Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

"Nhớ Về Thầy Mãi Mãi Khắc Ghi" (Kính tưởng niệm Sư bà Khánh Long)

24/03/202407:29(Xem: 517)
"Nhớ Về Thầy Mãi Mãi Khắc Ghi" (Kính tưởng niệm Sư bà Khánh Long)

su ba khanh long
su ba khanh long- (2)su ba khanh long- (3)
"Nhớ Về Thầy Mãi Mãi Khắc Ghi"

(Kính tưởng niệm Sư bà Khánh Long)

1/ Từ năm 1990 thầy bổn sư (thầy thế phát xuất gia Hoà Thượng Thượng TRÍ hạ YÊN) dẫn chúng con vào Chùa Khánh Long Q4 TPHCM đê đầu y chỉ cầu pháp nơi Thầy (Ni Trưởng Thượng Tâm Hạ Hoa) để nương đức thầy ni tu học.

5 huynh đệ chúng con gồm: chị Tâm Như, Tâm Tuyền, Tâm Thành, Tâm Nguyện và con được gửi bên chùa Khánh Long, còn chị Chúc Diệu, Chúc Tánh gửi sang bên chùa Bồ Đề.

Kể từ đó, Thầy đã che chở dạy dỗ dắt dìu cho chúng con.
Lúc đó con được thầy nhờ cô Hạnh Minh có quen cô giáo dạy trường Khánh Hội giúp hồ sơ chuyển trường từ Ayunpa lên TP để cho con nhập học từ lớp 8 vào lớp 9.

Hằng ngày với cái chóp cỏn con và chiếc xe đạp cùn đi học từ chùa Khánh Long đến trường Khánh Hội A đường Nguyễn Thần Hiến. Chiều đi học về, bỏ cặp táp sách vở vào phòng rồi bạch thầy:”con đi ra chợ hoá duyên”.
Đó là công việc của con mỗi ngày đều ra chợ hoá duyên xin rau củ quả về cho cả đại chúng sinh hoạt.
Cứ mỗi chiều từ 5:00-6:00 là con hay chở cả xe đạp chất chồng lên rồi đẩy bộ về.
Chợ Xóm Chiếu, chợ Cầu Cống và rẽ vào hẻm 132/29 là về đến chùa.
Ngày nào cũng như ngày nào đều là công việc của con.

Lúc đó con còn để 1 chóp trên đầu, nên đi học hay ra ngoài đường thậm chí quý Phật tử thường xuyên về chùa dự khóa lễ tịnh độ, ai ai cũng đều xoa rờ tóc 1 chõm của con.

Nên ra chợ các cô chú bác anh chị ai ai cũng đều thương và họ cúng rất nhiều rau mang về.
Con chỉ nói: “cô ơi hôm nay có gì cúng chùa không cô”? Thế là có những cô bán cà chua, dưa leo, xà lách vvv họ bán thứ gì là cúng thứ ấy để con nhận chở về.

Thậm chí có những trái cà chua dập nát, hoặc bắp cải hư vẫn phải nhận. Vì nếu mình từ chối lần khác họ sẽ không cho nữa.
Do đó con chở về, thầy cùng quý chị em xuống bếp phụ cắt gọt phần nào ăn được thì để lại, phần nào hư thối thì vứt phân loại liền chứ không e ngại để qua hôm sau sẽ úng thối nhiều hơn.

Thầy rất tiết kiệm và bòn phước. Lúc nào cũng ân cần chỉ bảo cho chúng con và huynh đệ trong chùa: “ Con ơi! mình là người tu, từ chiếc áo đến mạng sống đều nhờ sự cúng dường của đàn na tín thí nên tuyệt đối không được sử dụng phí phạm”.
Cứ mỗi lần dùng cơm xong thầy tự mang chén và đôi đũa, chiếc muỗng của thầy đem đi rửa.
Thầy tự giặt đồ của thầy, thầy không cho bất kì huynh đệ nào giặt cả.
Sáng đánh răng xúc miệng thầy dùng chiếc ly bằng Inox thời pháp thuộc mà thầy vẫn còn sử dụng. Chỉ đúng 2 lần ly nước thế thôi.
Với chú điệu còn chõm đi học phổ thông cấp 2 nên mỗi lần họp chúng, thầy đều đặc cách cho con chỉ đi hoá duyên đem rau củ quả về cho đại chúng sinh hoạt.

2/ Con vẫn còn nhớ, lúc thầy trò còn ở chùa cũ, mỗi khi mưa đến, thầy trò thay phiên nhau thau xô đi hứng những nơi bị mưa dột.
Mỗi khi mưa bão, nước từ các ống cống dội lên, nước từ những nhà hàng xóm ngập vào thầy trò phải đi lấy gáo múc bưng đổ, lấy cây lau đẩy nước ra ngoài.

Ngày xưa địa lí quận 4 gần bến cảng nhà rồng, giữa các phường có những con kênh, con sông áo hồ khá nhiều. Do đó hễ mưa xuống lúc nào cũng bị ngập lụt.

1 năm sau con thi chuyển cấp và lúc đó chùa cũ tháo gỡ để xây dựng đưa chánh điện lên lầu để khỏi bị mưa dột. Thầy, sư chú Tâm Quả, cô Hiền, cô Thuần, chị Hiệp …. và các chị em trong chùa đi xin Xà bần (mảnh gạch men vỡ) đẩy xe ba gác về đổ nền cho cao để khỏi bị ngập lụt.
Ngày đó các chị em trong chùa vui lắm bạch thầy. Xoắn áo xoắn quần đeo găng tay trộn hồ (ximăng), đẩy xe cát xe đá xe xi măng từ tuốt ngoài đường Nguyễn Tất Thành đẩy vào sâu hẻm của chùa để các chú thợ có vật liệu xây dựng.

Vì chùa không có kinh phí nên hầu như việc nặng việc nhẹ đều ni chúng trong chùa bỏ công sức để làm.
Nào là se nhang, nào là làm đồ chay bán, nào là làm bánh trung thu, tết đến xuân về làm bánh in bánh oản, bánh tét, bánh chưng, chả chay vvvv quý Phật tử mua ủng hộ cho chùa khá nhiều. Đến độ chưa đến 27 Tết nhà chùa đã phân phối hết hàng Tết do chính bàn tay ni chúng trong chùa dồn tâm làm.
Địa lí Q4 nền đất rất yếu nên phải đóng cọc xà cừ khá nhiều. Chùa Khánh long thuộc chùa cổ có có đài cửu long bằng đồng đen và có 9 pho tượng đưa lên lầu 2 và cũng đem hôm đó ăn trộm vào đánh cắp 9 pho bằng đồng đen.
Từ đó thầy lên lầu 2 phòng khách ngủ vừa canh công trình.

Mỗi tối con thường được thị giả hầu thầy nên lên lầu 2 ngủ sát bên để thị giả. Lúc đó con phải thức khuya ôn bài để thi chuyển cấp. Con vừa học bài vừa ngủ say sưa nên đèn dầu ngã ra hồi nào không hay biết và cháy phực mùng ngủ của con, rồi cháy lớn mạnh qua bên mùng sát bên mà thầy đang ngủ.
Chùa có hộ pháp. Lúc đó hơn 1:30 khuya, chú Trúc cháu ruột của thầy, chú đi vệ sinh đêm, chú thấy đám cháy lớn quá và chú dập tắt liền lúc đó.
Con thì rất lo cho thầy và cái y của thầy vắt lên kệ ghế salon, còn thầy thì lo cho con và nói chóp của con có sao không.
Tình thầy rộng lớn đại dương.

Thầy lúc nào cũng ân cần dạy bảo cho chúng con. Mỗi tối sau thời khoá tịnh độ thầy hướng dẫn chúng con lên lầu 3 sân thượng có Quan Âm Cát, thầy sướng lễ 12 danh hiệu Quan Âm và trì danh hiệu ngài đến 30 phút, sau đó mới xuống phòng nghỉ ngơi.

3/ Cuối cùng con cũng đậu vào trường PTTH Nguyễn Trãi đường Nguyễn Tất Thành nối dài gần sau chùa Khánh Long. Các bạn bè trong trường đi học về và ghé nhà cô Giáo NHUNG dạy toán học kèm thêm môn toán, nhà cô Nhung cách chùa 7 căn nhà nên bạn bè mỗi khi học kèm xong đều ghé chùa lạy Phật xuống bếp ăn cơm, thầy còn cho nhiều trái cây và dưa leo củ xắn, cóc xoài ổi... cho bạn bè lớp con lên sân thượng giao lưu.
Trong lớp còn có cô bạn Chúc Hiếu cũng là ni chúng chùa Bồ Đề nên thầy rất an tâm khi có người tu sỹ cùng học chung.

Con đậu Đại Học vào năm 1996 lúc đó thầy rất tự hào về con về những gì mà cố gắng nỗ lực. Thầy cho con đi học đến nơi đến chốn, và còn cho con cơ hội đi học trường Đại Học, rồi tháng 10/2000 đi du học Nhật Bản nữa.

Công việc xuyên suốt từ năm 1990-2000 tròn 10 năm con đi hoá duyên xin thức ăn về phục vụ ni chúng. Nên đi riết các mối ngoài chợ của cô bác anh chị em buôn bán đều nhớ mặt con và biết con tu ở chùa nào luôn.

Với những lễ lớn, con và vài chị em ra chợ cầu Muối, chợ Bến Thành để đi hoá duyên nhiều cho đủ nấu cúng rằm và đãi cho Phật tử.



su ba khanh long- (7)su ba khanh long- (10)su ba khanh long- (11)
su ba khanh long- (4)su ba khanh long- (5)


su ba khanh long- (6)su ba khanh long- (9)

4/ Thầy đứng ra đỡ đầu cho chúng con thọ giới Sadi, Thức xoa Ma ni, rồi đến thọ giới tỳ kheo.

Năm 1998 thầy vừa làm tam sư thất chứng trong Giới Trường và thầy vừa làm giám khảo trong trường thi đại giới đàn. Năm đó con được đậu top đầu bảng và nhận phần thưởng bộ Phật học Phổ Thông, thầy rất hoan hỷ. Và hoan hỷ nhất nữa là thầy xin ban tổ chức kiến đàn cho con được đảnh lễ Hoà Thượng Yoshimizu Daichi ngài quang lâm thăm hỏi và sách tấn hộ trợ cho giới đàn.
Con được cầu pháp đảnh lễ HT cũng đều nhờ ơn đức kết nối của Thầy hết bạch thầy.

Từ những năm đó HT thường xuyên quang lâm về chùa Khánh Long, và HT rất tán thán công hạnh của thầy nên HT mời thầy và cô Hiền sang NB du lịch xem mùa xuân anh đào Nhật Bản.

Tại Chùa Nisshin Kutsu thầy giảng pháp cho các em sinh viên và khuyến tấn học Phật. Lúc đó có em Sang, Em Hằng, Em Hoa, Em Kiều Anh vvvv
Thầy rất nghiêm minh và oai hạnh trong sự tu học. Hằng năm Q4 tổ chức sự kiện của GH, thầy và ni chúng đều tích cực tham gia. Đặt biệt 3 tháng an cư kiết hạ tại chùa Kim Liên thầy đều cùng với quý Ni Trưởng trong Quận nghiêm trì giới luật, tụng giới hàng tháng và thầy cũng là chứng minh tối cao bên ni giới trong quận trong GH.

Giỗ tổ Chùa Thiên Ấn Quảng Ngãi, thầy tổ chức hàng hàng lớp lớp Phật tử về nơi chốn tổ để chiêm bái.
Có sự kiện gì thầy cũng cho chúng con đi Đảnh lễ sư bác Hạnh Ngộ, sư bác Hạnh Trân, sư bác Hạnh Giải, sư bác Hạnh Trình vvvv
Thầy cũng thường xuyên tổ chức đi cứu trợ đồng bào khó khăn miền trung Tịnh Sơn, Sơn Tịnh Quảng Ngãi là quê hương của thầy, nơi thầy sinh ra và lớn lên. Mãnh đất dù khó khăn do thiên tai lụ lụt, hạn hán nóng oai, nhưng chính mãnh đất linh kiệt này đã có thầy hiện hữu đất thân cõi ta bà này để hoằng hoá độ sinh.

Thầy độ rất nhiều đệ tử và ni chúng.

Tuy con nhập chúng tu học nhưng thầy không hề phân biệt đâu là đệ tử đâu là chúng, thầy đều có tâm bình đẳng như nhau. Thầy dạy chúng con:” vận tâm bình đẳng pháp lực vô biên” nhé con, và con phải có “bình đẳng tánh trí” “hoà bình yêu thương” thì con đi đâu làm gì ắt sẽ thành công.
Thầy còn dạy thêm cho chúng con: “cuộc đời này ngắn ngủi và vô thường lắm, nên mình phải tranh thủ tu, phải ráng tu nghe con”.
Thầy còn dạy:” học đạo không thông lý đời sau trả nợ tín thí đó con”.
Lời thầy dạy vẫn còn văng vẳng đâu đây bên tai của con thầy ơi.

5/ Đã 24 năm trôi qua cho tha hương cầu thực, du học và hành đạo nơi xứ người, thầy lúc nào cũng dõi theo từng phật sự của con.
Mỗi lần con về VN ghé chùa thăm thầy, sư chú và quý cô ai ai cũng rất hoà quyện và ôm chầm con. Con nhận được biết bao tình thương mà thầy dành cho và nếu không có thầy thì đời con không có ngày hôm nay.
Hôm nay dù xa xôi hơn 1/4 trái đất, chúng con huynh đệ chị em phủ phục dưới kim quan của
Thầy và xin đê đầu đảnh lễ pháp thân thầy, nhớ về Thầy ngàn đời không quên.

Con biết làm sao bộc bạch hết nỗi lòng thương tiếc đối với Thầy, nỗi đau buồn trước cảnh phân ly. Con đã đôi lúc dự cảm mơ hồ một ngày bất hạnh. Vậy mà khi nghe tin Thầy đã mãn duyên về cõi Phật con vẫn thất hụt hẫn bơ vơ như cánh én lạc loài giữa tháng xuân tàn. Thầy đã đi vào cõi Niết bàn Tịch diệt nhưng đức độ và công hạnh của Thầy vẫn tỏa ngát Ưu Đàm. Duyên hóa độ đã mãn trong pháp giới vô biên.

"Khánh Long khuất bóng Ân Sư
Âm thanh vang vọng nỗi đau mất Thầy
Thầy là dòng nước thanh lương
Nghiêm trì Phật điển hoằng dương pháp mầu
Thầy đi về cõi Tây phương
Môn đồ, Pháp quyến hoa hương lệ thầm!
Con đây ngấn lệ ngậm ngùi
Nguyện làm hiếu tử thệ lời sắc son."
"Dưỡng dục Ân sâu chưa đáp đền
Mà nay thầy cưỡi hạc về Tây
Đệ tử ngậm ngùi trong tiếc nuối
Cầu nơi Cực Lạc Thầy An Nhiên".


Ni Chúng chùa Khánh Long
TKN Thích Tâm Trí
Kính Bái Biệt Thầy.







Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
21/08/2010(Xem: 8530)
Tại một ngôi chùa Việt ở Bangkok (Thái Lan), nhục thân của Hòa thượng Thích Phổ Sái vẫn còn nguyên vẹn hình hài sau hơn 50 năm kể từ khi ngài viên tịch. Tọa lạc tại khu Yaowarat (khu phố Tàu) ở Bangkok, ngôi chùa mang tên rất Việt Nam là Khánh Vân có một lịch sử lâu đời do các Hòa thượng người Việt thành lập. Đây là một trong những ngôi chùa Việt thuộc hệ Annamnikaya hay còn gọi là An Nam Tông ở Bangkok. Chính tại chùa Khánh Vân này, nhục thân của Hòa thượng Thích Phổ Sái (pháp danh Giác Lượng), một nhà tu hành gốc Việt, được lưu giữ và thờ cúng.
18/07/2010(Xem: 6480)
Kính bạch Sư Tổ! Chúng con đang tập tiếp xúc với Người qua hình ảnh một bậc thầy già chốn núi rừng Dương Xuân. Một túp liều tranh, một bà mẹ già và với ba người đệ tử. Đó là khoảng thời gian hạnh phúc nhất của Sư Tổ. Người có thời gian chăm sóc mẹ già và trao truyền những hoa trái tu học cho những người học trò yêu quý. Xuất thân từ làng Trung Kiên – một vùng đất Phật giáo ở Quảng Trị, Sư Tổ đã đến chùa Thiên Thọ (Báo Quốc) núi Hàm Long – Huế, để xuất gia học đạo với Thiền sư Phổ Tịnh, lúc đó Người chỉ mới lên bảy tuổi. Đến năm 30 tuổi, nhận thấy nơi Sư Tổ có chí khí của một bậc Xuất trần nên Sư Tổ được Bổn sư phú pháp truyền đăng với bài kệ: Nhất Định chiếu quang minh Hư không nguyệt mãn viên Tổ tổ truyền phú chúc Đạo Minh kế Tánh Thiên.
04/07/2010(Xem: 9552)
-Người đi tiên phong và nỗ lực không mệt mỏi cho sự nghiệp phát triển trí tuệ, từ bi và hòa bình- -Nhà lãnh đạo toàn cầu trong phong trào vì hòa bình, nhân quyền và sức khỏe cộng đồng-
14/06/2010(Xem: 4523)
Hòa Thượng Thích Bích Nguyên là một trong những bậc cao Tăng thạc đức của Phật giáo Lâm Đồng. Ngài họ Nguyễn, húy là Tùng, sinh năm 1898 tại làng Duy Hòa, xã Triệu Hòa, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị. Thuở nhỏ, bẩm chất thông minh, đĩnh ngộ. Thời tráng niên, lập nghiệp ở Lào, Hòa Thượng nhân đọc báo Từ Bi Âm mà ngộ đạo, thấy rõ cuộc đời vô thường, nuôi chí xuất gia. Đến năm 29 tuổi (1927), Hòa Thượng mới có đủ nhân duyên đầu sư thọ giáo với Hòa Thượng PHƯỚC HUỆ, Trú trì chùa Hải Đức, Huế và đắc giới Sa di năm 1934. Năm 1936, ngài thọ Cụ túc giới với pháp hiệu BÍCH NGUYÊN, rồi theo học ở các lớp Phật học tại các Phật học viện Hải Đức, Bảo Quốc và Ấn Quang.
15/05/2010(Xem: 4382)
Thiền sư Khánh Hòa sinh năm 1877 tại làng Phú Lễ tỉnh bến Tre, xuất gia năm 19 tuổi tại chùa Khải Tường. Chí nguyện chấn hưng Phật giáo của ông phát sinh vào khoảng năm ông được bốn mươi tuổi. Ông du hành khắp các tổ đình và Nam Kỳ để gây ý thức chấn hưng và kêu gọi sự hợp tác của các bậc tôn túc.
19/03/2010(Xem: 6394)
Một cặp kính trắng với sợi dây vòng ra sau cổ, năm ba con khỉ nhảy tung tăng trên vai, trên đầu, tóc tai rối rắm, áo quần cái dài, cái ngắn, kiểu đàn ông, đàn bà, đầy màu sắc sặc sỡ …đây là dáng người anh Bùi Giáng chúng ta thường gặp trên những nẽo đường Sài Gòn năm 1975 … Sau năm 1975 , anh Bùi Giáng về ở chung với chúng tôi trong nội xá viện Đại học Vạn Hạnh cũ (222 Trương Minh Giảng, nay là Lê Văn Sĩ). Vào thời điểm này, Đại học Vạn Hạnh không còn hoạt động, nên nội xá chỉ còn một số ít người ở lại với Hòa thượng Viện trưởng Thích Minh Châu. Chúng tôi quản lý chung, chú Chơn Thuần đi chợ và thị giả cho Hòa thượng Viện trưởng, anh Trần Châu phụ trách an ninh, anh Bùi Giáng thì nhận nhiệm vụ đi mua lương thực.
10/03/2010(Xem: 5212)
Bản thân tôi (Tín Nghĩa), rất ít có dịp thân cận với Ôn Già Lam. Điều dễ hiểu, vì tôi không xuất thân từ Phật Học Viện. Vả lại, mỗi lần Ôn về Huế (Bảo Quốc), thường vào dịp đầu xuân, thì đa phần Ôn hay đàm luận Phật sự với quý Ôn lớn như Ôn Linh Mụ, Ôn Trúc Lâm, Ôn Linh Quang, Ôn Từ Đàm và Ôn Bảo Quốc, . . . Đầu năm, Ôn thường hay nghe Đại luật (tức là dạy luật Tứ phần) cho hai chúng Tỳ kheo và Tỳ kheo ni, thì tôi đạp xe ra học rồi về lại chùa. Vả lại, bổn phận của tôi ở chúng Trúc Lâm cũng tương đối bề bộn. Tuy thế, chính tôi lại có với Ôn ba kỷ niệm khó quên.
10/03/2010(Xem: 7690)
Bây giờ là những ngày cuối năm âm lịch. Thiên hạ cùng viết về Xuân, Tết. Tôi muốn viết về Ôn Già Lam và Tu viện Quảng Hương Già Lam. Ôn Già Lam là cách gọi tôn kính của những môn đệ và phật-tử hướng về Đại lão Hòa thượng Thích Trí Thủ, vị viện chủ sáng lập tu viện. Trong tu viện, tăng chúng khi nói về ngài thì chỉ dùng chữ “Ôn” một cách gần gũi. Còn tu viện Quảng Hương Già Lam thì vẫn thường được gọi với cái tên thật ngắn: chùa Già Lam.
10/03/2010(Xem: 6078)
Ôn Già Lam, chỉ ba tiếng ấy thôi cũng đủ làm ấm lòng bao lớp Tăng sinh của các Phật Học Viện: Báo Quốc - Huế, Phổ Đà - Đà Nẵng, Hải Đức - Nha Trang, Già Lam - Sài Gòn. Ba tiếng nói ấy như trái tim của Mẹ ấp ủ đàn con qua suốt quãng đời dãi dầu mưa nắng. Ôn Già Lam, người đã hy sinh suốt đời mình để phụng sự cho Phật pháp, đào tạo Tăng tài qua nhiều thế hệ. Ôn đã khai phóng tinh thần thế học cho Tăng sinh các Phật Học Viện.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567