bạch đức Thế Tôn! Con từ ngày nay đến đời vị lai, nếu chẳng thể khéo dẹp yên cái thân, sanh ý tưởng hèn kém giống Chiên-đà-la và như chó má, chính là chúng con khinhdối Như Lai).

Điều này rất trọng yếu mà cũng rất khó được. Phật pháp bảo căn bản phiền não, ngoài tham, sân, si là ngạo mạn. Ngạo mạn là phiền não lớn, là căn bản phiền não, thánh nhân thế gian và xuất thế gian đều thừa nhận loại phiền não này có từ lúc ta mới sanh ra. Chúng sanh nào mà chẳng kiêu ngạo. Quý vị cứ thử xét kỹ trong cả đời mình, quý vị có làm nổi được chuyện là chẳng hề khởi lên ý niệm kiêu ngạo hay không?

Nho học biết kiêu ngạo là xấu nên Nho gia dạy người “ngạo bất khả trưởng”, tức là chẳng nên tăng trưởng ngạo mạn, nhưng không dạy ta đoạn ngạo mạn. Phật pháp dạy ta siêu việt thế gian, vì thế nhất định phải đoạn phiền não. Phiền não chẳng đoạn chẳng thể siêu thoát lục đạo luân hồi. Vì vậy, nếu quý vị muốn thoát khỏi luân hồi, cái tâm ngạo mạn này nhất định phải đoạn. Điều phát thệ này chính là phương pháp để đoạn. Nho gia dạy người ty khiêm -- khiêm hư ty hạ (khiêm tốn, nhún nhường). Còn Phật dạy những vị ấy sám hối cũng là dạy dỗ chúng ta.

“Khéo có thể dẹp yên cái thân”tức là dẹp yên phiền não nơi tự thân, phải “sanh ý tưởng hèn kém”,“hèn kém” nghĩa là ta chẳng bằng người khác. Đối với chư Phật, Bồ Tát, đương nhiên ta chẳng bằng được; đối với Thanh Văn, Duyên Giác, ta cũng chẳng bằng. Địa vị thấp nhất trong Tiểu thừa là quả Tu Đà Hoàn (Sơ Quả), đã đoạn tám mươi tám phẩm Kiến Hoặc của tam giới, sao ta so sánh được! Ta một phẩm phiền não còn chưa đoạn nổi! Ngay cả với hết thảy những người trong thế gian, mỗi một cá nhân đều có ưu điểm, đều có chỗ vượt trội hơn ta, lẽ nào khinh mạn người khác? Vì thế ta phải thường sanh ý tưởng kém hèn để hàng phục lòng cống cao ngã mạn của ta. Tiếp đó, kinh nêu lên hai tỷ dụ:

“Chiên-đà-la”:Xã hội Ấn Độ thời cổ, giai cấp bất bình đẳng, Chiên-đà-la là địa vị thấp hèn nhất trong bốn chủng tánh, thậm chí “giống như chó má”. Dùng phương pháp này để hàng phục tập khí phiền não cống cao, ngã mạn. Điều thứ mười là:

Chánh kinh:

Thế Tôn! Ngã tùng kim nhật, chí vị lai tế, nhược tự tán thán, ư tha hủy thư, ngã đẳng tắc vi khi cuống Như Lai.

(Bạch đức Thế Tôn! Con từ ngày nay đến đời vị lai, nếu khen ngợi mình, chê bai người khác, chính là chúng con khinh dối Như Lai).

Đây là chứng bệnh chúng ta thường phạm: Tự khen mình, chê người. Học Phật cũng chẳng phải là ngoại lệ. Hiện tại chúng ta học pháp môn Tịnh Độ, biết là pháp môn Tịnh Độ thù thắng bậc nhất, các pháp môn khác chẳng sánh bằng. Nói như vậy là phạm vào lỗi khen mình, chê người. Tuy lời lẽ ấy, trong kinh điển ta thấy có lúc Phật cũng nói, tổ sư đại đức cũng thường giảng, nhưng các Ngài có ý riêng: khuyến khích, cổ võ những người cùng tu pháp môn này, chứ chẳng phải là lời nói quyết định đối với bên ngoài, đặc biệt là ở những đạo tràng tông phái, pháp môn khác càng chẳng nên nói.

Bởi lẽ, chúng sanh căn tánh bất đồng, bọn họ là căn tánh học Thiền, họ tham Thiền cũng được thành tựu, họ niệm Phật chẳng thành tựu. Giống như bệnh nhân, mắc bệnh mỗi người mỗi khác, cho nên dùng thuốc khác nhau, chỉ cần họ uống thuốc nào bèn lành bệnh, uống vô là hết bệnh thì thuốc ấy có lợi ích chân thật, hiệu quả chân thật. Đấy là kiến thức thông thường người học Phật chúng ta phải hiểu rõ. Chúng ta gặp người học Thiền, nhất định phải khen ngợi tham thiền, gặp người học Giáo, nhất định phải khen ngợi học Giáo; khuyến khích họ, giúp đỡ họ mới là đúng. Trọn chẳng được phỉ báng, phỉ báng là sai lầm. Các vị nói Thiền chẳng tốt, Thiền là do Phật Thích Ca Mâu Ni truyền, chẳng phải là quý vị báng Phật sao?

Đã báng Phật ắt sẽ báng Pháp, cũng phỉ báng luôn người tham thiền, vậy là quý vị báng Phật, báng Pháp, báng Tăng! Quý vị phỉ báng Tam Bảo, dù có niệm Phật giỏi đến đâu cũng chẳng được vãng sanh. Điều này chúng ta nhất định phải hiểu cho rõ, cho thật minh bạch, trọn chẳng phạm lỗi khen mình chê người. Điều thứ mười một là:

Chánh kinh:

Thế Tôn! Ngã tùng kim nhật, chí vị lai tế, nhược bất bố úy, đấu tránh chi xứ, khứ bách do tuần, như tật phong xuy, ngã đẳng tắc vi khi cuống Như Lai.

(Bạch đức Thế Tôn! Con từ ngày nay đến đời vị lai, nếu chẳng đi khỏi chỗ đáng sợ, chỗ tranh chấp một trăm do tuần, như gió thổi nhanh, chính là chúng con khinh dối Như Lai).

Đoạn kinh này dạy chúng ta nhất định phải biết tránh khỏi chỗ tranh đấu. Phàm chỗ nào có tranh chấp, chúng ta phải tránh xa. “Trăm do tuần”là lời thí dụ, chứ chẳng phải nhất định phải bỏ đi xa chừng đó, chủ yếu là ta phải tránh xa những nơi chốn ấy. “Như gió thổi nhanh”nghĩa là rất nhanh, xa lìa thật nhanh.

Học Phật tối khẩn yếu là tu tâm thanh tịnh, những chốn ấy nhất định gây trở ngại cho việc tu tâm thanh tịnh. Vì thế, Phật dạy chúng ta phải xa lìa, tránh đi. Cương lãnh tu hành của Phật pháp là Giác, Chánh, Tịnh. Tông môn (Thiền) là từ cửa Giác mà vào, giác nhưng chẳng mê. Giáo là từ cửa Chánh mà vào, chánh tri chánh kiến. Tịnh Độ là từ tâm thanh tịnh mà vào, tịnh nhưng chẳng nhiễm. Tuy nói là Giác, Chánh, Tịnh, nhưng tuy một mà ba, tuy ba mà một. Có ai giác ngộ mà tà tri, tà kiến, có ai giác ngộ mà tâm chẳng thanh tịnh; bởi thế hễ đạt một sẽ đạt cả ba. Đấy chính là “pháp môn vô lượng, khác đường nhưng cùng về một chỗ”.

Kinh Kim Cang dạy: “Pháp môn bình đẳng, chẳng có cao thấp”là nhằm ý này. Hễ quý vị đạt được một thì sẽ đạt tất cả. Vì thế, chúng ta đối với các pháp môn khác nhau đều phải khen ngợi thì mới đúng đắn, chúng ta phải nhớ kỹ điều này. Trong xã hội hiện tại, có rất nhiều chỗ tranh chấp, hễ gặp những chỗ như vậy chúng ta phải biết tránh né. Người ta thì đến tận đời vị lai, còn chúng ta mong mỏi trong một đời này tự mình thật sự “cùng người không tranh, với sự chẳng cầu”,tâm quý vị bèn thanh tịnh, đạo nghiệp mới có thể thành tựu, đạo nghiệp chính là tâm thanh tịnh. Điều thứ mười hai là:

Chánh kinh:

Thế Tôn! Ngã tùng kim nhật, chí vị lai tế, nhược ư trì giới, đa văn, đầu-đà, thiểu dục tri túc, nhất thiết công đức thân tự huyễn diệu, ngã đẳng tắc vi khi cuống Như Lai.

(Bạch đức Thế Tôn! Con từ ngày nay đến đời vị lai, nếu với trì giới, đa văn, đầu đà, ít dục biết đủ, hết thảy công đức mà tự mình vênh váo thì chính là chúng con khinh dối Như Lai).

Trong điều phát thệ này, nếu tự nói ra sự thành tựu của chính mình, như là trì giới (giữ giới luật rất nghiêm), hoặc là đa văn (học rộng nghe nhiều), hoặc là tu khổ hạnh, Đầu Đà là khổ hạnh, “thiểu dục tri túc, hết thảy công đức”là ý nói tuy quý vị tu hành thành thục, có thành tựu, dẫu có thành tựu trọn chẳng được ngạo mạn.

“Thân tự huyễn diệu”nói theo ngôn ngữ hiện thời là “đáng nên kiêu ngạo”. “Đáng nên kiêu ngạo” là xấu, tu dù có giỏi cũng chẳng nên kiêu ngạo. Vì sao chẳng nên? So với Bồ Tát, so với chư Phật Như Lai, còn thua xa lắm, quý vị có gì đáng để kiêu ngạo đâu? Những ai muốn thành Phật đều chẳng nên kiêu ngạo. Quý vị có chút thành tựu liền nghĩ là mình ghê gớm lắm, liền nghĩ mình đáng nên kiêu ngạo, vì thế quý vị chẳng thể tiến thêm nổi. Chẳng những không thể tiến bộ, trái lại ngày càng lui sụt, “chẳng tiến ắt lùi”!

Bởi thế, câu nói “đáng nên kiêu ngạo” phổ biến trong đời là một câu nói tồi tệ, cái quan niệm ấy khiến nhiều người tu hành bị đổ nhào. Bởi lẽ, dù quý vị có thành tựu, cứ hễ khởi kiêu ngạo bèn bị lôi vào trong tam ác đạo. Điều thứ mười ba là:

Chánh kinh:

Thế Tôn! Ngã tùng kim nhật chí vị lai tế, sở tu thiện bổn bất tự căng phạt, sở hành tội nghiệp tàm quý phát lộ, nhược bất nhĩ giả, ngã đẳng tắc vi khi cuống Như Lai.

(Bạch đức Thế Tôn! Con từ ngày nay đến đời vị lai, gốc lành đã làm chẳng dám khoe khoang, tội nghiệp trót làm hổ thẹn bày tỏ. Nếu chẳng như thế, chính là chúng con khinh dối Như Lai).

Đoạn này là tổng kết, mà cũng là nói tổng quát. Hết thảy điều lành đã tu phải gìn giữ, giữ cho lâu dài, chẳng được tự hủy hoại. Gìn giữ như thế nào? Nhẫn nhục. Nhẫn nhục gìn giữ được hết thảy điều thiện.

Với tội nghiệp đã tạo phải hổ thẹn, phải biết phơi bày sám hối. Điều thệ nguyện này được biểu hiện trong sanh hoạt thường ngày qua khóa tụng sớm, tối. Mục đích của khóa sáng là nhắc nhở chính mình: Ngày hôm nay mình chiếu theo đúng lời Phật dạy để sống trọn một ngày, Phật dạy ta làm gì, ta phải nghiêm túc nỗ lực thực hiện, Phật bảo điều gì chẳng được làm, ngày hôm nay ta quyết định chẳng nên làm. Khóa tối là tự phản tỉnh, kiểm điểm, cả ngày hôm nay mình đối với người, đối với sự, đối với vật có điều gì chẳng tuân đúng lời Phật dạy. Điều gì làm đúng thì ngày mai mình phải tiếp tục gìn giữ. Nếu có chi lầm lỗi, mình phải nhanh chóng sửa lỗi, đấy gọi là thực hành khóa tối. Thực hiện công khóa sớm tối như vậy là có công đức, đúng là người học Phật, chân chánh tu hành.

Khóa tối, khóa sáng chẳng phải là cầm quyển kinh đọc cho Phật, Bồ Tát nghe. Phật, Bồ Tát chẳng hoan hỷ nghe những điều ấy đâu! Kinh do Ngài giảng, cần gì quý vị phải niệm cho Ngài nghe. Rất nhiều người hiểu lầm ý nghĩa công khóa sáng tối, cứ tưởng sáng niệm một lượt cho Phật nghe, tối lại niệm nữa. Ngày ngày đều chẳng thiếu thì ta là học trò ngoan của Phật, Phật nhất định bảo hựu ta. Kỳ thật, quý vị đã tạo tội nghiệp mà tự mình chẳng biết. Tội nghiệp gì vậy?

Buổi sáng dối Phật, Bồ Tát một lần, buổi tối lại dối một lần nữa. Một năm là ba trăm sáu mươi lăm ngày, mỗi ngày chẳng khuyết, tội quý vị lớn lắm đó nghe! Phật, Bồ Tát thật sự chẳng ngồi đó, tượng đất đắp, gỗ khắc mà quý vị còn nhẫn tâm lừa dối, quý vị thử nghĩ coi tội lỗi mình nặng quá chừng! Quý vị chẳng học Phật, chẳng thực hành công khóa sáng tối thì chẳng mắc tội lỗi ấy, nay học Phật, thực hiện công khóa rốt cuộc lại đọa địa ngục A Tỳ mà vẫn chẳng hiểu vì đâu! Học Phật chẳng thể không rõ lý, chẳng thể cứ hồ đồ mê lý mà học, hồ đồ mê lý mà tu. Đấy là mười ba hoằng thệ.

Trong đoạn kinh văn tiếp theo, đức Phật khen ngợi các vị Bồ Tát ấy, Phật thấy bọn họ thực sự có thể sửa lỗi đổi mới, quay đầu là bờ, đáng được khen thưởng.

Chánh kinh:

Nhĩ thời, Thế Tôn thán chư Bồ Tát: - Thiện tai! Thiện tai!

(Khi ấy, đức Thế Tôn khen ngợi các Bồ Tát: - Lành thay! Lành thay!)

Phật khen ngợi mười sáu vị Bồ Tát đã nói ở trên.

Chánh kinh:

Thiện nam tử! Thiện thuyết như thị giác ngộ chi pháp.

(Thiện nam tử! Ông khéo nói pháp giác ngộ như thế).

Biết lỗi lầm của mình chính là giác ngộ; trong nhà Phật thường gọi là “khai ngộ”.Mọi người nghe nói đến “khai ngộ”thường nghĩ là rất u huyền. Thế nào là khai ngộ? Biết cái bệnh, biết lỗi lầm của mình (tức là những hành vi sai trái), sửa đổi cho đúng, người như vậy gọi là “tu hành”.Bởi vậy, quý vị phải biết là mỗi ngày ta đọc kinh, niệm Phật, lễ Phật có phải là tu hành hay không?

Không nhất định! Nếu như quý vị đối với mỗi hành vi sanh hoạt chẳng hề cải biến tí ti nào, vẫn hệt như cũ, dù mỗi ngày quý vị tụng kinh, niệm Phật, lễ Phật vẫn chẳng phải là tu hành, chẳng dính dáng gì đến tu hành cả! Quan niệm lầm lẫn, lời lẽ, hành vi sai trái của quý vị chẳng được sửa đổi cho đúng thì quý vị chẳng hề tu hành.

Ngàn vạn phần chẳng được nghĩ rằng mỗi ngày niệm mấy bộ kinh chính là tu hành, phải hiểu mới tu chẳng lầm. Khi chẳng niệm kinh thì tâm không kiêu ngạo, niệm kinh rồi bèn tưởng mình là ghê gớm lắm, tưởng mình lãnh hội được kinh Vô Lượng Thọ rồi là quý vị hiểu lầm rất xa. Sở dĩ quý vị không niệm kinh thì không có phiền não đó, chẳng tạo tội nghiệp; sau khi quý vị thuộc kinh rồi, ngày càng sanh phiền não, đến nỗi tạo tội nghiệp, đều là do hiểu lầm nghĩa chân thật của Như Lai. Ý Phật dạy quý vị đọc thuộc là để thường nhớ kỹ trong lòng, mỗi khi khởi tâm động niệm bèn nhớ đến lời Phật dạy răn: Ta có nên suy nghĩ như thế hay chăng? Ta có nên nói lời như vậy hay chăng? Ta có nên làm những việc đó hay chăng? Mục đích của niệm kinh là như vậy.

Cho nên biết lỗi lầm của mình đấy chính là thật sự giác ngộ. “Khéo nói pháp giác ngộ như thế”, giác ngộ rồi bèn quay đầu.

Chánh kinh:

Thiện phát như thị quảng đại thệ nguyện.

(Khéo phát thệ nguyện rộng lớn như thế).

Câu này chỉ mười ba thệ nguyện ở phần. Phát mười ba thệ nguyện là vì họ đã chân chánh hồi đầu, sửa lỗi đổi mới.

Chánh kinh:

Năng dĩ như thị quyết định chi tâm an trụ kỳ trung, nhất thiết nghiệp chướng giai tất tiêu diệt, vô lượng thiện căn diệc đương tăng trưởng.

(Có thể dùng tâm quyết định như thế an trụ trong những thệ nguyện ấy, thì hết thảy nghiệp chướng thảy đều tiêu diệt, vô lượng thiện căn cũng sẽ tăng trưởng).

Hai câu cuối này chúng ta rất thích nghe. Chúng ta biết nghiệp chướng của mình rất nặng, làm sao tiêu nghiệp chướng? Nay quý vị có “tiêu nghiệp chướng” được hay chăng? Quý vị phải học theo mười sáu vị Bồ Tát này, chẳng cần phải bươi móc thói tật của người khác, chỉ tìm tòi lỗi lầm của chính mình, tìm được lỗi rồi phải sửa đổi, nghiệp chướng của quý vị bèn tiêu diệt, thiện căn của quý vị cũng tăng trưởng. Đó gọi là công phu.

Chánh kinh:

Phật cáo Di Lặc Bồ Tát Ma Ha Tát ngôn:

- Di Lặc! Nhược hữu Bồ Tát vị dục thanh tịnh chư nghiệp chướng giả, đương phát như thị quảng đại thệ nguyện.

(Phật bảo Di Lặc Bồ Tát Ma Ha Tát rằng:

- Này Di Lặc! Nếu có Bồ Tát nào muốn thanh tịnh các nghiệp chướng thì nên phát thệ nguyện rộng lớn như thế)

Phật bảo Di Lặc Bồ Tát, ngụ ý bảo cùng mọi người chúng ta. Trong pháp hội ấy, Di Lặc Bồ Tát đại biểu cho đại chúng chúng ta, thay mặt ta thỉnh pháp, Ngài cũng thay cho đức Như Lai tuyên nói, chỉ dạy những lời dạy răn ấy.

Chúng ta muốn thanh tịnh thân tâm, tiêu diệt nghiệp chướng thì phải làm giống như các Bồ Tát đó, phải phát thệ nguyện rộng lớn. Do đấy biết rằng: Chúng ta đọc xong mười ba thệ nguyện, chẳng được nghĩ mười ba thệ nguyện ấy là của riêng mười sáu vị Bồ Tát kia, chẳng dính dáng gì đến mình, mà phải nghĩ đấy chính là điều mình suy niệm. Chúng ta phải chú tâm lãnh hội mười ba thệ nguyện ấy, biến các nguyện ấy thành nguyện của chính mình thì chúng ta bèn thọ dụng được. Xem thấy những lỗi lầm của họ, nghĩ mình cũng phạm những lỗi lầm giống hệt như thế. Họ giác ngộ, sao mình chẳng giác ngộ? Họ sửa lỗi, sao mình chẳng thể sửa lỗi? Phải đọc kinh như vậy mới được lợi ích chân thật!

Chánh kinh:

Nhĩ thời Di Lặc Bồ Tát bạch Phật ngôn:

- Thế Tôn! Phả hữu thiện nam tử, thiện nữ nhân đẳng hộ trì thử nguyện, đương đắc viên mãn, bất thoái chuyển da?

(Lúc bấy giờ, Di Lặc Bồ Tát bạch cùng Phật rằng:

- Bạch đức Thế Tôn! Nếu có kẻ thiện nam tử, thiện nữ nhân nào hộ trì những nguyện này, họ có sẽ được viên mãn, chẳng thoái chuyển chăng?)

Thật ra, Di Lặc Bồ Tát hỏi thay cho chúng ta. “Thiện nam tử, thiện nữ nhân”chỉ đại chúng hiện tiền chúng ta. Nếu như chúng ta cũng phát những thệ nguyện ấy, cũng làm theo những phương pháp ấy, chúng ta sẽ có được viên mãn hay chăng? Có được bất thoái chuyển hay chăng? Đấy là điều chúng ta rất quan tâm.

Chánh kinh:

Phật cáo Di Lặc Bồ Tát ngôn:

- Nhược hữu thiện nam tử, thiện nữ nhân đẳng hành Bồ Tát đạo, hộ trì thử nguyện, ninh xả thân mạng, chung bất khuyết giảm linh kỳ thoái chuyển.

(Phật bảo Di Lặc Bồ Tát rằng:

- Nếu có những kẻ thiện nam tử, thiện nữ nhân hành Bồ Tát đạo, hộ trì nguyện này, thà bỏ thân mạng, trọn chẳng khuyết giảm khiến bị thoái chuyển)

Trong đoạn này, đức Phật khẳng định rõ hành Bồ Tát đạo là tự hành, dạy người. Chính mình hành theo đúng lời Phật dạy dỗ. Chữ “hành” ấy phải nói cho rõ ràng cho minh bạch: theo đúng lời Phật dạy dỗ mà sanh hoạt, theo đúng lời Phật dạy mà sống hằng ngày, đó gọi là “hành Bồ Tát đạo”.Phật pháp gắn liền với sanh hoạt, tuyệt đối chẳng phải Phật pháp là Phật pháp, sanh hoạt là sanh hoạt, hai việc chẳng liên quan chi với nhau. Nếu thế thì chúng ta học theo làm chi? Sai lầm rồi!

Bởi lẽ, Bồ Tát đạo thuộc trong cuộc sống thường nhật, lìa khỏi sanh hoạt thì còn chỗ nào để tu hành nữa đây? Phải tu hành ngay trong cuộc sống thường nhật! Cuộc sống thường nhật gom lại chẳng ngoài ba phương diện đối người, đối sự, đối vật. Phàm trên ba phương diện ấy, do chính mình mê hoặc, không có trí huệ, tri kiến chẳng chánh, nên cách nghĩ, cách thấy, cách nói, cách làm đều sai lầm. Lời Phật răn dạy chính là để chúng ta sửa đổi những lầm lạc ấy, đó gọi là “tu hành”. Bởi vậy, quý vị phải hiểu rằng mình sửa đổi cho đúng quan niệm đối với vật, đối với sự, sửa đúng cách nghĩ, cách thấy thì cuộc sống của quý vị sẽ đạt đến hạnh phúc mỹ mãn.

Học Phật thực tế phi thường: Cứ hễ công phu đắc lực thì lập tức đạt được lợi ích thù thắng nơi Phật pháp. Có nhiều đồng tu học Phật, tôi thấy rất khó nhẫn. Mỗi phen gặp mặt, thấy tướng mạo người ấy mỗi năm một suy. Có người một năm không gặp, gặp lại thấy hom hem hơn so với năm ngoái. Những người như vậy đều là học Phật công phu chẳng đắc lực. Nếu quý vị học Phật công phu đắc lực thì quý vị phải thực sự thọ dụng được. Mỗi năm quý vị càng phải khỏe hơn, tướng mạo quý vị phải tươi tốt, vẻ mặt rạng rỡ, thân thể khỏe mạnh, đấy là đạo lý nhất định đấy!

Đạo lý này luận trên phương diện thực tế chẳng khó hiểu chi. Trong kinh Phật thường dạy “tướng tùy tâm chuyển”.Tướng mạo chẳng tốt là quý vị dụng tâm chẳng khéo. Tâm quý vị phải chân thành, thanh tịnh, từ bi, thì nhất định tướng mạo quý vị nhất định ngày càng giống Phật, chẳng khác với Phật mấy (quý vị thấy tướng mạo Phật, Bồ Tát rất viên mãn!) Thể chất quý vị nhất định mỗi ngày phải khỏe mạnh hơn, mỗi ngày một tốt đẹp hơn là quý vị học Phật công phu đắc lực, quý vị thật sự thọ dụng được.

Tâm thanh tịnh chuyển được nghiệp, chuyển nghiệp biểu hiện cụ thể nơi thân thể, thân thể mình có chuyển biến hay không? Nay thường nói là biến đổi thể chất; thể chất có thể chuyển biến. Thể chất ấy biến đổi theo tâm.

Hết Phần 1

(1) Khi phiên âm chúng tôi chấm câu theo mạch văn, chứ không bốn chữ chấm câu theo bốn chữ một như trong bản Hoa văn.

Tần Già tạng là Đại Tạng kinh được khắc in bởi tinh xá Tần Già ở Thượng Hải vào năm 1911 đời Thanh, mãi đến năm 1920 mới hoàn thành. Bản này lấy bản của Hoằng Giáo Viện ở Nhật Bản làm chính, tham chiếu các bản Kính Sơn, Càn Long Đại Tạng kinh. Tạng này gồm 414 tập, 1.916 bộ, 8.416 quyển.

Đại Chánh Tạng là gọi tắt của Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng kinh do hiệp hội Đông Kinh Đại Chánh Nhất Thiết Kinh San Hành Hội biên tập và ấn hành từ năm 1924 đến năm 1934. Tạng này gồm 100 tập, khoảng 3.493 bộ, 13.520 quyển. Bản này đối chiếu các tạng trước đó như Thục Bản, Càn Long Tạng... và các kinh điển bằng nguyên gốc tiếng Phạn và Pali nên được coi là tạng tốt nhất, tiêu chuẩn nhất để tham cứu kinh điển. So với Tần Già Tạng, bản này còn có ưu điểm là đã thâu thập cả những trước tác của chư cổ đức Nhật Bản, Đại Hàn và một số bản nghi quỹ, tán vịnh của Phật giáo Tây Tạng.

Phát Khởi Bồ Tát Thù Thắng Chí Nhạo Kinh Lược Giảng, phần 2

3. Di Lặc Bồ Tát nhân đó hỏi Bồ Tát đời mạt thành tựu mấy pháp để được an ổn độ thoát

Tiếp theo đây là đoạn thứ năm, kinh văn không dài, chỉ có một hàng rưỡi.

Chánh kinh:

Nhĩ thời, Di Lặc Bồ Tát phục bạch Phật ngôn:

- Thế Tôn! Nhược hữu Bồ Tát ư hậu mạt thế, ngũ bách tuế trung, pháp dục diệt thời, thành tựu kỷ pháp, an ổn vô não, nhi đắc giải thoát.

(Lúc bấy giờ, Di Lặc Bồ Tát lại bạch Phật rằng:

- Bạch đức Thế Tôn! Nếu có Bồ Tát trong đời mạt sau, trong năm trăm năm, khi pháp sắp diệt, phải thành tựu mấy pháp để an ổn, không phiền não hòng được giải thoát).

Tôi nghĩ đây cũng là vấn đề chúng ta quan tâm phi thường. “Ư mạt hậu thế, ngũ bách tuế trung”là nói đến năm trăm năm đầu tiên trong thời kỳ Mạt Pháp gọi là “ngũ bách tuế trung”.Trong pháp vận của Phật Thích Ca Mâu Ni, Chánh Pháp tồn tại một ngàn năm, Tượng Pháp một ngàn năm, Mạt Pháp là một vạn năm. Năm trăm năm đầu của thời kỳ Mạt Pháp, nói chính xác là hai ngàn năm trăm năm sau khi đức Phật diệt độ. Bởi thế, câu này chính là để giảng cho thời đại hiện tại của chúng ta.

“Pháp dục diệt thời”:Diệt ở đây không phải là thật diệt, mà là Phật pháp ngày càng suy thoái. Chúng ta xem thấy Phật pháp trong xã hội hiện đại, đúng là “pháp sắp diệt”như đức Phật đã nói. Đừng tưởng Phật pháp tại Đài Loan hưng thạnh phi thường, tướng hưng thạnh ấy là giả, chẳng thật đâu, chỉ có thể nói là Phật pháp tại Đài Loan náo nhiệt mà thôi! Xưa kia, lão cư sĩ Hoàng Niệm Tổ (cụ chưa từng đến Đài Loan) giảng kinh thuyết pháp ở Bắc Kinh đã công khai bảo mọi người: “Phật pháp tại Đài Loan là giả, chẳng phải thật. Phật pháp chân chánh nằm ở Hoa Lục”.Tôi đến Bắc Kinh, thính chúng đem câu nói ấy hỏi tôi: “Phật pháp tại Đài Loan có phải là giả hay không?”

Chư vị hãy để tâm quan sát một phen: Phật pháp ở Đài Loan rốt cuộc là thật hay chỉ là giả? Phật pháp chân chánh dạy người liễu sanh tử, thoát tam giới, còn Phật pháp giả dạy người tiếp tục gây tạo lục đạo luân hồi. Người Đài Loan tu phước rất nhiều, người tu đạo rất ít. Người tu phước nhiều thì phước báo tu được ấy sẽ hưởng cách nào? Vấn đề này lớn lắm nghe!

Đời sau có lại được làm người nữa hay không là một vấn đề lớn. Đời sau nếu chẳng được làm thân người thì vẫn có phước báo. Trong đường súc sanh có rất nhiều phước báo đó chứ! Chúng ta chẳng cần phải tự hào mình phước báo rất lớn; thật ra, nghĩ lại, bọn ta phước báo không bằng súc sanh đó nghe! Quý vị có thấy người ngoại quốc nuôi các con thú cưng chưa? Không ít người phục dịch, chăm sóc chúng. Chúng ta đến những chỗ đó, có ai chiếu cố mình chăng? Nghĩ ra, mình phước báo chẳng bằng chúng! Quý vị thấy những con mèo nhỏ, con chó nhỏ đó được chăm sóc chu đáo thì phước báo của chúng do đâu mà có? Là do đời trước tu đấy. Quan sát nhiều sẽ hiểu rõ, quý vị phải nên thức tỉnh.

Đoạn kinh này nói trong thời đại Mạt Pháp, chúng ta cần phải thành tựu mấy pháp mới hòng đạt được “an ổn, không phiền não, đạt được giải thoát”.Ở đây, “giải thoát” là siêu thoát luân hồi lục đạo. Điều thứ hai là gì? Lại còn phải tiến lên, vượt khỏi mười pháp giới thì mới là giải thoát rốt ráo. Bởi lẽ siêu thoát lục đạo luân hồi vẫn chưa rốt ráo, nhất định phải siêu việt mười pháp giới. Pháp môn Tịnh Độ vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới chính là siêu thoát mười pháp giới, Tây Phương Tịnh Độ chẳng thuộc trong mười pháp giới.

4. Phật đáp: Dùng hai loại “bốn pháp” để được giải thoát

Chánh kinh:

Phật cáo Di Lặc Bồ Tát ngôn:

- Di Lặc! Nhược hữu Bồ Tát ư hậu mạt thế, ngũ bách tuế trung, pháp dục diệt thời, đương thành tựu tứ pháp, an ổn vô não, nhi đắc giải thoát.

(Đức Phật bảo Di Lặc Bồ Tát rằng:

- Này Di Lặc! Nếu có Bồ Tát vào đời mạt sau, trong năm trăm năm, lúc pháp sắp diệt, nên thành tựu bốn pháp sẽ được an ổn, không phiền não, được giải thoát).

Trong đoạn này, Phật dạy chúng ta bốn nguyên tắc trọng yếu phi thường, ta cần phải tuân thủ. Chẳng cần biết là tu học pháp môn nào, nếu trái nghịch, vi phạm bốn nguyên tắc này thì quý vị đều chẳng thể tu học thành tựu.

Chánh kinh:

Hà đẳng vi tứ? Sở vị: Ư chư chúng sanh, bất cầu kỳ quá.

(Những gì là bốn? Chính là: Với các chúng sanh, chẳng tìm lỗi họ).

Chẳng những chỉ đối với các vị Đại Thừa Bồ Tát, mà đối với hết thảy chúng sanh đều chẳng nên bới tìm điều đáng bực, đều chẳng nên tìm lỗi lầm của họ. Câu này giống như câu Lục Tổ đã nói trong Đàn Kinh: “Nếu là người thật sự tu đạo, chẳng thấy lỗi thế gian”.Người chân chánh tu đạo, trong mỗi một niệm chỉ quan tâm đến chánh niệm của chính mình, có thời gian đâu để thấy lỗi người khác cơ chứ! Chúng ta phải nhận rõ điểm này, thấy lỗi người khác tức là mình có lỗi sờ sờ. Nếu tâm quý vị thanh tịnh không có phiền não, làm sao quý vị thấy lỗi người khác được? Nếu một phen tiếp xúc với cảnh giới bên ngoài mà trong tâm phiền não bèn hiện hành, thì đấy là do “thấy lỗi người khác”.

Bởi thế, Phật thấy hết thảy chúng sanh đều là Phật, Bồ Tát thấy hết thảy chúng sanh đều là Bồ Tát. Bọn ta là hạng nghiệp chướng sâu nặng, thấy chư Phật, Bồ Tát nghiệp chướng cũng sâu nặng luôn! Đấy chính là điều Phật dạy “tướng tùy tâm chuyển”.Bởi thế, quý vị thấy cảnh giới bên ngoài tướng trạng ra sao sẽ biết rõ tâm mình như thế nào. Quý vị thấy ai cũng có lỗi lầm nghĩa là chính mình lầm lỗi vô lượng vô biên. Khi nào thấy hết thảy chúng sanh đều chẳng có lầm lỗi thì xin chúc mừng quý vị, quý vị đã thành Phật rồi! Điều này rất khẩn yếu đấy! Vì thế mới nói “với các chúng sanh, chẳng tìm lỗi họ”chính là điều thứ nhất người tu hành phải tuân thủ. Điều thứ hai là:

Chánh kinh:

Kiến chư Bồ Tát hữu sở vi phạm, chung bất cử lộ.

(Thấy các Bồ Tát có vi phạm gì, trọn chẳng nêu bày)

Bồ Tát”ở đây là người hoằng dương chánh pháp. Bất luận là tại gia Bồ Tát hay xuất gia Bồ Tát, cũng chẳng cần biết người ấy là Bồ Tát thật hay Bồ Tát giả, chỉ cốt những điều người ấy giảng là chánh pháp, chẳng phải là tà pháp, dẫu cho người ấy có lầm lỗi chi, cũng chẳng nghe, chẳng hỏi đến, vẫn cứ sanh tín tâm thanh tịnh, tâm cung kính đối với người ấy. Điều này rất trọng yếu. Điều thứ ba là:

Chánh kinh:

Ưchư thân hữu, cập thí chủ gia, bất sanh chấp trước.

(Với các thân hữu, và hàng thí chủ, chẳng sanh chấp trước).

Đối với thân hữu, thí chủ cúng dường pháp sư, nếu chẳng chấp trước thì chẳng tạo thành chướng ngại. Điều thứ tư là:

Chánh kinh:

Vĩnh đoạn nhất thiết thô quánh chi ngôn.

(Vĩnh viễn dứt trừ hết thảy lời lẽ thô lỗ, hung tợn).

“Thô” là lời lẽ thô lỗ. “Quánh” là lời lẽ hung ác. Chẳng được có thái độ như thế.

Chánh kinh:

Di Lặc! Thị vi Bồ Tát ư hậu mạt thế, ngũ bách tuế trung, pháp dục diệt thời, thành tựu tứ pháp an ổn vô não, nhi đắc giải thoát.

(Này Di Lặc! Đấy là Bồ Tát vào đời mạt sau, trong năm trăm năm, lúc pháp sắp diệt, thành tựu bốn pháp an ổn không phiền não mà được giải thoát).

Chỉ cần giữ đúng bốn pháp này mà hành theo thì đạo nghiệp của quý vị có thể thành tựu.

Chánh kinh:

Nhĩ thời Thế Tôn, dục trùng tuyên thử nghĩa, nhi thuyết kệ ngôn:

(Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn muốn nhắc lại nghĩa này, bèn nói kệ rằng)

Thể lệ Phật dùng để thuyết kinh chẳng giống với cách mọi người chúng ta trước tác văn chương. Trong kinh Phật, có Trường Hàng (văn xuôi), có Kệ Tụng, có lúc còn có cả Chú Ngữ. Dụng ý Ngài rất sâu. Kệ Tụng gần giống như thi ca Trung Quốc, cũng có gieo vần, nhưng không câu nệ bằng trắc, mục đích là thuận tiện nhớ tụng. Nhân vì Phật khai thị điều gì rất trọng yếu xong, sợ bọn ta quên tuốt, kinh văn cũng có lúc chẳng nhớ kỹ hết, Ngài bèn dùng Kệ Tụng cho dễ thuộc, cho thường nhớ mãi trong tâm, để hết thảy lúc, hết thảy nơi đều y giáo phụng hành. Vì thế, Phật bèn nói bốn câu sau đây:

Chánh kinh:

Bất cầu tha quá thất,

Diệc bất cử nhân tội,

Ly thô ngữ, xan lận,

Thị nhân đương giải thoát.

Di Lặc! Phục hữu Bồ Tát ư hậu mạt thế, ngũ bách tuế trung, pháp dục diệt thời, đương thành tựu tứ pháp an ổn vô não, nhi đắc giải thoát.

(Chớ tìm cầu lỗi người,

Cũng đừng cử tội người,

Lìa lời thô, keo bẩn,

Người ấy sẽ giải thoát.

Này Di Lặc! Lại có Bồ Tát vào đời mạt sau, trong năm trăm năm, lúc pháp sắp diệt, nên thành tựu bốn pháp sẽ an ổn, không phiền não, mà được giải thoát).

Tiếp theo đây, đức Phật nói bổ sung bốn câu kinh cũng trọng yếu phi thường. Trong phần trên, đức Phật nói bốn pháp, trong phần này lại nói bốn pháp nữa, tổng cộng là tám câu. Trong thời hiện tại chúng ta phải giữ gìn được tám điều này thì học Phật mới có thể thành tựu, chẳng lui sụt.

Chánh kinh:

Hà đẳng vi tứ? Sở vị: Bất ưng thân cận giải đãi chi nhân.

(Những gì là bốn? Chính là: Chẳng nên thân cận người biếng nhác).

Chúng ta thường thân cận hạng người ấy, họ sẽ ảnh hưởng đến sự tu học của ta. Chúng ta là phàm phu sơ học, chẳng có định lực, chẳng có trí tuệ, vì thế giao du phải chọn lựa người. Có khá nhiều bạn đồng tu đối với điều này chẳng hề để tâm cảnh giác, bị hoàn cảnh xoay chuyển, đáng tiếc vô cùng! Đấy chính là điều ta thường gọi là “nhân tình Phật sự”, nó có ảnh hưởng rất lớn đối với phàm phu sơ học. Học Phật ắt cần phải có lý tánh, thói tình phải buông xuống được thì mới có thể thành tựu. Pháp thứ nhất đây nhắm vào ý đó. Phạm vi của chữ “giải đãi” rộng phi thường, quý vị có nhận ra chưa? Giải đãi, lười biếng có phải là mỗi ngày ngủ dậy thật trễ hay chăng? Đối với hạng người ấy, đương nhiên quý vị chẳng thể thân cận: Họ còn bận ngủ, họ cũng chẳng kề cận quý vị được.

Vậy thì ai mới là kẻ giải đãi? Trước đây, Ấn Quang đại sư từng giảng là kẻ nào ưa đến đạo tràng, ngày ngày la cà đạo tràng, ngày ngày tìm náo nhiệt. Vì sao họ là kẻ giải đãi? Họ giải đãi đối với việc tu đạo, biếng nhác tu định. Kẻ chẳng tu định, tu huệ, cứ ngày ngày đuổi theo náo nhiệt thì gọi là “kẻ giải đãi”. Bởi thế, chẳng được hiểu lầm ý nghĩa đoạn kinh này. Quý vị xem trong Văn Sao, trong Vĩnh Tư Lục sẽ thấy mỗi khi lão hòa thượng vừa thấy đệ tử quy y đến thăm, Ngài liền quở mắng:

- Ngươi đến đây làm chi?

- Con đến gặp sư phụ.

- Trước kia ngươi gặp sư phụ rồi, còn đến đây làm chi nữa? (Ngài quát quay về). Đến chỗ bon chen, tâm cũng loạn động theo, bảo ngươi ở nhà chắc thật niệm Phật, ngươi chẳng chịu niệm, ngươi còn muốn đến chùa miếu gặp sư phụ, có gì hay mà xem! Đó gọi là “giải đãi”.

Sở dĩ Ấn Quang đại sư nói ra điều gì, ai nấy đều rất tôn kính là vì pháp giáo hóa của Ngài chưa có ai đề xướng cả. Hiện thời, các đạo tràng mong mỏi tín đồ đông đảo, tín đồ không đến làm sao duy trì được đạo tràng. Bởi thế, con người hiện tại đều chuộng náo nhiệt. “Náo nhiệt”chính là giải đãi; đối với tu định, tu huệ, tu tâm thanh tịnh mà giải đãi. Ở đây, Phật dạy chúng ta chớ nên thân cận những kẻ như thế, đừng ngày ngày bắt chước họ khiến cho tâm bị loạn động. Điều thứ hai là:

Chánh kinh:

Xả ly nhất thiết hội náo chi chúng.

(Rời bỏ hết thảy các chúng ồn náo).

Không nên “ưa thích náo nhiệt”không chỉ có nghĩa là không ưa thích những nơi ăn chơi vui vẻ trong thế gian mà đối với ngay cả những chỗ hoan hỷ náo nhiệt nơi cửa Phật cũng chẳng nên ham mến. Nói chung, điều gì trái nghịch với Giới, Định, Huệ; trái nghịch với Giác, Chánh, Thanh Tịnh đều là giải đãi, ồn náo. Bởi thế, đoạn văn này dung hàm ý nghĩa rất sâu, rất rộng.

Mục đích của chúng ta là cầu giải thoát, cho nên phải hiểu rõ hai chữ “giải thoát”này. “Giải” là cởi mở. Cởi mở cái gì? Cởi bỏ phiền não. “Thoát” là thoát ly lục đạo luân hồi. Mục đích của việc học Phật là đây. Nếu quý vị chẳng nghĩ đến giải thoát thì chẳng sao, cứ việc ngày ngày lăn vào nơi náo nhiệt. Còn ai là kẻ thật sự mong liễu sanh tử, thật sự niệm Phật cầu vãng sanh Cực Lạc thế giới thì nhất định phải tuân thủ lời dạy này.

Trước đây, trong kỳ Phật thất, Đàm Hư đại sư đã từng kể cho chúng tôi nghe đôi ba chuyện cũ, đều là chuyện thật. Ngài kể một đồ đệ niệm Phật của lão pháp sư Đế Nhàn, xuất thân là thợ đóng đai thùng, niệm Phật ba năm bèn đứng mà vãng sanh. Người ấy chưa từng đọc sách, chẳng hề biết chữ, chỉ là một người rất chân thật. Sau khi xuất gia, lão hòa thượng chỉ dạy ông ta sáu chữ “nam mô A Di Đà Phật”, chứ chẳng dạy điều gì khác, chỉ dặn dò: “Ngươi cứ niệm một câu Phật hiệu này, niệm mệt thì nghỉ, nghỉ ngơi xong lại niệm tiếp”.Quả nhiên, người ấy ở trong một tòa miếu hư nát, không ra khỏi cửa lớn, niệm một câu Phật hiệu suốt ba năm, chẳng bệnh tật gì, biết trước lúc mất, bèn đứng vãng sanh. Vãng sanh rồi vẫn đứng suốt ba ngày để đợi lão hòa thượng Đế Nhàn thay mình lo việc hậu sự.

Ông ta dựa vào đâu để thành tựu? Chính là chẳng thân cận kẻ giải đãi, rời bỏ hết thảy các chúng ồn náo; bởi thế nói giải thoát chẳng khó, nhưng sao ngày nay chúng ta học Phật khó khăn đến thế? Đó là vì chúng ta đã phạm phải lỗi lầm sau đây: hằng ngày đua theo nhiệt náo, coi chuyện đua chen nhiệt náo là làm Phật sự. Quý vị nói coi: đó có phải là vớ vẩn hay chăng? Quan niệm sai lầm rồi!

Chánh kinh:

Độc xử nhàn tịnh, thường cần tinh tấn.

(Ở riêng chốn thanh vắng, thường siêng tinh tấn).

Ấy là thật sự mong liễu sanh tử, xuất tam giới, thật sự mong giải quyết xong vấn đề ngay trong một đời. Quý vị phải nhận biết niềm vui tịch tĩnh; hoàn cảnh thanh tịnh chính là sự hưởng thọ tối cao của nhân sanh, trong ấy có niềm vui chân thật. Thế nào là tinh tấn? “Tinh” là tinh thuần, chuyên nhất. “Tấn” là chẳng lùi. Hiện tại người học Phật chúng ta thấy cũng rất siêng gắng, nhưng chẳng phải là tinh tấn, mà chỉ là tạp tấn, loạn tấn, nên chẳng được thành tựu. Muốn thành tựu thì phải thâm nhập một môn. Điều thứ tư là:

Chánh kinh:

Dĩ thiện phương tiện, điều phục kỳ thân.

(Dùng phương tiện khéo điều phục cái thân).

Phương tiện khéo léo điều phục cái thân, trong phần kệ tụng ở sau, ta sẽ thấy ý nghĩa này rõ hơn nữa. Câu kệ “tịch tĩnh, thường tri túc”ý nói điều phục cái thân, biết đủ thường vui, cuộc sống rất dễ chịu. Có áo để mặc, có cơm ăn no ba bữa, có căn phòng nhỏ để đụt nắng che mưa, là đủ quá rồi, chẳng cần chi hơn nữa. Có cầu thêm thì chỉ là cầu sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, cầu thấy A Di Đà Phật, ngoài ra chẳng cầu cái gì khác nữa. Tâm quý vị định rồi, quý vị sẽ thật sự hưởng thọ an lạc.

Dùng phương pháp ấy để điều phục cái thân, những chuyện người đời tranh giành đều là giả, đều chẳng mang theo được, đều tranh chẳng được, đều là ngu si tạo tác tội nghiệp. Người thật sự hiểu thấu, người giác ngộ sẽ chẳng thèm tranh nữa, đều buông xuống hết, nhất tâm hướng về đạo. Hướng về đạo là hướng về cái tâm thanh tịnh, hướng đến nguyện vọng cầu sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới của chính mình.

Trên đây là đức Phật vì chúng ta lại nói thêm bốn pháp vậy.

Chánh kinh:

Di Lặc! Thị vi Bồ Tát ư hậu mạt thế, ngũ bách tuế trung, pháp dục diệt thời, thành tựu tứ pháp, an ổn vô não, nhi đắc giải thoát.

Nhĩ thời, Thế Tôn dục trùng tuyên thử nghĩa, nhi thuyết kệ ngôn:

- Đương xả ư giải đãi,

Viễn ly chư hội náo,

Tịch tĩnh, thường tri túc.

Thị nhân đương giải thoát.

(Này Di Lặc! Đấy là Bồ Tát vào đời mạt sau, trong năm trăm năm, lúc pháp sắp diệt, thành tựu bốn pháp, an ổn, không phiền não, bèn được giải thoát.

Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn muốn nhắc lại nghĩa này, bèn nói kệ rằng:

- Hãy bỏ rời giải đãi,

Xa lìa các ồn náo,

Tịch tĩnh, thường biết đủ,

Người ấy sẽ giải thoát)

Phật dùng kệ tụng nhắc lại lần nữa những pháp nghĩa ở trên.

Chánh kinh:

Nhĩ thời, Thế Tôn thuyết thử kệ dĩ, cáo Di Lặc Bồ Tát ngôn:

- Di Lặc! Thị cố Bồ Tát ư hậu mạt thế, ngũ bách tuế thời, dục tự vô não, nhi đắc giải thoát, trừ diệt nhất thiết chư nghiệp chướng giả.

(Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn nói bài kệ ấy xong, bảo Di Lặc Bồ Tát rằng:

- Này Di Lặc! Vì thế các Bồ Tát vào đời Mạt sau, trong năm trăm năm, muốn tự không phiền não, lại được giải thoát, trừ diệt hết thảy nghiệp chướng thì...)

Đoạn kinh văn này dùng để tổng kết các đoạn kinh văn trên. Di Lặc Bồ Tát thay chúng ta thỉnh giáo đức Thế Tôn: trong thời kỳ Mạt Pháp (tức là trong xã hội hiện đại đây), chúng ta học Phật phải nên tu bao nhiêu pháp mới hòng gìn giữ an ổn, được độ thoát? Đức Thế Tôn dạy chúng ta tu bốn pháp, nói xong lại dạy thêm bốn pháp nữa; tổng cộng là tám pháp. Ngài nói xong lại phó chúc Di Lặc Bồ Tát, chứ thật ra là phó chúc mọi người chúng ta, Di Lặc Bồ Tát là người thay mặt cho chúng ta. Đoạn kinh này trọng yếu phi thường.

Nói “trong đời mạt sau, lúc năm trăm năm”là nói đến xã hội hiện tại. Nếu chúng ta muốn được không phiền não, mong đạt giải thoát - hai chữ “giải thoát”này rất trọng yếu - chúng ta đọc [chữ Giải theo âm Quan Thoại] là xiè thì sẽ thành động từ, còn nếu đọc là jiẻ sẽ thành danh từ; tháo gỡ, dứt bỏ phiền não nên gọi là “giải trừ”. “Thoát” là liễu thoát lục đạo sanh tử luân hồi mới kể là thành tựu. Nếu chẳng đoạn phiền não, chẳng thể liễu thoát sanh tử luân hồi, chẳng được kể là thành tựu, bất luận tu pháp môn gì, tu giỏi đến đâu cũng chẳng thành tựu, quý vị vẫn cứ phải sanh tử luân hồi y như cũ. Bởi thế, hai chữ “giải thoát” trọng yếu phi thường, có thể nói nó chính là mục tiêu tu học hiện tiền của chúng ta.

Điều thứ hai là “trừ diệt hết thảy nghiệp chướng”.Tôi tin là người có nguyện vọng đạt mục tiêu thứ nhất “liễu sanh tử” chẳng có mấy, dường như mục tiêu thấp nhất là “tiêu nghiệp chướng” thì mọi người đều mong. Ít người mong mỏi liễu sanh tử, nhưng mong tiêu nghiệp chướng lại rất phổ biến. Nếu như quý vị mong tiêu trừ hết thảy nghiệp chướng thì có tám pháp như vậy, đủ thấy tám pháp ấy trọng yếu phi thường. Tiếp theo đây, Phật nói:

Chánh kinh:

Ưng đương xả ly hội náo chi xứ.

(Phải nên lìa bỏ những nơi ồn náo).

Phải lìa bỏ những nơi ồn náo. Chúng ta là phàm phu, chẳng phải là thánh nhân tái lai. Các vị Phật, Bồ Tát tái lai tu hành chẳng giống chúng ta, mà là: “Trong pháp Đại Thừa, ở trong chỗ nhiệt náo mà lìa nhiệt náo”, chẳng phải là điều người bình thường [làm được]. Nếu ta học đòi các Ngài, xa lìa ồn náo trong chỗ ồn náo, ta nhất định đọa địa ngục A Tỳ; bởi thế, chắc chắn là chẳng học được.

Cuối bản kinh này có nói: Sơ nghiệp Bồ Tát chẳng giống như huệ hạnh Bồ Tát. Huệ hạnh Bồ Tát phá một phần vô minh, chứng một phần Pháp Thân. Hạnh của các vị Pháp Thân đại sĩ nói trong kinh Hoa Nghiêm đích thực là “phiền não chính là Bồ Đề, sanh tử chính là Niết Bàn”.Chúng ta là sơ học Bồ Tát, sanh tử là sanh tử, phiền não là phiền não, tuyệt đối chẳng thể “phiền não chính là Bồ Đề”, chúng ta làm không được!

Chúng ta nhất định phải hiểu rõ thân phận mình như thế nào, trình độ mình ra sao, phải nên tu học những gì; hoàn cảnh nhất định ảnh hưởng đến tâm tình chúng ta. Bất cứ hoàn cảnh bất hảo nào cũng sẽ khiến cho thân tâm ta chẳng đạt được hoàn cảnh thanh tịnh nên nhất định phải xa lìa. Vì thế, đức Phật mới dạy chúng ta xa lìa những nơi náo nhiệt, xô bồ.

Chánh kinh:

Trụ A-lan-nhã, tịch tĩnh lâm trung.

(Ở A-lan-nhã, trong rừng vắng lặng)

Tuy câu này tựa hồ để dạy người xuất gia, nhưng người tại gia cũng phải nên thực hiện, cũng như chẳng được thoái thác. Bây giờ ta phải hiểu câu kinh này như thế nào đây? Chính là quý vị phải chọn lựa địa phương để cư ngụ. Ở chỗ nào an tịnh mới tốt! Người Trung Quốc chúng ta, đặc biệt những ai sanh sống ở Đài Loan, náo nhiệt đã biến thành thói quen, đột nhiên thanh tịnh tựa hồ chẳng chịu đựng nổi. Chúng tôi ở ngoại quốc thấy người quen ở Đài Loan, đến Mỹ quốc chẳng chịu đựng nổi.

Nước Mỹ rất thanh tịnh, hoàn cảnh cư trú rất êm đềm. Họ quy hoạch rất phân minh, khu vực buôn bán nhất định không thể ở được, ai sống trong khu vực ấy không sống được. Họ nói muốn tìm hoàn cảnh yên vắng, tuy khoảng cách giữa các nhà lân cận chẳng xa, nhưng nhất định quý vị chẳng nghe thấy âm thanh nhà hàng xóm. Đấy chính là hoàn cảnh cư trú hiện tại của Mỹ quốc, yêu cầu của họ phù hợp với điều được dạy trong kinh này đây. Có những người già Trung Quốc về hưu đến Mỹ, sống trong hoàn cảnh ấy cảm thấy rất tịch mịch, rất quạnh quẽ nên sống ở đấy chẳng được lâu. Đó đều là vì quen thói ưa chỗ náo nhiệt, đột nhiên an tịnh bèn chẳng chịu được nổi.

Thế nhưng đức Phật dạy chúng ta: người tu hành nhất định phải sống nơi thanh tịnh. “A-lan-nhã”là tiếng Phạn, có nghĩa là chỗ tịch tĩnh. Thời cổ, tiêu chuẩn an tịnh là chẳng nghe thấy tiếng trâu rống. Chỗ nào chẳng nghe thấy tiếng trâu rống, chỗ đấy gọi là A Lan Nhã. Chúng ta phải thể hội ý nghĩa, cảnh giới ấy. “Tịch tĩnh lâm”là tiêu chuẩn để chọn lựa chỗ tu học, chọn lựa chỗ cư trú. Câu thứ ba là:

Chánh kinh:

Ưbất ưng tu, nhi tu hành giả, cập chư lãn nọa, giải đãi chi thuộc, giai đương viễn ly.

(Với những kẻ tu hành những pháp chẳng nên tu, và những hạng lười nhác, biếng trễ, đều nên xa lìa).

Câu này dạy chúng ta phải xa lìa ác tri thức. Hạng người ấy gây trở ngại cho sự tu học của chúng ta, ta cần phải xa lìa. “Ư bất ưng tu, nhi tu hành giả”, quý vị thử nghĩ xem, những gì là “bất ưng tu”(chẳng nên tu)? Bọn họ hằng ngày tu những gì? Tu tham, sân, si đấy! Tu tham, sân, si thì quả báo là tam đồ ác đạo. Chúng ta tu hành mong thành Phật, bọn họ tu hành mong thành ngạ quỷ, súc sanh, địa ngục, là những điều chẳng nên tu.

Nhưng người thế gian tu tam ác đạo rất nhiều, trong số đó có cả chúng ta nữa! Bởi vậy, chúng ta phải tự phản tỉnh, phải tự kiểm điểm xem mình có tham, sân, si hay không? Tập khí tham, sân, si của mình có nghiêm trọng hay không? Nếu đã có mà lại nghiêm trọng nữa thì phải dùng phương cách đối trị. Dùng phương cách nào? Đức Phật dạy chúng ta dùng Giới, Định, Huệ để phá Tham, Sân, Si “và những hạng lười nhác, biếng trễ”.

Đấy mới chỉ là một loại, nếu muốn kể ra thì kể chẳng hết được nổi. Đó đều là những hạng trái nghịch lời Phật dạy, chúng ta đều phải xa lìa!

Chánh kinh:

Đản tự thân quán, bất cầu tha quá.

(Chỉ tự xét mình, chẳng cầu lỗi người).

Đây chính là điều kinh Vô Lượng Thọ dạy “tẩy tâm dịch hạnh”(rửa lòng đổi hạnh). Người tu đạo chân chánh thường phải phản tỉnh, kiểm điểm lỗi lầm của chính mình, chẳng chuyên chú tìm lỗi người khác. Thấy lỗi người khác là một chướng ngại rất lớn, quý vị tu học Phật pháp công phu chẳng đắc lực, chẳng thể thành tựu. Niệm Phật chẳng những không đạt được Sự Nhất Tâm, mà công phu thành một khối cũng chẳng đạt được, nguyên nhân là vì đâu? Hằng ngày lo ngó lỗi người khác, hằng ngày kể tội người khác, tạo nghiệp đấy nhé! Dù miệng niệm Phật, nhưng tâm hạnh đều là tạo nghiệp, quý vị làm sao thành tựu cho được! Vì thế, phải nhớ kỹ: “Chỉ tự xét mình, đừng cầu lỗi người”.

Chánh kinh:

Nhạo ư điềm mặc.

(Ưa thích lặng lẽ).

Câu này dạy chúng ta phải an trụ tịnh tu, phải biết thân tâm tịch tĩnh chính là chân lạc.

Chánh kinh:

Cần hành Bát Nhã Ba La Mật Đa tương ưng chi hạnh.

(Siêng hành hạnh tương ứng với Bát Nhã Ba La Mật Đa).

Trong sanh hoạt thường ngày, đối người, đối sự, đối vật, khởi tâm động niệm, ngôn ngữ, hành vi đều phải có trí huệ cao độ. Bát Nhã Ba La Mật Đa nói theo ngôn ngữ bây giờ là trí huệ cao độ. Chư Phật, Bồ Tát biểu hiện trí huệ cao độ trong từng sanh hoạt, phàm phu sanh hoạt chẳng có trí huệ, chỉ có phiền não. Ở đây, Phật dạy chúng ta phải tương ứng với Bát Nhã Ba La Mật Đa.

Bát Nhã Ba La Mật Đa là gì? Phật nói kinh Bát Nhã hai mươi hai năm, bản dịch chữ Hán kinh Đại Bát Nhã gồm sáu trăm quyển. Chúng ta phải tương ứng với Bát Nhã Ba La Mật, nói nghe dễ dàng sao! Chỉ là cái gì chẳng tương ứng thì chẳng hành, nhất định phải tương ứng. Bởi vậy, chúng ta phải nắm được cương yếu, tổng cương lãnh của Bát Nhã. Điều này, cổ nhân đã làm thay cho chúng ta rồi; đó chính là phương tiện dựa theo kinh Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật Đa. Giản tiện, tinh yếu hơn nữa thì có lẽ mỗi vị đồng tu hằng ngày đều niệm Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh, hai trăm sáu mươi chữ. Chúng ta lấy đó làm tiêu chuẩn tu hành, sửa đổi cách nghĩ, cách nhìn, cách nói, cách làm của mình.

Về phương diện ứng dụng Bát Nhã, cổ đức bảo rằng chỉ cần quý vị nắm được hai câu cuối trong bài kệ kinh Kim Cang ắt quý vị sẽ tương ứng với Bát Nhã Ba La Mật Đa. Hai câu ấy là: “Bất thủ ư tướng, như như bất động”.Chúng tôi giảng sơ lược hai câu này như sau: ngoài chẳng chấp tướng, trong tâm bất động. Bất luận thời gian nào, hoàn cảnh nào, đối nhân, đối sự, đối vật dù là pháp thế gian hay Phật pháp đều chẳng có ngoại lệ. Đối với pháp thế gian dùng thái độ đó, đối với Phật pháp vẫn dùng đúng thái độ đó: chẳng chấp tướng, chẳng khởi tâm động niệm. Thật sự làm được “bất thủ ư tướng, như như bất động”thì quý vị chẳng khác gì Phật, Bồ Tát rồi!

Hai câu này chúng tôi thường diễn tả là “buông xuống” (phóng hạ), buông xuống được. Tổng cương lãnh của buông xuống là Chỉ Quán. Ngài Thiên Thai giảng Ma Ha Chỉ Quán, hai câu trên chính là Chỉ, mà cũng là nói đến buông xuống. Bài kệ cuối cùng trong kinh Kim Cang là:

Nhất thiết hữu vi pháp,

Như mộng huyễn bào ảnh,

Như lộ, diệc như điển.

Ưng tác như thị quán.

(Hết thảy pháp hữu vi,

Như mộng, huyễn, bọt, bóng,

Như ánh chớp, như giọt sương,

Nên thường quán như vậy)

Bốn câu kệ này “thấy rỗng toang” (khán phá). Dùng bốn câu kệ này để thấy thủng hết thảy pháp thế gian, xuất thế gian. Hết thảy pháp là hữu vi, pháp xuất thế gian cũng vẫn là pháp hữu vi. Đức Thích Ca Mâu Ni Phật vì chúng ta giảng kinh thuyết pháp bốn mươi chín năm, thậm chí hết thảy chư Phật vì chúng sanh giảng kinh thuyết pháp, toàn bộ là pháp hữu vi!

Pháp hữu vi là mộng, huyễn, bọt nước, ảnh. Vì thế, đức Phật mới bảo “pháp còn phải bỏ, huống chi là phi pháp!”Pháp là Phật pháp. Phật pháp còn chẳng được chấp trước, huống hồ chẳng phải là Phật pháp, đều phải nên bỏ hết! Đấy là lời dạy quý vị phải thấy trần trụi [bản chất các pháp] vậy! Mộng, huyễn, bọt nước, ảnh chẳng phải thật, là giả đó! Điều này chúng tôi đã giảng rất tường tận, rất thấu đáo trong kinh Kim Cang.

Câu “như lộ, diệc như điển”nói đến huyễn tướng, giả tướng ấy tồn tại trong thời gian rất ngắn. “Lộ”là giọt sương đọng, tỉ dụ cái tướng tương tục của hiện tượng ấy chỉ tồn tại trong một thời gian, nhưng thời gian ấy chẳng dài lâu. “Như điển”ý nói sanh diệt trong sát-na, nói cách khác là về căn bản chẳng hề tồn tại! Trong Phật pháp có nói “bất sanh bất diệt”.Bất sanh bất diệt ngụ ý sanh diệt đồng thời; lúc sanh cũng chính là lúc diệt. Đó chính là chân tướng của hết thảy hiện tượng, chẳng khó hiểu lắm. Các nhà khoa học hiện đại đã chứng minh cho chúng ta thấy rồi, điều xác thực là tất cả hiện tượng đều tồn tại trong một thời gian ngắn ngủi phi thường, gần như chúng ta không có cách nào tưởng tượng được, không cách gì hiểu được nổi. Bài kệ này thuyết minh chân tướng thế gian, xuất thế gian, hễ quý vị thể hội được, quý vị sẽ thấy rỗng toang được. Bởi thế, hai câu kệ trước và bài kệ này là nói đến thấy rỗng toang, buông xuống!

Thấy rỗng toang, buông xuống thì chẳng cần biết là tu học theo tông phái nào, pháp môn nào, quý vị đều có “nhập xứ”cả! Nhập xứ là gì? Là quý vị đều có thể chứng quả. Chữ “nhập” này là nhập vào Nhất Chân Pháp Giới, nhập Bất Nhị pháp môn. Nhập được Nhất Chân Pháp Giới, Bất Nhị pháp môn thì chẳng những quý vị vượt khỏi lục đạo, mà còn siêu việt mười pháp giới nữa kia, đấy mới kể là thành tựu viên mãn rốt ráo. Bởi thế, câu này trọng yếu phi thường.

Trong sanh hoạt, chúng ta phải tu những gì? Tu những điều trên. Nếu nói như vậy, cần chi phải cầu sanh Tịnh Độ cơ chứ? Nếu nói là chẳng cầu sanh Tịnh Độ, quý vị cứ y chiếu theo phương pháp này tu hành vượt thoát lục đạo, vượt thoát mười pháp giới xong; sau khi vượt thoát, quý vị muốn chứng được viên mãn Bồ Đề thì lại phải tu trọn ba đại a-tăng-kỳ kiếp. Thời gian ấy rất dài! Con số ấy là con số dùng trong thiên văn học đấy!

Chúng ta thường nói thành Phật phải mất ba a-tăng-kỳ kiếp, nhưng chẳng phải là tính từ thời gian hiện tại đâu nhé. Lúc quý vị chưa nhập Nhất Chân Pháp Giới không tính, lúc còn trong lục đạo không tính, lúc còn trong mười pháp giới, dẫu là Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát đều chẳng tính, phải là vượt thoát mười pháp giới, chứng được Nhất Chân Pháp Giới rồi thì kể từ ngày ấy mới tính, phải qua ba đại a-tăng-kỳ kiếp mới viên mãn Bồ Đề. Đấy là điều kinh điển Đại Thừa thường giảng, quý vị phải lưu ý một chút mới hiểu rõ được.

Trong ba đại a tăng kỳ kiếp, a-tăng-kỳ kiếp thứ nhất chứng được ba mươi địa vị: Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng; a-tăng-kỳ thứ hai chứng được bảy địa vị từ Sơ Địa đến Thất Địa; a-tăng-kỳ thứ ba chứng được Bát Địa, Cửu Địa, Thập Địa. Tu trọn ba a-tăng-kỳ rồi, quý vị đạt đến địa vị nào? Pháp Vân Địa Bồ Tát, vẫn chưa đạt tới địa vị Đẳng Giác; còn phải đạt tới Đẳng Giác mới là thành Phật. Chúng ta thấy lại phải tốn thêm một a-tăng-kỳ nữa mới thành công. Đó là nói trong trường hợp quý vị chẳng cầu sanh Tây Phương Tịnh Độ.

Nếu cầu sanh Tây Phương Tịnh Độ thì sao?

Ái chà! Quý vị chiếm tiện nghi lớn lắm nghe! Quý vị vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, thân phận chúng ta là phàm phu nghiệp chướng, hạ hạ phẩm vãng sanh một phẩm phiền não còn chưa đoạn được, đến thế giới Cực Lạc rồi muốn chứng được Phật quả viên mãn rốt ráo thì phải mất bao lâu? Trong quá khứ, khi giảng kinh chúng tôi đã nói nhiều lần rồi, chúng tôi dựa theo kinh Vô Lượng Thọ, kinh A Di Đà tính toán tỉ mỉ thì khoảng ba bốn kiếp là thành công! Ba kiếp, bốn kiếp thôi nhé! Nếu quý vị chẳng cầu sanh Tây Phương Tịnh Độ, phải mất ba đại a-tăng-kỳ kiếp, chẳng so sánh được nổi!

Chúng tôi nói rút gọn ý nghĩa này lại cho quý vị nghe: Chẳng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, quý vị tu hành chứng quả thì phải cần ba vạn năm mới có thể thành công; đến Tây Phương Cực Lạc thế giới thì cần bao nhiêu thời gian? Ba ngày là thành công! Quý vị cứ tính đi. Đó là lý do vì sao chúng ta y chiếu Bát Nhã Ba La Mật Đa tu hành, nhưng vẫn phải vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới. Quý vị càng nhận thức rõ đạo lý ấy thì chân tướng sự thực càng rõ rệt, bởi vậy quý vị mới tử tâm (1) khăng khắng niệm Phật cầu sanh, mà cũng chẳng hoài nghi, chẳng còn do dự. Đây là nói về tự hạnh.

---o0o---

Source: http://www.niemphat.net/

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com