Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Sóng nước

31/03/201519:56(Xem: 5373)
Sóng nước

song_bien

 

 

Thành phố Adelaide, tiểu bang South Australia có một dòng sông nhỏ chảy ngang.                                             

Buổi chiều thảnh thơi. Nắng hanh vàng trên lá. Gió đuổi nhau làm xôn xao ngọn cây phong bên bờ. Những con chim nhỏ rộn ràng, riú rít trên cành. Gió lay động mặt hồ tạo nên những gợn sóng nhỏ nhè nhẹ, nhấp nhô, đuổi theo nhau không dứt khiến trong lòng dâng lên cảm giác êm đềm, thanh thản, bình yên.

 

Nhìn mặt nước sông, lòng mơ hồ, mênh mông …

 

Nước là một trong tứ đại: đất, nước, gió, lửa, luôn có mặt để tạo ra sắc pháp. Tánh của nước là ướt (thấp), dụng là thu nhiếp. Nước cho ta cảm giác sạch sẽ, dễ chịu, gội rửa, tươi mát, thấm nhuận.

 

Nước gợi lên ý niệm mênh mông, bao la của đại dương; chan hòa, tưới tẩm của mưa; bao dung, chan chứa của tình mẹ; êm đềm của đêm trăng trên dòng sông quê hương; âm thầm như mạch nước ngầm trong lòng đất; reo vang của con suối giữa rừng; triền miên, bất tuyệt của hải triều biển cả…

 

Nước tùy thuận, khi ẩn khi hiện, vô hình vô tướng: lúc thì nhẹ nhàng, dịu dàng như lưỡi nước đầu nguồn, khi thì dõng mãnh, cuồng nộ như con sóng thần giữa đại dương; ở thì chọn chỗ thấp trũng, đến khi biến hóa thì lại vượt lên trên cao; lúc cạn thì thu vào, hạ xuống; lúc thừa thì dâng lên, trào ra; tùy hoàn cảnh mà khi chảy khi đọng, lúc động lúc tịnh; tùy theo chỗ chứa đựng mà dài, ngắn, vuông, tròn; lại tùy theo thời tiết âm dương có lúc thì loãng, có khi lại đặc; cứng mà không gãy, mềm nhưng có thể khiến cho “tan đá nát vàng”; lúc nhỏ thì như chén trà trong lòng bàn tay, khi lớn thì bao trùm cả sơn hà đại địa, linh hoạt đến vô cùng.

 

Nước tạo ra sự sống cho mọi loài, lợi ích cho vạn vật. Nơi đâu có nước là có sự sinh tồn. Các nhà khoa học đã chẳng cố gắng tìm ra sự có mặt của H2O trên Hỏa tinh để chứng minh cho sự hiện hữu của sự sống là gì.

 

Đức Lão Tử ví rằng: Bậc Thượng thiện giống như nước, lợi ích vạn vật mà không tranh. Nước thường chảy đến chỗ thấp trũng, chỗ ô uế cho nên gần với đạo. (Thủy thiện lợi vạn vật nhi bất tranh, xứ chúng nhân chi sở ố, cố cơ ư đạo. Đạo Đức Kinh, Chương 8).

 

Nước gợi lên ý niệm thanh tịnh của Bát công đức thủy trong ao Thất bảo ở cảnh giới Cực Lạc của đức Phật A Di Đà: trừng tịnh, thanh lãnh, nhuận trạch, cam mỹ, khinh nhuyễn, an hòa, trừ quá hoạn, trưởng dưỡng (lắng sạch, trong mát, nhuần nhuyễn mượt mà, ngon ngọt, nhẹ nhàng, mịn màng, an ổn, hòa hợp, có công năng trừ được đói khát, bệnh tật, phiền não, ô nhiễm và tăng trưởng thiện căn).

 

Ngài Bát-lặc-mật-đế, người mang Kinh Lăng Nghiêm từ Thiên Trúc sang Trung Hoa  truyền bá, có nói rằng: “Nước chảy trên đất bằng vốn chẳng gây tiếng động, nhưng bởi có thác ghềnh cao thấp mà tạo nên âm thanh. Đạo lớn trong pháp giới vốn không lời, nhưng bởi tâm lượng chúng sanh không đồng mà đạo phải thành câu, thành chữ” (Thủy lưu bình địa bổn vô thanh, vị hữu cao đê nhi hữu thanh. Đại đạo vô ngôn chu pháp giới, do tham sân si nhi hữu thanh).

 

Ý niệm và hình ảnh siêu thực của sóng nước bàng bạc trong giáo nghĩa Đại thừa. Trên chuông, mõ, trên kiềng chùy, tràng phang, bảo chúng, trên vành đại cổ, trên miệng hồng chung, trên những bức phù điêu trang nghiêm cổ kính... đều thường có chạm khắc hình ảnh sóng nước (Thủy Ba).

 

Sóng, chỉ cho thế giới hiện tượng. Nước, chỉ cho thế giới bản thể. Sóng và nước, tuy hai mà chẳng phải hai. Chẳng phải hai nhưng là hai. Sóng và nước bản chất chỉ là một nhưng bởi do động hay tịnh mà sinh ra hiện tượng sai khác mà thôi. Cũng vậy, phiền não và bồ đề, tuy một mà chẳng phải một. Chẳng phải một nhưng là một. Phật và chúng sanh vốn đồng một tánh Phật nhưng chỉ vì động hay tịnh mà trở thành chúng sanh hay Phật, nhiễm ô phiền não hay giác ngộ, niết bàn.

 

Hãy nhìn mặt hồ tĩnh lặng như tấm gương, soi thấu mặt trời ban ngày, soi rõ mặt trăng và các vì tinh tú ban đêm, in hình đám mây đang phiêu lưu giang hồ, in dấu bóng cây phong lặng lẽ, soi bóng cành liễu trầm tư, chim muông, hoa lá trong sáng, riêng tư, rành mạch, rõ ràng, không phán xét, không phân biệt, không điều kiện. Nhưng khi có làn gió thổi qua làm mặt hồ gợn những cơn sóng nhẹ nhấp nhô. Tất cả, vâng, tất cả đều vỡ vụn, đều trở nên xáo trộn, mờ mịt, nhạt nhòa. Nào khác chi mặt hồ của tâm, khi vô niệm, vô trụ, vô tu, vô chứng, vô ngã, vô nhân, vô chúng sanh, vô thọ giả, thì soi thấu cả tam thiên đại thiên thế giới, mà hễ lúc ngọn gió lợi, suy, hủy, dự, xưng, cơ, khổ, lạc, gió tạp niệm, gió vọng tưởng điên đảo, gió phiền não thổi tới thì mờ mịt nổi trôi trong ba nẻo sáu đường.

 

Hãy quán tưởng giọt nước cam lộ long lanh trên đầu cành dương liễu:

 

Dương chi tịnh thủy                                  (Cành dương nước tịnh

Biến sái tam thiên                                     Rưới khắp ba ngàn

Tánh không bát đức lợi nhơn thiên             Tánh không tám đức lợi trời người

Pháp giới quảng tăng diên                         Pháp giới rộng thênh thang

Diệt tội tiêu khiên                                     Diệt sạch tai nàn

Hỏa diệm hóa hồng liên.                            Lửa dữ hóa sen vàng).                

 

Hãy hình dung hình ảnh Bồ tát Quán Thế Âm đang đứng trên sóng dữ giữa đại dương vô minh, cuồng nộ:

 

Trí tuệ hoằng thâm đại biện tài                  (Trí tuệ bừng lên đóa biện tài

Đoan cư ba thượng tuyệt trần ai                 Đứng yên trên sóng sạch trần ai

Tường quang thước phá thiên sanh bịnh      Cam lộ chữa lành cơn khổ bịnh

Cam lộ năng tiêu vạn kiếp tai                      Hào quang quét sạch buổi nguy tai

Thúy liễu phất khai kim thế giới                  Liễu biếc phất bày muôn thế giới

Hồng liên dõng xuất ngọc lâu đài                Sen hồng nở hé vạn lâu đài

Ngã kim khể thủ phần hương tán                Cúi đầu ca ngợi dâng hương thỉnh

Nguyện hướng nhân gian ứng hiện lai.         Xin nguyện từ bi ứng hiện ngay).

 

Hãy hình dung giọt sương cam lộ trên đầu nhành dương liễu của Bồ Tát, tùy duyên bất biến để hằng thuận chúng sanh:

 

Thùy dương liễu biến sái cam lồ, trừ nhiệt não dĩ giai đắc thanh lương. Tầm thinh cứu khổ ư tứ sanh, thuyết pháp độ thoát ư lục đạo. Bẩm từ bi kiên cố chi tâm, cụ tự tại đoan nghiêm chi tướng. Hữu cầu giai ứng, vô nguyện bất tùng, cố ngã tri lưu, đoan thừa tịnh quán, thành tụng mật ngôn, gia trì pháp thủy.

 

Thị thủy giả phương viên tùy khí, dinh hư nhậm thời xuân phán đông ngưng, khảm lưu cấn chỉ hạo hạo hồ, diệu nguyên mạc trắc, thao thao hồ linh phái nan cùng. Bích giáng tàng long hàn đàm tẩm nguyệt. Hoặc tại quân vương long bút hạ tán tác ân ba, hoặc cư Bồ Tát liễu chi đầu sái vi cam lồ, nhất đích tài triêm, thập phương câu tịnh. (Tổ Thiên Thai Trí Khải Đại sư)

 

(Cầm nhành dương Ngài rưới nước cam lồ lên tất cả, trừ nhiệt não Ngài làm cho mọi người đều được tắm trong dòng suối thanh lương. Nghe tiếng kêu mà cứu khổ cho tứ sanh, Ngài thuyết pháp độ thoát cho lục đạo. Sẵn tâm niệm từ bi kiên cố, đủ dáng vẻ tự tại trang nghiêm. Không có ai cầu mà chẳng ứng, không có nguyện nào mà không thành, cho nên chúng con an trụ trong tịnh quán chí thành tụng lại mật ngôn và gia trì pháp thủy.

 

Tịnh thủy nầy vuông tròn tùy theo bình chứa đựng, có hay không cũng tùy tiết tùy thời, mùa xuân thì loãng, mùa đông lại đặc, khi chảy khi đọng thật là mênh mang, nguồn sâu khó lường, chảy mãi thao thao, thật là dòng linh khôn tuyệt. Ở trong khe đá nước ngâm bóng loài rồng, lúc dưới ao thu nước tẩm lấy bóng nguyệt. Tịnh thủy nầy hoặc đọng dưới ngòi bút của đấng quân vương để rồi làm tràn ngập sóng ân hoặc nằm trên đầu cành dương liễu của vị giác hữu tình để biến thành cam lồ linh diệu, chỉ cần một giọt rưới lên là mười phương được sạch trong).

 

Hãy quán chiếu công năng của giọt nước cam lộ:

 

Phù thử thủy giả, bát công đức thủy tự thiên chơn, tiên tẩy chúng sanh nghiệp cấu trần, biến nhập Tỳ lô Hoa tạng giới, cá trung vô xứ bất siêu luân. Thủy bất tẩy thủy diệu cực pháp thân. Trần bất nhiễm trần phản tác tự kỷ. Quyên trừ cấu uế, đản địch đàn tràng. Sái, khô mộc nhi tác đương xuân, khiết uế ban nhi thành Tịnh độ. Sở vị nội ngoại trung gian vô trược uế, thánh phàm u hiển tổng thanh lương.

 

(Luận nước nầy là nước đầy đủ tám công đức xuất phát từ tánh thiên chơn, trước tẩy sạch trần lao nghiệp chướng, đưa chúng sanh vào cảnh giới Tỳ Lô Hoa tạng, khiến cho dù đang ở trong bất cứ cảnh giới nào cũng được siêu thoát khỏi luân hồi sinh tử. Nước chẳng rữa nước cùng cực pháp thân, bụi không dính bụi, chủ tể là mình. Có năng lực quét sạch cấu uế trong ngoài đàn tràng. Khi rưới lên, cây khô bật đâm chồi nẩy lộc như đang mùa xuân, khiến cho thế giới đang khổ đau, uế nhiễm trở thành một thế giới đầy an lạc. Khắp mọi nơi chốn đều trở nên thanh tịnh, thánh nhân hay phàm phu, có mặt hay đã khuất đều được tự tại, giải thoát).

 

Bồ Tát liễu đầu cam lồ thủy                        (Đầu nhành dương liễu vương cam lộ

Năng linh nhất đích biến thập phương        Một giọt mười phương rưới cũng đầy

Tinh chuyên cấu uế tận quyên trừ               Bao nhiêu trần lụy tiêu tan hết

Linh thử đàn tràng tất thanh tịnh .             Đàn  tràng thanh tịnh ở ngay đây).

 

Nhìn mặt nước sông, lòng mơ hồ, mênh mông, mênh mông…      

 

(Ghi chú: Những bài kệ trên đây được trích từ Từ Bi Đạo Tràng Sám Pháp và nội dung hai thời công phu).

 

 


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
06/09/2010(Xem: 7768)
Văn Tế Thiên Thái Trí Giả Tác giả Đại Sư Tuân Thức Việt dịch: Từ Hoa Nhất Tuệ Tâm *** 1. Nhất tâm đảnh lễ Thiên Thai Trí Giả trong núi Đại Tô tu Tam Muội Pháp Hoa Tâm tâm tịnh thường lại qua pháp giới Như mặt nhật trên không chẳng trụ không Ba ngàn thật tướng tức khắc viên thông Tám vạn trần lao đều đồng chân tịnh. Xưa hội kiến Linh Sơn còn hoài niệm Nay toàn thân bảo tháp thấy rõ ràng Nếu chẳng cùng sư Nam Nhạc tương phùng Ai biết được tướng thâm sâu thiền định?
01/09/2010(Xem: 2683)
Vườn hoa Phật Giáo mênh mông, với nhiều sắc thái thành muôn màu rực rỡ. Mỗi đóa hoa đều có sắc có hương, để thành vẻ đẹp đặc thù của Phật Giáo. Chúng ta thấy đại dương rào rạt bao la không bờ bến, nhưng giọt nước nào cũng mang vị mặn của muối. Chánh Pháp của Đức Như Lai vô lượng vô biên, nhưng pháp nào cũng đều mang hương vị của giải thoát.Mỗi Vị Tôn Đức hoằng pháp đều có một phong cách riêng, có những tư tưởng nhận định riêng. Vị nào còn trẻ khoẻ thì thích đi hoằng pháp các nơi.
28/08/2010(Xem: 2354)
Du Hôn (truyện ngắn của Nhật Hưng)
27/08/2010(Xem: 2741)
Tuy không phải là bạn thân nhưng tôi quen biết anh ấy từ lâu, thời còn ở trung tiểu học. Anh ấy thuộc một gia đình khá giả, bố mất sớm, thông minh học giỏi. Ra trường, làm việc cho một công ty lớn, được cấp nhà ở, và ai cũng có thể thấy ngay anh là một người thành đạt, có một tương lai xán lạn và là niềm hãnh diện cho gia đình. Nhưng…những chữ nhưng thường làm dang dở cuộc đời. Có nhiều chuyện thật oái oăm và không thể lường trước được có thể xảy ra làm thay đổi một cuộc đời. Và những chuyện không ngờ đó một hôm đã xảy ra, đã đưa anh vào cảnh tù tội một cách oan ức.
17/08/2010(Xem: 12027)
Lâu nay tôi thường cùng các thi văn hữu trao đổi với nhau những bài thơ, câu đối như là một thú vui tao nhã. Về thơ thì tôi vừa mới tập hợp thành tác phẩm Mưa Hè (nhà xuất bản Hồng Đức - quý hạ 2013). Riêng về câu đối, với tính chất riêng của nó, tôi tập hợp thành tập Thiền Lâm Ứng Đối hợp tuyển này, bao gồm một số câu đối trước đây đã được in và phát hành dưới dạng “Lưu hành nội bộ”, và một số câu đối đã được làm trong thời gian sau này. Những câu đối trong tập cũ in lại có hiệu đính, phần nhiều ở câu dịch nghĩa. Đa số những câu đối có nhân duyên từ các chùa trong tỉnh, ngoại tỉnh và một số chùa ở nước ngoài nhờ làm để trang trí. có câu còn ghi chú rõ, có câu tôi không còn nhớ làm cho chùa nào, ở đâu. Kính xin chư Tôn đức cùng quí chùa hoan hỉ.
10/08/2010(Xem: 5098)
Diễn văn của luật sư Georges Graham Vest tại một phiên tòa xử vụ kiện người hàng xóm làm chết con chó của thân chủ, được phóng viên William Saller của The New York Times bình chọn là hay nhất trong tất cả các bài diễn văn, lời tựa trên thế giới trong khoảng 100 năm qua.
16/07/2010(Xem: 12513)
Vừa qua, được đọc mấy bài thơ chữ Hán của thầy Tuệ Sĩ đăng trên tờ Khánh Anh ở Paris (10.1996) với lời giới thiệu của Huỳnh kim Quang, lòng tôi rất xúc động. Nghĩ đến thầy, nghĩ đến một tài năng của đất nước, một niềm tự hào của trí tuệ Việt Nam, một nhà Phật học uyên bác đang bị đầy đọa một cách phi pháp trong cảnh lao tù kể từ ngày 25.3.1984, lòng tôi trào dậy nỗi bất bình đối với những kẻ đang tay vứt "viên ngọc quý" của nước nhà (xin phép mượn từ này trong lời nhận xét của học giả Đào duy Anh, sau khi ông đã tiếp xúc với thầy tại Nha trang hồi năm 1976: "Thầy là viên ngọc quý của Phật giáo và của Việt Nam ") để chà đạp xuống bùn đen... Đọc đi đọc lại, tôi càng cảm thấy rõ thi tài của một nhà thơ hiếm thấy thời nay và đặc biệt là cảm nhận sâu sắc tâm đại từ, đại bi cao thượng, rộng lớn của một tăng sĩ với phong độ an nhiên tự tại, ung dung bất chấp cảnh lao tù khắc nghiệt... Đạo vị và thiền vị cô đọng trong thơ của thầy kết tinh lại thành những hòn ngọc báu của thơ ca.
08/07/2010(Xem: 3549)
Ngày Về Nguồn được tổ chức lần đầu tiên vào năm 2007 tại chùa Pháp Vân, Canada đã khiến nhiều người bàn tán xôn xao. Họ xôn xao có lẽ một phần bỡ ngỡ trước danh từ Về Nguồn, vì một số không được cái may mắn có nguồn để về. Họ không cảm thấy rung động khi nghe câu ca dao: Cây có gốc mới xanh cành tươi ngọn Nước có nguồn mới biển cả sông sâu
28/06/2010(Xem: 25263)
Ba môn vô lậu học Giới Định Tuệ là con đường duy nhất đưa đến Niết bàn an lạc. Muốn đến Niết-bàn an lạc mà không theo con đường này thì chỉ loanh quanh trong vòng luân hồi ba cõi. Nhân Giới sinh Định, nhân Định phát Tuệ– ba môn học liên kết chặt chẽ vào nhau, nhờ vậy mới đủ sức diệt trừ tham ái, đẩy lùi vô minh, mở ra chân trời Giác ngộ. Nhưng Giới học mênh mông, Định học mêng mông, Tuệ học mênh mông; nếu không nắm được “Cương yếu” thì khó bề hiểu biết chu đáo, đúng đắn. Không hiểu biết đúng đắn thì không sinh tâm tịnh tín; không có tâm tịnh tín thì sẽ không có tịnh hạnh, như vậy, con đường giải thoát bị bế tắc. Như một người học hoài mà vẫn không hiểu, tu hoàí mà vẫn không cảm nhận được chút lợi ích an lạc nào.
28/06/2010(Xem: 18967)
Bản dịch Việt Bích Nham lục được thực hiện với một tấm lòng tôn kính, cảm phục tài đức của giáo sư Wilhelm Gundert (12. 4. 1880-3. 8. 1971). Vì W. Gundert đã giới thiệu tường tận về tác phẩm độc nhất vô nhị này nên dịch giả người Việt hạn chế tối đa những lời dư thừa, chỉ đề cập đến nguyên tắc dịch, một vài nét đặc biệt cũng như kĩ thuật được áp dụng trong bản dịch Việt:
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567