Khóa Hư Lục
Tác giả:Hoàng Đế Trần Thái Tông
Dịch giả:HT. Thích Thanh Kiểm
---o0o---
QUYỂN THƯỢNG
---o0o---
Bàn Về Giới Định Tuệ
Ôi! Hết thẩy người tu hành đều chán ngán hai đường sinh tử. Bỏ vộ con cha mẹ, xuất gia cầu đạo, phụng Phật làm thầy. Noi theo đường lối của chư Phật, duy ở kinh mà thôi. Trong kinh chỉ nói giới, định, tuệ. Luận Giải-thoát nói: "Giới, Định, Tuệ là con đường giải thoát". Giới là nghĩa oai nghi. Định là nghĩa chẳng loạn. Tuệ là nghĩa hiểu biết. Đó là lấy giới trừ ác-cấu (1), định trừ triền-cấu, tuệ trừ sử-cấu, nên phải lấy giới, định, tuệ để gieo giống thiện, gây mầm đạo. Giới định tuệ còn chia ra sơ-thiện, trung-thiện và hậu-thiện. Lấy giới làm đầu, định làm giữa và tuệ ở sau. Giới là thiện đầu. Vì có tinh tiến trì giới, mới thành tựu được bất thoái, nên sinh vui mừng. Bởi mừng nên nhún nhẩy. Vì nhún nhẩy nên thân đứng. Bởi thân đứng lại nên vui. Bởi vui nên tâm không định. Đó là sơ-thiện. Định làm thiện giữa. Bởi thân đứng nên ngừng. Bởi ngừng nên tâm trụ. Bởi tâm trụ nên biết thấy như thất. Đó là trung-thiện. Tuệ làm thiện cuối. Bởi biết thấy như thật, nên sinh lo chán. Bởi lo chán nên lìa dục. Bởi lìa dục nên giải-thoát. Đó là hậu-thiện. Cho nên lấy giới trừ bỏ ác thú, định trừ bỏ dục-giới, tuệ trừ được hết thấy cõi Hữu. Y vào giới, định, tuệ này mà tu, thời đường lối của chư Phật cũng rất gần vậy.
* Chú thích:
(1) Ác-cấu, Triền-cấu, Sử-cấu: Tức tam cấu là tham, sân, si. Tam-cấu cũng gọi là tam-hoặc: 1) Kiến tư hoặc, 2) Trần sa hoặc, 3) Vô minh hoặc. Trong đây nói ác-cấu, triền-cấu, sử-cấu là chỉ nói về thập triền, thập sử, phần kiến tư hoặc trong tam giới.
---o0o---
Vi tính: Việt Dũng
Trình bày: Nhị Tường