Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Công nghệ và “Sự Ngắt quãng” của Tiến trình Phát triển Xã hội Nhân bản

18/03/202310:45(Xem: 5585)
Công nghệ và “Sự Ngắt quãng” của Tiến trình Phát triển Xã hội Nhân bản


tri tue nhan dao

Công nghệ và “Sự Ngắt quãng”
của Tiến trình Phát triển Xã hội Nhân bản

(Disruption from Innovative Technologies)

 

Công nghệ phát triển thay đổi cuộc sống con người, tuy nhiên sẽ thật ngây thơ khi tin rằng công nghệ chỉ mang lại lợi ích mà không phải trả giá. Một chủ đề lặp đi lặp lại trong lịch sử là sự ra đời của các công cụ và cơ bản công nghệ đổi mới, sẽ thay đổi cách chúng ta nhìn nhận bản thân và thế giới, cũng như trong đó có vai trò của chúng ta. Từ sự phát triển động cơ hơi nước, hàng không, xử lý máy tính và gần đây hơn là trí tuệ nhân tạo (AI), các công cụ và công nghệ đã cải thiện phúc lợi đáng kể và năng suất của con người nhưng không nhất thiết là phúc lợi của con người và các hệ sinh thái của thế giới.

 

Tại sao lại như thế? Trước nhất, sự phát triển của các công cụ công nghệ dành cho việc sử dụng công cụ theo nhiệm vụ cụ thể, mà không nghiên cứu nhiều đến các tác động nhiều mặt, sâu sắc hơn. Trong tác phẩm gần đây của tác giả “Buddhism and Intelligence Technology (2021)” (Phật giáo, Công nghệ và Trí thông minh), Giám đốc Chương trình phát triển nghiên cứu châu Á, Peter Hershock phân tích các công cụ công nghệ, nói rằng: “Các công cụ được thiết kế và có thể bản địa hóa” trong khi công nghệ là “Các hệ thống công nghệ mới nổi của vật chất trong thực hành, khái niệm, biểu hiện và triển khai cả giá trị chiến lược và quy chuẩn: Ngay lập tức định hình môi trường làm việc có chủ tâm và tại sao.” Công nghệ có các khía cạnh cơ bản về nhân văn, xã hội và chính trị. Peter Hershock làm rõ rằng: “Khi chúng tôi tham gia với họ, chúng tôi không thiết kế hoặc sử dụng công nghệ.”

 

Gần đây có thể được đánh giá thông qua lăng kính hầu hết những phát triển về Trí tuệ nhân tạo (AI). Ngày nay, các nhà khoa học và các nhà đầu tư đang tập trung vào việc phát triển các hệ thống nhanh hơn và thông minh hơn. Tuy nhiên, tầm quan trọng của AI với tư cách là một công nghệ đang bị ngó lơ. Trong khi hầu hết các nhà khoa học đang tập trung vào “Singularity” (điểm kỳ dị công nghệ) - khi sự phát triển của AI đạt đến điểm không thể quay trở lại; khi “trong một cách vượt thoát” (in a runaway fashion), nó tự xoay sở để tự phát triển, và vượt qua trí thông minh của con người, thì cuối cùng các chuyên gia lo ngại rằng, nó sẽ dẫn đến một khoảnh khắc "Skynet" (một hệ thống tự vận hành độc lập, có thể suy nghĩ và điều khiển toàn bộ hệ thống tiện nghi, khí tài quân sự của con người trong tương lai. Là một trí thông minh nhân tạo do con người tạo ra và đã điều khiển đội quân robot quay lại huỷ diệt chính con người từ những người đã tạo ra nó), như được mô tả trong loạt phim khoa học diễn tưởng Kẻ hủy diệt.

 

Tuy nhiên, Giám đốc Chương trình phát triển nghiên cứu châu Á, Peter Hershock lo ngại hơn về mối đe dọa sắp xảy ra của điểm kỳ dị đạo đức, trong đó “tiến trình tiếp theo là cơ hội không gian để điều chỉnh sự suy sụp của con người”, một điểm mà nơi đây AI sẽ thay đổi cơ bản và không thể đảo ngược các giá trị của chúng ta, cũng như cách chúng ta tương tác và hành xử. Như đã trải qua trong cơn đại dịch Covid-19, cho phép chúng ta kết nối duy trì công nghệ trong khi chúng ta bị cách ly và cô lập về thể chất. Thật chẳng may, các công nghệ cũng làm rối trí hiểu biết của chúng ta về kiến thức, các mối quan hệ và phương tiện hạnh phúc vì dường như chúng ta thiếu khả năng xác định sự thật, danh tính thực và do đó thực sự là sự kết nối và các mối quan hệ. Việc khám phá tâm linh và tôn giáo về những gì làm cho chúng ta hạnh phúc, làm vơi đi những nỗi khổ niềm đau và ngày càng thêm khó khăn hơn của chúng ta: như những kim ngôn khẩu ngọc của Đức Phật giáo huấn, nếu đời sống đạo đức thanh cao là nền tảng của an lạc hạnh phúc, thì làm sao chúng ta có thể đánh giá cao những nguyên nhân và hậu quả đạo đức khi chúng ta không còn có thể xác định quyền tự quyết về mặt đạo đức, cũng như các sự kiện và dữ liệu cần thiết để đưa ra những lựa chọn đúng đắn về mặt đạo đức?

 

Gần đây, Hội thảo khoa học quốc tế "Đạo đức trong thời đại trí tuệ nhân tạo (AI)" (Ethics in the age of artificial intelligence), tôi đã lập luận rằng AI đặc ra một loạt mối đe dọa đối với các lý thuyết hiện có của chúng ta về trí thức, bản thể và sự cứu độ. Lý thuyết về mặt tri thức, con người chúng ta “hiểu biết” (know) chính mình và thế giới bên ngoài thông qua nhận thức được những cảm giác và hình thành được những tưởng tượng. Khi chúng ta cung cấp ngày càng nhiều dữ liệu để máy móc giải mã sở thích và kiểu suy nghĩ của mình, chúng ta ngày càng trở nên dễ bị tổn thương hơn trước sự thao túng bởi những người có thể truy cập và phân tích dữ liệu đó. Có thể đến lúc máy móc biết về cảm xúc và suy nghĩ của chúng ta nhiều hơn bạn bè và gia đình thân thiết của mình, thậm chí hơn cả khả năng tự nhận thức và hiểu biết của chúng ta. Thông tin sai lệch và sai lệch cũng có thể thay đổi một cách có hệ thống, cách chúng ta suy nghĩ và hành động. Lý thuyết về nhận dạng, sự phát triển của hình ảnh “Deepfake” (công nghệ sử dụng trí tuệ nhân tạo (AI) để lấy hình ảnh, giọng nói của một người ghép vào video của người khác) do máy tính tạo ra và Thực tế ảo (Virtual reality) đưa chúng ta đến một thế giới trải nghiệm mới sẽ là những  thách thức các giác quan và trí não của chúng ta.

 

Có thể chúng tôi không còn chắc chắn về danh tính thực sự của những người mà chúng tôi tương tác kỹ thuật số và mọi người cũng có thể tạo ra nhiều diện mạo và danh tính trực tuyến. Có thể không thực sự hiểu bản thân và những người khác một cách toàn diện cũng như vun đắp các mối quan hệ có ý nghĩa. Nó cũng có thể đe dọa cốt lõi của bản thể con người, thể hiện qua ý thức và lương tâm. Cuối cùng, về mặt lý thuyết cứu độ, AI cũng có thể cho chúng ta những nhận thức ý nghĩa khác nhau về cuộc sống và hạnh phúc, cũng như lựa chọn và hành động mà chúng ta cần thực hiện để có được sự an lạc hạnh phúc trong kiếp này hoặc kiếp sau.

 

Ý nghĩa của nhân loại phồn vinh trong thời đại Ai là gì? Trong việc tiếp thu và lưu giữ kiến thức khi các công nghệ giảm bớt gánh nặng của lao động thể chất và tinh thần, cũng như đưa ra các quyết định đạo đức và khó khăn bởi trần tục, vai trò và trách nhiệm của con người là gì?

 

Khi nói đến các chủ đề về tâm trí, giá trị con người và trí thông minh, những kim ngôn khẩu ngọc giáo huấn của Đức Phật có nhiều đóng góp rất quan trọng cho sự hiểu biết về các giá trị, các quy tắc ra quyết định đạo đức, nhận thức về bản thân và thế giới này, và sự tương phản giữa trí thông minh “thực” và “nhân tạo”. Đức Phật có những quan sát rất độc đáo về thế giới hiện tượng này và cách con người tương tác với nó. Sự quan sát độc đáo này có thể cung cấp cho chúng ta những hiểu biết quan trọng để hiểu rõ hơn về nguyên nhân và hậu quả của việc áp dụng công nghệ và hiểu biết độc đáo về tâm trí con người – sự tự mắc bẫy cũng như khả năng giải phóng tiềm năng thực sự của mình. Do đó, những những lời vàng ngọc của Đức Phật giúp mang lại sự hiểu biết sâu sắc về hạnh phúc, từ bi, trí tuệ, hùng lực, tự do, bình đẳng của con người. Thông qua thế giới quan Phật giáo, chúng ta có thể phát triển niềm tự tin, đức tự chủ tốt hơn vào tiềm năng và vị trí độc đáo của trí thông minh con người bằng cách minh họa khả năng lấy lại quyền kiểm soát có chủ ý, ý thức và quan trọng nhất là khả năng lựa chọn. Khi các thiết bị công nghệ được đưa vào ứng dụng trong các thành phố thông minh hơn, trí thông minh của con người phải tiếp tục nâng cấp thay vì bị bào mòn.

 

Tác giả Tiến sĩ Ernest Chi-Hin Ng

Việt dịch Thích Vân Phong

Nguồn Buddhistdoor Global

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
15/01/2025(Xem: 114)
Thiền Tông dạy rằng người nào sống với Vô tâm là giải thoát. Trần Nhân Tông, vị Thiền sư nổi tiếng của Việt Nam trong thế kỷ 13, từng viết rằng khi gặp cảnh, giữ được vô tâm, thì không cần hỏi tới Thiền nữa. Đức Phật trước đó đã dạy pháp Vô tâm trong Kinh Phật Tự Thuyết Ud 1.10. Bài này sẽ viết theo nhiều bản Anh dịch trên Sutta Central. Một đạo sĩ tên là Bahiya cư trú ở thị trấn Supparaka. Bahiya được cư dân tôn kính, cúng dường y phụ, nhà ở và nhiều thứ. Bahiya tự tin rằng đã chứng quả A la hán, hoặc sắp thành A la hán. Một vị cõi trời, kiếp trước từng là người thân của Bahiya, muốn điều tốt lành cho Bahiya, nên hiện ra, nói với Bahiya rằng Bahiya chưa phải là A la hán, và cũng chưa tu đúng con đường để trở thành A la hán.
15/01/2025(Xem: 101)
Trong rất nhiều truyện cổ dân gian Việt Nam, cũng như truyện cổ của nhiều quốc gia khác trên thế giới, có một niềm tin vững chắc rằng mỗi người chúng ta đều có một kiếp sau ở tương lai. Không chỉ riêng với Phật giáo dân gian, hầu hết (và có thể là tất cả) các tôn giáo khác, đều tin rằng có một kiếp sau, hay một đời sau. Chuyện kiếp sau này cần được phân tích minh bạch, để không rơi vào một niềm tin nhầm lẫn.
15/01/2025(Xem: 125)
Bài này sẽ viết trong tinh thần đối chiếu Kinh Pháp Cú với Thiền Tông. Để nói lên một phương pháp của Thiền rằng, trong khi thiền tập, hễ tin Phật hay nghi Phật đều sẽ hỏng, đều rơi vào bất thiện pháp, sẽ không thấy được pháp Vô Vi. Muốn vào đạo Phật, trước tiên phải tin và phải quy y Phật, Pháp, và Tăng. Người tu theo lời Phật dạy phải tin vào Tứ Thánh Đế, tức là Khổ, Tập, Diệt, Đạo. Trong khi tu tập, người tu phải thành tựu tín, giới, văn, thí, huệ mới có thể đoạn trừ bất thiện pháp. Như vậy, người không có lòng tin chắc thật vào Đức Phật sẽ không đi được con đường dài như thế để thành tựu giải thoát.
15/01/2025(Xem: 102)
Bài này sẽ nói về vai trò của người cư sĩ với nhiệm vụ nên học nhiều về Kinh điển, nên hiểu Phật pháp cho thâm sâu, nên tu tinh tấn để làm gương cho người đời thường, và nên sống đơn giản nhằm thích nghi với mọi hoàn cảnh cần để hoằng pháp. Không phải ai cũng có cơ duyên để học nhiều về Kinh điển. May mắn, thời nay chúng ta đã có kinh điển dịch ra tiếng Việt rất nhiều. Các Kinh điển, Bộ Nikaya và Bộ A Hàm đều đã dịch ra tiếng Việt. Trong khi đó, các buổi giảng Kinh do nhiều vị tăng ni thực hiện đã phổ biến nhiều trên YouTube và các trang web về Phật học. Những gì thắc mắc, có thể hỏi trên mạng Google hay các mạng trí tuệ nhân tạo, như ChatGPT hay Gemini, đều có thể được giải thích ở mức độ tổng quát. Tuy nhiên các giải thích này đều khả vấn, có khi là trích dẫn theo sự giải thích của các học giả Ky Tô Giáo hay không phải Phật tử, cần kiểm chứng.
15/01/2025(Xem: 99)
Trong khi học Phật, chúng ta thường đọc thấy ba pháp ấn là vô thường, khổ, và vô ngã. Đôi khi, chúng ta đọc thấy trong kinh nói về bốn pháp ấn là vô thường, khổ, vô ngã và Niết Bàn. Tùy theo dị biệt bộ phái, mỗi vị thầy ưa nói cách này hay cách kia. Thực tế, nói cách nào cũng đúng, cũng phù hợp kinh điển. Trong khi đó, theo cách nhìn của Thiền tông Việt Nam, tất cả các pháp tự thân đã là tịch diệt, bời vì lìa phiền não thì không có bồ đề, lìa sanh tử thì không có Niết bàn. Cũng như sóng không lìa nước, và ảnh không lìa gương. Do vậy, Thiền tông nêu lên ý chỉ là phải nhìn thấy để sống với pháp tánh, với Niết bàn tự tâm.
15/01/2025(Xem: 108)
Trong nhiều kinh, Đức Phật khi giải thích về vô thường đã hỏi rằng có phải mắt và cái được thấy là vô thường hay không, rồi hỏi có phải tai và cái được nghe là vô thường hay không, và rồi vân vân. Như thế, đối với nhiều người tu, quán sát nơi con mắt sẽ là bước đầu để học đạo giải thoát. Tuy nhiên, đối với Thiền Tông Việt Nam, có một số vị thầy dạy rằng hãy nhìn như một người mù nhìn, và hãy nghe như một người điếc nghe. Lời dạy về con đường giải thoát này là như thế nào?
15/01/2025(Xem: 112)
Khi chúng ta nói rằng nhiều người Việt Nam đã học đạo từ khi nằm nôi, chỉ là một hình ảnh cho thấy Phật giáo đã gắn bó với lịch sử dân tộc Việt Nam từ nhiểu ngàn năm. Nhiều lời dạy trong Kinh Phật đã ăn sâu vào trong chính sử, và cả huyền sử của dân tộc Việt.
15/01/2025(Xem: 94)
Khi đọc Thiền sử Trung Hoa và Việt Nam, chúng ta thường gặp một số vị sư truyền dạy, hay trả lời bằng những cách không dùng lời nói. Người ta thường gọi đó là vô ngôn, là không sử dụng ngôn ngữ. Chữ này có lẽ không thích nghi, vì chữ vô ngôn có khi chỉ là sự im lặng, khi không muốn nói. Có lẽ, chữ thích hợp nên là cái biết xa lìa khái niệm không thể mô tả bằng ngôn ngữ được.
19/10/2024(Xem: 729)
Tứ y pháp (四依法; S: Catuḥpratisaraṇa; E: The four reliances) là 4 pháp phương tiện quan trọng theo quan điểm của Phật giáo Bắc truyền, với mục đích giúp hành giả rõ biết pháp nào nên hoặc không nên nương tựa, nhằm thành tựu giác ngộ, giải thoát.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]