Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Quan Âm Bồ Tát (tập thơ)

15/12/201316:23(Xem: 29781)
Quan Âm Bồ Tát (tập thơ)

Bo_Tat_Quan_The_Am_3

Quan Âm Bồ Tát
Thích Thuyền Ấn

Tho_Quan Am Bo Tat
Phật tử Quảng Minh kính tưởng nhớ và niệm ân đến Hòa thượng Thích Thuyền Ấn
mà đánh máy tập thơ “Quan Âm Bồ Tát”
mà Hòa thượng sáng tác khi còn ở Tổ đình Ấn Quang.

Thơ

Thơ tôi nho nhỏ,

Hoa nở ven đồi.

Trăng vàng sáng tỏ,

Sao hiện đầy trời.

Thuyền Ấn




Xuân

Pháo nổ ta nghe lòng nổ vang

Muôn hoa rực rỡ đón Xuân sang

Thu Đông lui gót, Xuân bay đến

Mai nở say sưa tắm nắng vàng.

Thuyền Ấn




Quan Âm Bồ Tát

Lòng mơ nâng đóa sen vàng,

Quan Âm Bồ tát nhẹ nhàng ngự lên.

Không gian bát ngát mông mênh,

Biển khơi Bồ tát lênh đênh thuyền từ,

Cứu người đến bến vô dư,

Viên thành Phật quả chân như tỏa ngời.

Dù cho lửa cháy ngút trời,

Quan Âm vào đấy độ người trầm luân.

Dù cho biển khổ gian truân,

Quan Âm mang nặng lòng nhân cứu đời,

Quan Âm Bồ tát giữ lời nguyện xưa.

Dù cho bão tố đêm mưa,

Quan Âm Bồ tát vẫn chưa lui về.

Dù chìm biển ái sông mê,

Quan Âm vào đấy tìm bề cứu ra.

Dù cho khắp cõi Ta bà,

Điêu linh chìm ngập, hằng sa đọa đày,

Muôn ngàn hệ lụy đắng cay,

Quan Âm từ mẫu cứu ngay an lành.

Dù cho sự nghiệp tan tành,

Xác xơ đói khổ, năm canh ưu sầu,

Quan Âm vận dụng phép mầu,

Dẹp cơn đói khổ, sang giàu có ngay.

Dù cho sóng gió bủa vây,

Biển khơi bão tố Đông Tây hãi hùng,

Từ bi rộng lớn vô cùng,

Quan Âm cứu khổ hết lòng độ ra.

Trần gian dù lắm phong ba,

Chiến tranh bùng nổ can qua ngút trời,

Đó đây bom đạn tơi bời,

Quan Âm hiện đến cứu người khổ đau.

Ai ơi nên nhớ khuyên nhau,

Thành tâm trì niệm nguyện cầu Quan Âm.

Thiết tha kính cẩn nhất tâm,

Tháng năm cầu nguyện Quan Âm cứu đời.

Thuyền Ấn




Ta Bà Khổ

Ta bà khổ, Ta bà đầy khốn khổ

Vô minh trùm phủ nặng kiếp đau thương

Chơi vơi bến mê ngập sóng vô thường

Biển ái mênh mang tràn đầy bão tố

Trần lụy trót vương, vướng ngàn thống khổ

Rối như tơ, tháo gỡ mãi không ra

Càng keo sơn càng cay đắng thiết tha

Trời đất rộng, gông khổ đau kềm hãm!

Mùa Đông lạnh, từng đêm Đông ảm đạm

Nhìn tối tăm, nghe bi đát hoang vu

Bãi tha ma như địa ngục âm u

Hồn ai đó nằm chết trong lòng đất!

Lệ rưng rưng, tâm niệm “Nam mô Phật”

Mong thuyền từ cứu độ vạn sinh linh

Xin đức Thế Tôn rọi ánh quang minh

Mặt trời trí tuệ tỏa lên bừng sáng

Cho kiếp sống thế nhân ngời quang đãng

Vơi vơi đi khắc khoải vạn thương đau.

Thuyền Ấn




Kiếp Người

Thê lương lạnh kiếp luân hồi

Vô minh ngu tối trói người tử sinh

Gian truân đắng kiếp điêu linh

Sắc, tình, danh, lợi: ngục hình đau thương.

Thuyền Ấn




Cuộc Đời

Sắc đẹp, tình yêu, tiền tài, danh vọng

Dựng nên thiên thai hồn mộng tuyệt vời!

Chúng cũng cho người điêu đứng, tả tơi,

Chua xót, đắng cay, đọa đày, khổ lụy!

Thuyền Ấn




Ảo Mộng

Ảo mộng sắc không khuấy kiếp người

Hiển vinh phú quí Xuân hồng tươi

Giai nhân tuyệt sắc xinh như ngọc

Tắt thở tan vong hoa hết cười.

Thuyền Ấn


Vất Bỏ

Bả lợi danh điêu linh anh thế ấy

Mộng bá vương đày hùng kiệt tháng năm

Vất tất cả siêu thoát ngắm trăng rằm

Kiếp phù sinh tang thương, ngu, điên, dại.

Thuyền Ấn




Thức Tỉnh

Thức tỉnh lại, anh ơi dừng hẳn lại!

Khanh tướng chi? Tình ái lệ đầy vơi!

Vương bá công hầu bẫy lụy kiếp người

Buông bỏ hết đời anh ngời siêu thoát.

Thuyền Ấn


Kiếp Phù Sinh

Đống xương khô lạnh nằm trong đất

Kiếp phù sinh là giấc mộng sầu!

Oai như vương bá công hầu,

Chết rồi danh lợi còn đâu theo mình.

Thuyền Ấn




Phật Tánh

Phật tánh tuyệt vời trong ta sẵn có

Mê quên đi, phiêu bạt kiếp luân hồi

Bả lợi danh đày đọa khổ không thôi

Tỉnh ngộ lại ngay đây bờ giải thoát.

Thuyền Ấn




Khổ Đế

Từng tinh tú giống như từng giọt nước,

Trôi lênh đênh khắp biển rộng hư không.

Nào ai ngờ trong vũ trụ mênh mông,

Từng ngôi sao nổ tan chưa từng biết.

Từng kiếp người xuôi tay thầm lặng chết!

Từng đế vương oanh liệt nay còn đâu?

Từng độ thịnh suy “bãi bể nương dâu”

Từng triều đại vàng son điêu tàn đổ

Từng dịp biến thiên quả đất bùng nổ

Từng nền văn minh băng hoại tiêu tan

Từng trận chiến tranh lớn nhất thế gian

Từng lớp xương khô phơi đầy mặt đất.

Từng căm hờn sôi bùng lên uất uất

Từng nghìn năm buồn căm lặng trôi qua

Từng bông hoa rã cánh dưới trăng tà

Từng tuyệt thế giai nhân nằm tắt thở

Từng tỷ phú gia tài đùng tan vỡ

Từng núi vàng nối gót bỏ ra đi

Từng mối tình đầu thắm thiết mê ly

Từng túp lều tranh thơm bốc lửa cháy

Từng nức nở đêm trường không che đậy

Từng đau thương chua xót lúc chia phôi

Từng ca nhi lẻ bóng khóc đơn côi

Từng chiến hạm bắn nhau chìm đáy bể

Từng thắng bại ngập toàn bằng máu lệ

Từng vinh quang chuốc lấy vạn hận thù

Từng hiển hách mua oán vọng thiên thu

Từng xác chết nằm đơn côi quạnh quẽ

Từng anh hùng vung gươm thiêng cái thế

Từng vạn năng gây sông máu núi xương.

Xin các lãnh tụ các cường quốc xót thương

Cho nhân loại được tự do hạnh phúc

Cả thế giới thôi gông cùm tù ngục

Khắp hoàn cầu chấm dứt mọi chiến tranh

Để nhân loại sống thực sự an lành.

Chiều nay lạnh lòng nghe đau từng đoạn

Nhìn nghĩa trang lặng buồn trong gió thoảng

Ngàn muôn năm mây trắng vẫn còn bay.

Thuyền Ấn




Chơi Vơi

Người ta trong cuộc đời

Bọt nước trên biển khơi

Lênh đênh hằng sa kiếp

Trăng buồn trôi chơi vơi.

Đông về hoa tuyết rơi

Nghe gió buốt khắp nơi

Không gian chìm hoang vắng

Chim ngại bay lưng trời.

Luân hồi khổ rã rời

Thêm bom đạn tơi bời

Điêu linh và chết chóc

Xương trắng đó đây rơi.

Chua xót khó nên lời

Đời khổ lắm ai ơi

Cầu xin Phật cứu độ

Quan Âm hiện tuyệt vời.

Thuyền Ấn




Ngân Vọng

Chuông chùa ngân vọng không gian

Hồn nghe lắng dịu muôn ngàn đau thương

Thế gian vạn kiếp tơ vương

Trang nghiêm cảnh Phật ngát hương thoát trần.

Thuyền Ấn




Hạt Bụi

Đem gói trọn cả ba ngàn thế giới

Bỏ gọn vào trong hạt bụi huyền

Cầm núi Tu-di đập nát A-tỳ

Gửi hết chúng sinh lên thiên đường ở.

Thuyền Ấn




Bình Minh Dậy

Một sáng tinh sương trời vắng mây

Nhẹ nhàng trăng ngủ Trường sơn tây

Rạng Đông ưu ái bình minh dậy

Đêm tối tan rồi không có đây.

Thuyền Ấn




Ta Nghe

Ta nghe hồn vỡ làm đôi,

Trăng vàng trắc ẩn bồi hồi trên không.

Ta nghe nức nở trong lòng,

Trăng vàng trầm lặng cảm thông nhiệm mầu.

Ta nghe hồn chết đêm thâu,

Trăng vàng tha thiết nguyện cầu cho ta.

Thuyền Ấn




Trăng Vàng

Trăng vàng rụng xuống suối mơ,

Hai con hạc trắng ngẩn ngơ lưng trời,

Trăng vàng nũng nịu tuyệt vời,

Hai con hạc trắng chẳng rời bồng lai.

Thuyền Ấn


Lung Linh

Suối mơ bóng nguyệt lung linh

Hồn còn mang nặng ân tình Như Lai

Trả lui giấc mộng thiên thai

Cho con hạc trắng bồng lai bay về.

Thuyền Ấn




Ngắm Trăng

Trời xuống trần gian du ngoạn chơi

Gặp anh hàn sĩ ngắm trăng cười

Hỏi rằng anh khổ hay hoan lạc?

Anh vẫn nhìn trăng rất thảnh thơi.

Anh già hay trẻ nói ta nghe

Ta sẽ vì anh mà chở che

Nói thẳng với ta điều ước nguyện

Mau lên kẻo muộn, để ta về.

Nhìn trời hàn sĩ mắt như sao

Thăm thẳm suy tư ngoảnh lại chào

Tôi kẻ hàn sinh tìm sức sống

Từ mười bảy tuổi đã gian lao.

Kẻ ác hại tôi, phá phách tôi

Không cho tôi tiến tự lâu rồi

Chẳng nề gian khổ tôi vùng dậy

Ước nguyện vun bồi đạo pháp thôi.

Kẻ ác lưu manh lại rất hăng

Phá tôi, tôi lặng như trăng rằm

Trời cao vươn dậy lòng soi sáng

Bền chí sách đèn qua tháng năm.

Từ tuổi thơ ngây khi Mẹ tôi

Chia tay vĩnh biệt có trao lời:

“Con kiên chí học cho thành đạt,

Hoằng đạo lan truyền khắp mọi nơi.”

Ghi tạc vào tim ý Mẹ hiền

Đạp lên gian khổ, dẹp oan khiên

Nếm bao cay đắng và đen bạc

Vùng dậy mỉm cười say bút nghiên.

Trăng ngắm nhìn tôi, tôi ngắm trăng

Đêm nay trời sáng ánh trăng rằm

Đạo mầu Phật Tổ truyền lan mãi

Là nguyện lòng tôi qua tháng năm.

Thuyền Ấn




Đố Ai

Đố ai liễu thoát tử sinh,

Tôi xin trao trọng tâm tình chân như.

Đố ai không vướng ưu tư,

Tôi xin dắt đến vô dư Niết bàn.

Đối ai sạch nghiệp trần gian,

Tôi đưa về chốn lạc bang liên trì.

Đố ai chứng pháp vô vi,

Tôi xin đốt nát A tỳ ngay cho.

Đối ai quên hẳn âu lo,

Tôi ban hạnh phúc ấm no suốt đời.

Đối ai trọn kiếp vui cười,

Tôi cho lên sống trên trời với tiên.

Đối ai trút hết lụy phiền,

Tôi xin giải thoát oan khiên bây giờ.

Đối ai lòng chẳng vương tơ,

Tôi mời trăng xuống tặng thơ tuyệt vời.

Đố ai phát nguyện cứu đời,

Tôi xin bái phục dâng lời tán dương.

Đố ai rủ bỏ ghét thương,

Tôi tôn người ấy: Thánh vương thoát trần.

Đối ai dứt tuyệt tham sân,

Tôi xem là bực vĩ nhận đại hùng.

Đối ai thấy Phật trong lòng,

Tôi xin truyền ý dung thông nhiệm mầu.

Đối ai ngộ đạo thâm sâu,

Tôi xin hỏi thử rằng đâu bồ đề?

Đố ai diệt trọn si mê,

Tôi xin chỉ rõ nẻo về chân tâm.

Thuyền Ấn




Người Và Tôi

Người sờ soạng với lợi danh hư huyễn,

Tôi lắng sâu vào thế giới tâm linh.

Người chìm đắm trong dục vọng muôn hình,

Tôi phiêu du khắp chân trời giải thoát.

Người đa mang tham sân si đọa lạc,

Tôi luyện lòng bằng trí tuệ từ bi.

Người ngựa xe vàng ngọc chẳng thiếu gì,

Tôi lánh xa chốn hồng trần huyên náo.

Người những tưởng công khanh là phước báo,

Tôi thấy rằng vương bá chính oan khiên.

Người mơ chiếm cả thế giới đảo điên,

Tôi buông bỏ trọn trần gian hệ lụy.

Người nhiệt cuồng mê vinh hoa phú quí,

Tôi đắm hồn say thế giới Phật tâm.

Người lao mình vào tội ác sai lầm,

Tôi ngày đêm tinh tu theo pháp Phật.

Thế Tôn xưa bỏ ngai vàng, điện ngọc,

Xa vợ con, vất phú quí trần gian,

Cầm bình bát sống giải thoát tâm an,

Quyết tìm phương cứu chúng sinh hết khổ.

Hằng sa đau thương từ bi nguyện độ,

Trầm luân vùi ngợp điêu đứng đắng cay.

Lục đạo nổi chìm phiêu bạt đó đây,

Đức Mâu Ni vì chúng sinh cứu thoát,

Vào rừng sâu đạo mầu quyết thông đạt,

Đêm đêm về trầm lặng với trăng sao,

Đạo bồ đề Ngài năm tháng khát khao,

Tìm cho ra, cứu nguy Ta bà khổ.

Đêm thành đạo lúc sao mai lộ,

Đức Thế Tôn chứng Vô thượng bồ đề.

Cứu chúng sinh thoát bể khổ sông mê

Tắm Niết bàn reo vui bờ giác ngộ.

Người và tôi cùng xin Phật cứu độ,

Người và tôi cúi đầu lễ Như Lai,

Người và tôi tu giải thoát trần ai.

Thuyền Ấn




Huyền Trang Đại Sĩ

Kính cẩn kỷ niệm công đức xả thân
hoằng đạo của Huyền Trang pháp sư,
và kính tặng những vị xuất gia đã tự nguyện
hiến trọn đời mình phục vụ chánh pháp.
Thuyền Ấn

Không, nhất quyết phải đi

Vương pháp? Chết ngại gì [1]

Đạo mầu đang mờ thế,

Yên sống để mà chi?

Ngựa ơi! Dũng tiến ta cùng ngươi,

Dưới ánh bình minh rực chiếu ngời,

Ta ước làm sao truyền đạo cả,

Lan tràn bừng chói đến muôn đời.

Trập trùng núi biếc ngựa người đi,

Vượt ải băng sông ai dám bì?

Ngày ẩn đêm đi ôm chí cả,

Hiên ngang lặng tắm nắng Gô-bi.[2]

Dũng mãnh vượt qua bao dặm đường,

Hy-ma[3]hùng vĩ thẹn che sương,

Đến đây lòng đã lâng lâng nhẹ

Bão cát còn đâu nỗi đoạn trường.

Lan-đà[4]truy ngộ thực kỳ duyên,

Học đạo nơi đây với Giới Hiền,

Diệu pháp sau khi đã thấu triệt,

Từng phen chấn động cả Tây thiên.[5]

Quê cũ về đây bủa đạo vàng,

Vua Đường nghinh tiếp điện Nghi Loan,[6]

Pháp mầu thỉnh vấn, oai hùng đáp,

Làm thỏa người nghe tợ tiếng đàn.


Tiếng đàn diệu pháp trỗi ngân vang,

Chỉ nẻo người đi đến Niết bàn,

Giục trống, thượng cao cờ chánh pháp,

Hoa đàm hương vị hẳn chưa tan.

Gian truân hề! Sá chi.

Vinh quang hề! Kể gì.

Lớn lao hề! Chí cả.

Bao la hề! Từ bi.

Thuyền Ấn


Tho_Quan Am Bo Tat_2
Phật tử Quảng Minh kính tưởng nhớ và niệm ân đến Hòa thượng Thích Thuyền Ấn mà đánh máy tập thơ
“Quan Âm Bồ Tát” mà Hòa thượng sáng tác khi còn ở Tổ đình Ấn Quang.
Trình bày và chép thơ bởi Quảng Minh (15-12-2013)



[1]Trước khi lên đưng Tây du, Huyn Trang pháp sưbvua hchiếu cm ngăn. Nhưng nng lòng vi vic phc hưng chánh pháp, Ngài vn ququyết lên đưng, không ngi ngùng tai biến.

[2]Gô-bi (Gobi): Tên ca bãi sa mc nm khong gia Mông Cvà Tây Tng. Nng nơi đây và cát chn này, đã vùi chôn biết bao du khách thương gia.

[3]Hy-ma (Himalaya): Hy Mã Lp Sơn, tên mt dãy núi châu Á, phân chia tiu lc đa n Đkhi cao nguyên Tây Tng.

[4]Lan-đà (Nalanda): Na-lanà, tên ca mt Đi tùng lâm ln nht n Đ. Huyn Trang hc đo nơi đây.

[5]Tây thiên: Tên gi xn Đ.

[6]Khi Huyn Trang pháp sưva vnước, vua Đưng Thái Tông nghinh tiếp Ngài ti đin Nghi Loan, đthnh vn vđo pháp.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
01/04/2024(Xem: 22235)
Phật giáo Việt Nam trong hai thế kỷ cận đại và hiện đại, xuất hiện một số nhân vật đạo hạnh cao vời, kỳ tài xuất chúng, có những cống hiến to lớn, dài lâu cho Đạo pháp và Dân tộc. Ngôn ngữ nhà Thiền xưng tụng những vị này là Bồ-tát, Đại sĩ, Thánh Tăng, hay Long Tượng, là những tôn danh chỉ được tìm thấy trong kinh điển, sử sách, trong lịch sử truyền miệng hoặc trên những bia đá ngàn năm nơi cổ tháp. Triết gia Phạm Công Thiện trong buổi ra mắt tác phẩm “Huyền Thoại Duy Ma Cật” của Hòa thượng Tuệ Sỹ tại thành phố Houston, tiểu bang Texas ngày 04 tháng 11 năm 2007, đã gọi tác giả là “bậc Long Tượng: Tuệ Sỹ” và diễn giải thêm, “Long Tượng là bậc Thầy của cả một dân tộc, nếu chưa muốn nói là bậc Thầy của thế giới.”
17/04/2024(Xem: 437)
Đường về núi cũ chùa xưa Phật thiêng trên cõi phù du vô thường Cỏ hồng hiu hắt quê hương Trên đồi Trại Thuỷ nở vườn kỳ hoa Chân trời cao rộng xuất gia Đi tìm vô hạn mây hoà với thơ Điêu linh mặt đất bến bờ Vòng tay cát bụi đợi chờ ôm mang
17/04/2024(Xem: 342)
Xứ Úc hiền hoà nay xảy ra quá nhiều xô xát ! Hành vi đâm chém (stabbing ) có thể do phẫn nộ ẩn giấu bên trong Học lại bài kinh “Ví dụ cái cưa “ mới cảm thông (1) Vì lòng từ bi, Đức thế Tôn đã giáo giới !
17/04/2024(Xem: 118)
Đời ta, chiếc lá Bồ Đề Thăng trầm muôn nỗi.. rồi về cội xưa Đời ta, là tiếng chuông chùa Ngân nga theo gió bốn mùa nhân gian Đời ta, là một nén nhang Tỏa làn hương .. nguyện bình an khắp cùng Thu tàn, Đống đến, sang Xuân.. Thì ta vẫn thế, sống trong hiện tiền.
13/04/2024(Xem: 160)
Các anh là chiến sĩ oai hùng Hiên ngang chiến đấu khắp mọi vùng Chí cả sáng ngời như Nhật Nguyệt Dâng hiến đời vì lợi ích chung. Các anh là chiến sĩ tài hoa Vạn tâm hồn là vạn tinh hoa Sống hiên ngang trong thời ly loạn
11/04/2024(Xem: 893)
Đến một lúc chợt bàng hoàng thảng thốt! Thì ra cuộc sống này phù du đến thế ư? Chỉ là bao gồm ý nghĩa của những danh từ “Tư tưởng, ý niệm, hành xử, cảm xúc” Trước đối tượng Cảnh, Người được ta liên tục nhận thức !
03/04/2024(Xem: 243)
Lạy Mẹ hiền Quán Thế Âm Diệu âm tiếng dội ngàn năm Tạ ơn tình thương cao cả Con nguyện đốt đuốc soi đường. Hình hài một tấm sơ sinh Nguyên vẹn ánh đạo quang minh Thanh tâm này kim chỉ hướng Tây phương là chốn con về.
03/04/2024(Xem: 725)
Danh và thực trong đời sống xã hội là nói cái tên gọi và thực chất, chức danh và khả năng, danh vị và tài đức. Danh mà không đi đôi với thực thì gọi là hữu danh vô thực (1). Tổ chức có nhiều kẻ hữu danh vô thực rất dễ dẫn đến sự phân rã, suy yếu, thất bại. Xã hội có quá nhiều kẻ hữu danh vô thực chắc chắn sẽ dẫn đến rối loạn, suy đồi, khó tiến bộ. Ở những địa vị cao trong giai tầng xã hội, danh với thực mà quá cách biệt thì nói không ai nghe, trên dưới không đồng lòng, dù có kế sách gì hay cũng không thực hiện được chu toàn.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567