Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Công Án Là Gì?

16/08/201006:45(Xem: 6041)
Công Án Là Gì?

HỎI:
Tôi là một thiền sinh gặp rất nhiều khó khăn khi tìm hiểucông án. Vậy xin quý Báo cho biết công án là gì và có cáchnào giúp dễ dàng tiếp cận tìm hiểu công án không? (TRẦNVĂN HIỂU, Cần Thơ)

ĐÁP:

Mục đích của tu Tổ Sư Thiền làlàm ngưng lại dòng tâm ý thức (thườnglưu) trôi chảy liên tục trong tâm con người từ thời vô thuỷ. Chư Tổ Sư dùngcơ xảo để làm cho đương cơ bật ngược lại, vượt qua bức màn vô minh từ thời vôthủy, vượt qua luôn bờ bên kia của vô thủy vô minh, hoàn toàn giác ngộ,như vàng đã tôi luyện, loại bỏ hết tạp chất.

Bản thể chântâm của chúng ta vốn thanh tịnh, nhưng vì môt niệm bất giác, tức nhất niệm vôminh sinh khởi, nên sinh ra ý thức phân biệt, gây thành có ta, có cái không phảita, sinh ra đối đãi, từ đó dòng tâm ý thức tham sân si dấy lên, ngày càng dầyđặc, càng trôi lăn trong vòng sinh tử luân hồi tạo nghiệp trả quả, vay trảkhông ngừng. Nay muốn trở về cội nguồn thì phải dừng được dòng tâm ýthức. Nghĩa là dừng lại những tạo tác của ý thức thường nghiệm, luồng tưtưởng, những ý niệm và nhận thức.

Thoạt kỳ thủy,chưa có công án, mà chỉ là cơ xảo của chư Tổ, tùy theo theo căn cơ của ngườiđối diện mà tháo gỡ vướng mắc đã khiến họ kẹt cứng, không hội nhập lại bản thểđược, thí dụ như Lục Tổ hỏi thượng tọa Huệ Minh:

- Không nghĩthiện, không nghĩ ác, cái gì là bản lai diện mục của thượng tọa Minh?

Nghe câu đó,thượng tọa Minh ngơ ngác, trong một sát na dòng tâm ý thức bị khựng lại, bảnthể hiển lộ lập tức. Những thí dụ như trong một ngàn bảy trăm công án đều lànhững câu vấn đáp của chư Tổ, chính là để đương cơ "khựng ngaydòng ý thức lại". Mỗi vị đều có những câu khác nhau, tùy theo nhận xétcủa thầy mà đưa câu hỏi cho trò.

Người sau thấynhững câu hỏi đáp đó đã giúp khai ngộ cho đệ tử, bèn thu thập lại, rồi đề racho người tới xin tu, cho họ một câu, gọi là "một tắc côngán", để họ tự hỏi hoài, thành ra một nỗi thắc mắc nhân tạo, coi nhưdụng cụ để giúp người tu thiền có thể ngưng đọng tâm tư, tạo được khối nghi,chờ một ngày kia có trợ duyên, khối nghi bùng vỡ, là Ngộ.

Càng về sau,tâm tư con người càng phức tạp, biện luận càng nhiều. Người tu dùng công án đểtạo thắc mắc, nghi tình thì ít, đem công án ra để bình giải thì nhiều, công ánnhà Thiền biến thành công cụ để bình luận văn thơ, đã không giúp cho dòng ýthức ngưng, còn khai triển ra đủ loại tư tưởng đối nghịch, biến thành trò chơichữ nghĩa. Trong trường hợp đó, công án không còn phục vụ sứ mạng tạo nghitình, lại lấp bít con đường đi tới giác ngộ chân chính. (BBT)

Như vậy:

(1) “công án Thiền không phải là mộtđối tượng nhận thức, vì cứu cánh của chúng vượt lên trên ngôn ngữ chấptrước của tri thức, đó là một cảnh giới mà kinh Bát Nhã gọi là" VÔ SỞĐẮC," kinh Kim Cương gọi là"VÔ SỞ TRỤ," kinh Lăng Già gọilà"CẢNH GIỚI CỦA THÁNH TRÍ TỰ CHỨNG." (Xem thêm: CÔNG ÁN THIỀNVÀ VẤN ĐỀ NHẬN THỨC - Thích Đức Thắng)

(2) “Công án thiềncũng là ngôn ngữ, là hành động nhưng chúng ta không thể hiểu nó bằngtư duy, phân biệt hay suy lường, mà chỉ có thể thâm nhập nó, "biết"nó bằng trực giác. Thế nên những công án Thiền không phải là đối tượng đểcho chúng ta có thể tiếp cận hay hiểu nó bằng cảm quan, tình thức, bằng họcvấn, suy tư hoặc có thể mổ xẻ, lý giải bằng ngôn ngữ, văn tự theo cáchhiểu thông thường.Nghĩa là những Thiền ngữ này, tức phương tiện khai thịcủa các Thiền-sư hoàn toàn chẳng giống như những bài toán, những luận đề hay lànhững lý thuyết khoa học mà con người có thể biện biệt, phân tích, luận bànđúng sai phải trái, để rồi dẫn đến một kết luận tương đối hay cho ra một đáp ánkhả dĩ số đông chấp nhận được. Bản chất và công năng của Công án Thiền hoàntoàn không phải như thế…” (Xem thêm:ĐÔI NÉT VỀ THIỀN CÔNGÁN - Nhuận-Bảo)

(3) “…Sau khi lược sơ 200 trang của chương “Tu Tập Công Án: Phương TiệnChứng Ngộ”, trong Essays in Zen Buddhism”của soạn giả DaisetzTeitaro Suzuki, mà dịch giả Trúc Thiên và thượng tọa Tuệ Sỹ dịch là ThiềnLuậnchúng ta đã thấy rõ rằng: 1 – Tác giả Suzuki chủ trương “không thể dùng tâm‎ý‎ thức, suy tư tìm hiểu, kiến giải, để khán Công Án, Thọai Đầu”. 2 – Đề lênrất cao tầm quan trọng của “nghi tình” trong khán Công Án. 3 – Ông không dạy“giải công án”. (Xem thêm: QUAN ĐIỂM CỦA DAISETZ SUZUKI VỀ CÔNG ÁN - Hà Minh Triết)

“..Để thay lời kết luận, chúng tôi (Thượngtọa Thích Đức Thắng) tha thiết yêu cầu mọi người trong chúngta, hãy vì sự nghiệp giải thoát của mọi người, mà ngưng đi những việc làm taihại đó (gỉai công án), vì chúng không có lợi, mà ngược lại sẽ có hại cho chínhngày hôm nay và ngay cả mai sau; bỡi vì chúng sanh trong thời kỳ mạt pháp tìnhtrạng căn cơ của họ nghiêng nặng về lý trí phân biệt. Cho nên đối với nhữngngười học Đạo, họ chỉ biết đắm mình vào thế giới ngôn ngữ văn tự, để rồi bịchúng đánh lừa trở thành nô lệ, và tự thõa mãn cho đó là cứu cánh, đáng lý rachúng chỉ là phương tiện bị vượt qua, nên đức Phật Thích Ca đã từng tiên liệutrong kinh Lăng Già ngài đã phủ nhận: "Bốn mươi chín năm ta chưa hề nóilời nào." Thế mà cái hậu quả ấy vẫn xảy ra, càng ngày càng thêm tệ hạikhông phương cứu chữa! Chúng ta nên quay nhìn lại xem cái kiến thức, mà chúngta đã nổ lực thâu lượm nhờ vào ngôn ngữ văn tự, tư duy học hỏi đó, có phải là cáibảnlai diện mụcxưa nay của chúng ta hay không? Hay đó chỉ là cáiquái thai củavọng thức điên đảo phân biệt? Vậy thì cái bộ mặt thậtxưa nay của chúng ta nó ở đâu? Hãy cẩn thận! Đừng tự đánh lừa mình! Đừng đánhlừa mọi ngườí! Hãy tự thực hành theo những lời dạy của đức Phật, cho dù chỉ làmột chữ hay một câu đi chăng nữa, nếu chúng ta thực hành thấu đáo vượt qua khỏichúng, thì đó là một việc làm lợi ích, chứ không phải học hỏi so sánh đối chiếuthiên kinh vạn quyển qua ngôn ngữ này ngôn ngữ nọ, để hiểu biết những lời dạycủa đức Phật, rồi đem ra bàn luận mổ xẻ phân biệt chúng đúng sai chi li quasách vở hay lời nói, rốt cuộc tham vẫn còn tham, sân vẫn còn sân, và si vẫn cònsi. Đó không phải là mục đích tối hậu của những lời dạy đức Phật, mà mục đíchtối hậu của đức Phật là thực hành giải thoát tất cả mọi trói buộc củatham-sân-si ngay trong cuộc sống này, chứ không phải học để biết tham sân si.Như thế chúng ta học để làm gì cho phí công vô ích, trong khi chúng không canhệ gì đến vấn đề giải thoát tham-sân-si!? ." (Xem thêm: CÔNG ÁN THIỀNVÀ VẤN ĐỀ NHẬN THỨC - Thích Đức Thắng)

BBT

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
09/09/2019(Xem: 5624)
Narayan Helen Liebenson, Geshe Tenzin Wangyal Rinpoche và Blanche Hartman chia xẻ lời khuyên của họ về việc làm sao để ứng phó với các giai đoạn trầm cảm.Narayan Helen Liebenson là nữ giáo sư hướng dẫn tại Trung Tâm Thiền Cambridge Insight Meditation Center. Geshe Tenzin Wangyal Rinpoche là người nắm giữ truyền thừa của truyền thống Bön Dzogchen tradition của Tây Tạng. Ông là tác giả của cuốn sách “Spontaneous Creativity: Meditations for Manifesting Your Positive Qualities” [Sự Sáng Tạo Tự Phát: Thiền Để Thể Hiện Phẩm Chất Tích Cực Của Bạn] (xuất bản năm 2018).Zenkei Blanche Hartman (1926-2016) là Pháp Sư Cao Cấp và là phụ nữ đầu tiên Trú Trì Trung Tâm Thiền San Francisco.
24/08/2019(Xem: 8979)
Niết bàn là khái niệm thể hiện triết lý độc đáo về giải thoát của Phật giáo. Đây là một trạng thái tâm linh hoàn toàn thanh thản, giải thoát khỏi mọi đau khổ của cuộc đời. Trạng thái này có thể đạt được khi còn đang sống (Hữu dư Niết bàn) hoặc khi đã chết (Vô dư Niết bàn). Phật giáo Tiểu thừa hướng tới Vô dư Niết bàn - một Niết bàn tịch diệt, cô đơn, từ bỏ mọi thú vui trần thế. Phật giáo Đại thừa lại hướng tới Hữu dư Niết bàn - một Niết bàn nhân bản, nhập thế và hoạt động cùng những buồn vui nhân thế. Quan niệm này đã mang lại một sức hấp dẫn, sức sống mới cho Phật giáo, đặc biệt là trong xã hội hiện đại.
21/08/2019(Xem: 4965)
Trước hết chúng ta hãy tìm hiểu xem độc tố này là gì. Xao lãng là xu hướng của tâm thức nhảy hết chuyện này sang chuyện khác. Đó là trường hợp của những người có một tâm thức tương tự như con cào cào hay con bướm, không sao có thể dừng lại với bất cứ một thứ gì, dù chỉ trong một khoảnh khắc. Câu thơ nổi tiếng của T.S. Eliot (Thomas Stearns Eliot, 1888-1965, thi hào người Anh gốc Mỹ, đoạt giải Nobel văn chương năm 1948) : « xao lãng bởi sự xao lãng của sự xao lãng » có thể nói lên điều đó. Câu thơ này nêu lên một cách ngắn gọn cuộc sống ngày nay trong xã hội : đó là một quá trình liên tục – hết ngày này đến tuần khác – của sự « xao lãng bởi sự xao lãng của sự xao lãng ». Liều thuốc hóa giải sự xao lãng trong hoàn cảnh đó – ít nhất là đối với lãnh vực tâm thần – là sự chú tâm vào hơi thở. Một sự tập trung thật mạnh hướng vào quá trình hô hấp của mình là một phương pháp rất hiệu nghiệm, có thể hóa giải được tất cả mọi hình thức xao lãng.
09/08/2019(Xem: 4519)
‘Khổ và sự diệt khổ’ là trọng tâm của lời đức Phật dạy, được diễn đạt qua Kinh Chuyển Pháp Luân.[2] ‘Idaṁ dukkhaṁ ariyasaccaṁ’ pariññeyyan-ti ‘Chính sự thật về khổ’, cần được con người am hiểu, rõ biết tường tận.[3] Nhận định này có thể tư duythông qua bài kinh ‘Ví Dụ Tấm Vải’[4] như sau: Ví như tấm vải bị hoen ố, vấy bẩn và người thợ nhuộm đã cố gắng làm đẹptấm vải bằng cách nhúng nó vào thuốc nhuộm loại tốt này hay loại tốt khác, nhưng kết quả cho ra không được như ý. Bởi vì thực chất của tấm vải là dơ bẩn, không sạch, uế nhiễm.
06/08/2019(Xem: 3658)
Trong toán học, muốn giải một bài toán cơ bản luôn cần có một mẫu số chung, đó là con số quan trọng cần thiết để đưa đến kết quả chính xác cho bài toán. Ngoài ra vì tính khoa học, những con số còn giúp cho mọi việc được mạch lạc, rõ ràng thứ lớp hơn mà chính Đức Thế Tôn của chúng ta cách đây 2600 năm cũng đã sử dụng nó để nói đến trong toàn bộ những bài giảng của Ngài. Khi giảng nói về các loại tâm vô hình, trừu tượng khó nhớ Đức Phật đã dùng những con số cụ thể trong Vi diệu pháp (Duy thức học). Chính nhờ vậy việc tìm hiểu về các loại Tâm vương, Tâm sở đầy phức tạp đã được Ngài hướng dẫn, phân loại rõ ràng cho từng loại tâm khác nhau. Tuy nhiên đây chỉ là những học thuyết sâu rộng của triết lý Phật giáo dành cho lãnh vực nghiên cứu.
02/08/2019(Xem: 4024)
Vào sáng Chủ Nhật 14 tháng 7 2019, tại hội trường báo Người Việt (Westminster, Little Saigon) đã có một cuộc hội thảo với chủ đề tìm cách đem sự thực tập chánh niệm tỉnh thức đến với giới thanh thiếu niên gốc Việt tại Quận Cam.
02/08/2019(Xem: 3919)
"Lý tưởng nhất là các lớp học không có cảm giác sợ hãi và căng thẳng làm việc dạy và học trở nên nặng nề. Lý tưởng nhất là giáo viên tạo dựng được nề nếp học trong không khí êm ả và chú tâm của lớp học. Tuy nhiên, không khí trong các lớp học công lập của Hoa Kỳ thường xuyên không được như vậy,…" Đó là lời phát biểu của Tiến Sĩ Bạch Xuân Phẻ khi anh thuyết trình về lợi ích của việc thực tập hơi thở trong tỉnh thức ở học đường. Phương pháp này giúp con người trị được nhiều căn bệnh về tâm lý và đối đầu được những cảm giác hồi hộp, căng thẳng, sợ sệt, bất an, trầm cảm, thường xảy ra cho các học sinh và cả trong giới giáo chức.
20/07/2019(Xem: 6149)
Các bộ kinh Nikāya ghi nhận tầm quan trọng của thiềnna (jhana) trong cấu trúc của con đường hành trì trong Phật giáo. Trong bài kinh Sa-môn quả (Sāmaññaphala Sutta, DN 2), Tiểu kinh Dụ Dấu Chân Voi (Cūḷahatthipadopama Sutta, MN 27) và nhiều bài kinh khác về sự tu tập tiệm tiến (anupubbasikkhā) của một tu sĩ Phật giáo, Đức Phật luôn đề cập đến thiền-na để minh họa cho việc tu tập tâm định. Khi vị tỳ-khưu hoàn tất tu tập về căn bản giới đức, vị ấy tìm nơi thanh vắng, sống độc cư và thanh lọc tâm, loại trừ “năm triền cái”. Khi tâm vị ấy được thanh lọc, vị ấy nhập và an trú vào bốn tầng thiềnna, được mô tả rất nhiều trong kinh tạng Nikāya qua một công thức kiểu mẫu:
03/07/2019(Xem: 3729)
Bài này sẽ viết về Thiền, phần lớn sẽ ghi về một số lời dạy của Đức Phật trong thiền pháp Thiền Tông, còn gọi là Thiền Đông Độ, hay Thiền Đạt Ma, hay Thiền Tổ Sư, và riêng tại Việt Nam còn gọi là Thiền Trúc Lâm. Chủ yếu nơi đây dựa vào kinh điển, và người viết không phải là tiếng nói thẩm quyền nào. Tất cả những gì viết nơi đây đều rất dễ hiểu; độc giả có thể ngưng ở bất kỳ dòng nào để thử nghiệm tự nhìn lại tâm. Với các bất toàn tất nhiên sẽ có, xin thành kính sám hối trước Tam Bảo.
01/07/2019(Xem: 3856)
Tâm là chủ thể tiếp nhận các đối tượng từ bên ngoài lẫn bên trong. Khi đang ngủ say, thì tâm được cho là trống rỗng, hay nói cách khác, đó là trạng thái vô thức ( bhavaïga, tiềm thức, tâm hộ kiếp). Chúng ta luôn kinh qua một trạng thái tiêu cực như vậy khi tâm mình phản ứng lại các đối tượng bên ngoài. Dòng chảy vô thức (bhavaïga) này bị gián đoạn khi các đối tượng thâm nhập vào tâm. Kế đó, tâm vô thức (bhavaṅga) rung động trong một chóc lát ý tưởng và biến mất.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567