Tiếng Việt
English
Tiếng Việt
Các bài viết (251)
Đôi nét về tác giả
Danh sách tác giả
HT. Thích Thanh Từ
Mới nhất
A-Z
Z-A
7. Thiền sư Định Không (730 - 808) (Đời thứ 8, dòng Tỳ-ni-đa-lưu-chi)
16/06/2021
09:24
Sư họ Nguyễn quê ở làng Cổ Pháp, con nhà danh giá, lại thâm hiểu về thế số. Những hành động của Sư đều hợp pháp tắc, người trong làng quí kính gọi là Trưởng lão. Lúc tuổi đã lớn, Sư đến pháp hội Long Tuyền Nam Dương nghe pháp, liền lãnh hội ý chỉ. Nhân đây Sư phát tâm xuất gia theo Phật. Đời Đường khoảng niên hiệu Trinh Nguyên (785-804), Sư lập ngôi chùa Quỳnh Lâm tại quê nhà. Khi đào đất đắp nền chùa gặp được một quả hương đề và mười cái khánh. Sư sai đem xuống nước rửa, một cái khánh lăn đến tận đáy ao mới dừng. Sư giải rằng: - Chữ thập, chữ khẩu hợp thành chữ cổ. Chữ thủy, chữ khứ hợp thành chữ pháp. Thổ là chính chỗ chúng ta ở, tức chỉ đất này.
6. Thiền sư Thanh Biện (? - 686) (Đời thứ 4, dòng Tỳ-ni-đa-lưu-chi)
16/06/2021
09:22
Sư họ Đỗ quê ở Cổ Giao, năm mười hai tuổi theo ngài Pháp Đăng ở chùa Phổ Quang tu học. Khi ngài Pháp Đăng sắp thị tịch, Sư hỏi: - Sau khi Hòa thượng đi, con nương tựa vào đâu? Pháp Đăng bảo: - Con chỉ Sùng Nghiệp mà thôi. Sư mờ mịt không hiểu. Pháp Đăng tịch rồi, Sư chuyên trì kinh Kim Cang lấy đó làm sự nghiệp. Một hôm có Thiền khách đến viếng, thấy Sư trì kinh, bèn hỏi: - Kinh này là mẹ chư Phật trong ba đời, thế nào là ý nghĩa mẹ Phật? Sư thưa: - Từ trước đến nay trì kinh mà chưa hiểu ý kinh. Thiền khách hỏi: - Ông trì kinh đến giờ đã được bao lâu?
5. Thiền Sư Pháp Hiền
16/06/2021
09:10
Sư họ Đỗ quê ở Chu Diên (Sơn Tây), thân hình to lớn cao đến bảy thước ba tấc (2m30). Khi mới xuất gia, Sư theo Đại sư Quán Duyên ở chùa Pháp Vân thọ giới. Đến lúc Tổ Tỳ-ni-đa-lưu-chi sang Việt Nam vào chùa Pháp Vân gặp Sư, Tổ nhìn kỹ vào mặt hỏi: - Ngươi họ gì? Sư đáp: - Hòa thượng họ gì? - Ngươi không có họ sao? - Họ thì chẳng không, Hòa thượng làm sao biết được? - Biết để làm gì? Sư bỗng nhiên tự tỉnh, liền sụp xuống lạy. Tổ Tỳ-ni-đa-lưu-chi ấn chứng, từ đây về sau Sư luôn luôn theo hầu Tổ. Sau khi Tổ tịch, Sư vào núi Từ Sơn tu thiền định, thân như cây gỗ, vật ngã đều quên. Các loài cầm thú thường quấn quít chung quanh Sư. Người đời thấy thế càng thêm kính mộ, đệ tử tìm đến học đạo càng ngày càng đông. Nhân đó, Sư mới lập chùa nhận đồ đệ ở tu, số học chúng hằng ngày trên ba trăm vị. Thiền tông phương Nam từ đây được thạnh hành.
4. Thiền Sư Tỳ Ni Đa Lưu Chi
12/06/2021
11:23
Theo Thiền Uyển Tập Anh, “Thiền sư Tỳ Ni Đa Lưu Chi là dòng dõi Bà La Môn, gốc ở Nam Thiên Trúc, vân du qua Trung Hoa; vào năm Nhâm Ngọ (562) niên hiệu Đại Kiến thứ sáu nhà Trần thì đến Trường An. Vào năm 574 khi Phật giáo bị Võ Đế đàn áp, ông đi về đất Nghiệp (Hồ Nam). Hồi đó, tổ thứ ba của Thiền tông Trung Hoa là Tăng Xán đang tị nạn ở đây, ẩn tại núi Tư Không. Khi Tỳ Ni Đa Lưu Chi gặp tổ Tăng Xán, thấy phong độ phi phàm, liền chắp tay ba lần, tổ vẫn ngồi yên không nói năng gì. Trong lúc đứng chờ suy tư, tâm bỗng mở ra như có chỗ sở đắc, ông liền lạy xuống ba lạy. Tổ cũng chỉ gật đầu ba cái mà thôi. Ông lùi ba bước, thưa rằng: Đệ tử từ trước tới nay chưa có cơ hội, xin hòa thượng từ bi cho đệ tử được theo hầu bên tả hữu. Tổ nói: Ông mau mau đi về phương Nam mà tiếp xúc với thiên hạ, không nên ở lâu tại đây. Ông liền từ biệt tổ đi về phương Nam, ở lại chùa Chế Chỉ ở Quảng Châu. Đây là vào khoảng niên hiệu Đại Đế thứ sáu. Ông dịch được một số kinh như Tượng Đầu và Báo Nghiệp Sai Biệt.
2. Thiền Sư Thích Đạo Thiền
09/06/2021
07:39
Thích Đạo Thiền(1) người Giao Chỉ, sớm xuất gia lập hạnh tinh nghiêm, giới luật trong sạch, chẳng kém các bậc cao đức. Dân chúng tăng tục đều kính quí đức khắc kỷ và sự dốc chí tu hành của Sư. Chùa núi Tiên Châu xưa bị nhiều cọp quấy nhiễu, Sư đến ở đó nạn ấy liền hết. Nghe Cánh Lăng Vương nhà Tề rộng mở Thiền luật, lập nhiều chỗ giảng dạy, người xa gần rong ruổi kéo đến Kim Lăng. Họ là những người tài đức bốn phương trong đạo. Sư giảng dạy kinh điển rất thông, ban đêm ít ngủ tham khảo kinh sách cố tìm chân lý. Đến năm Vĩnh Minh thứ nhất (483), Sư dạo đến kinh đô ở chùa Vân Cư Hạ tại Chung Sơn. Sư vâng lệnh Vua điều khiển Tăng chúng, nổi tiếng vì rộng dùng luật Thập Tụng...
3. Thiền Sư Thích Huệ Thắng
09/06/2021
07:32
Thích Huệ Thắng (1) là người Giao Chỉ, ở chùa núi Tiên Châu, lánh ngụ rừng đầm, thong dong ngoại vật, tụng kinh Pháp Hoa, ngày đến một biến, mỗi năm càng sâu. Sư ăn mặc đơn sơ, tùy thân vui dùng, theo Thiền sư nước ngoài là Đạt-ma-đề-bà (Dharmadeva) học pháp quán hạnh. Mỗi lần Sư nhập định đến ngày mai mới xuất định. Lưu Tích ở Bành Thành khi làm Thái thú ở Nam Hải, nghe đạo phong của Sư, lúc về nước thỉnh Sư cùng đi. Khi về tới Bành Thành, Sư cư trú tại chùa U Thê. Sư giữ kín chỗ kỳ đặc, thường tỏ ra ngu ngốc. Nhưng người ở lâu với Sư rất kính trọng, những học giả về Thiền rất khâm phục. Ở chùa U Thê, Sư không đòi phần ăn, chỉ sống bằng khất thực, hoàn toàn tuân theo sự thanh liêm.
1. Thiền Sư Khương Tăng Hội
05/06/2021
16:52
Đức Phật Thích Ca truyền Pháp ở Ấn Độ cổ cách đây 2500 năm, sau đó các tăng nhân Ấn Độ đi khắp châu Á mang theo ánh sáng của Phật Pháp đến khai sáng văn hóa, văn minh cho người dân, đưa chúng sinh đến với cửa từ bi và trí huệ. Vào đầu thế kỷ thứ nhất, Việt Nam là châu Giao Chỉ thuộc đô hộ của nhà Hán. Nhà Hán giành được thiên hạ trên yên ngựa, Hán Cao Tổ ban đầu không thích Nho giáo, nhưng sau đó hiểu được đạo lý ‘giành thiên hạ dễ, trị thiên hạ khó’ nên đã sử dụng các Nho sỹ để quản lý thiên hạ. Nho giáo và Đạo giáo được chú trọng phát triển. Sau đó Nho giáo và Đạo giáo được du nhập sang Giao Chỉ. Giao Chỉ là vùng đất giao thoa giữa hai nền văn minh cổ. Ngay từ thế kỷ thứ nhất trước công nguyên, các tu sỹ, thương nhân Ấn Độ đã đặt chân đến Giao Chỉ và truyền bá Phật giáo. Đến thế kỷ thứ 2, 3 sau công nguyên, Giao Chỉ đã là trung tâm Phật giáo sầm uất, và thiền sư Khương Tăng Hội ra đời ở chính thời điểm đó
02. Thiền Viện Vô Ưu, San Martin
07/01/2021
07:02
Thiền viện Vô Ưu tọa lạc tại số 1300 Church Avenue, thành phố San Martin, tiểu bang California đã long trọng tổ chức lễ kỷ niệm 16 năm thành lập vào hai ngày 10 và 11 tháng 11 năm 2018. Thiền viện Vô Ưu do Trưởng lão Hòa thượng Thích Thanh Từ, Hội trưởng Hội Thiền tông Việt Nam tại Hải ngoại sáng lập vào ngày 13 tháng 11 năm 2002. Ni sư Thích Nữ Đồng Kính trụ trì, hướng dẫn Phật tử lối tu thiền dung hợp pháp tu qua ba vị: Nhị Tổ Huệ Khả, Lục Tổ Huệ Năng và Sơ Tổ Trúc Lâm Trần Nhân Tông. Tên Vô Ưu vừa chỉ một loại hoa quý nơi đức Phật Đản sanh, vừa mang nghĩa là không ưu phiền. Thiền viện mang nét đẹp nhẹ nhàng, thanh thoát; là nơi chiêm bái, tu học, sinh hoạt đều đặn của đông đảo chư Ni, Phật tử; thực hành đường lối tu thiền “biết có chân tâm” có nhiều kết quả, thân tâm an lạc, cuộc sống vui hòa, gia đình hạnh phúc.
34. Thiền Sư Vĩnh Gia Huyền Giác (665-713)
27/11/2020
16:59
34/ Thiền Sư Vĩnh Gia Huyền Giác (665-713) Thượng Tọa Thích Nguyên Tạng giảng từ 6.45am, Thứ Năm, 08/10/2020 (22/08/Canh Tý) 🌺🍀💐🌼🌹🥀🌷🌸🏵️🌻🌺🍀💐🌼🌹🥀🌷🌸🏵️ Tùng tha báng, nhậm tha phi Bả hỏa thiêu thiên đồ tự bì Ngã văn kháp tự ẩm cam lộ Tiêu dung đốn nhập bất tư nghì (Chứng Đao Ca của Thiền Sư Huyền Giác) “ Tốt và xấu nhà nhà đều có Thị với phi, chốn chốn "hưởng" đồng nhau Mặc tâng khen, mặc phỉ báng, đừng nao Họ tự bỏng bằng ngọn lửa đốt trời trong tay ho * Lời phỉ báng, nghe như ru, như gió thoảng Ngọt như cam lồ, mát tợ xuân phong Tìm đâu ra ! Bực bội với u sầu ? Nó tan biến trong cảnh giới "bất tư nghì" giải thoát” (do Hòa Thượng Thích Từ Thông dịch) 🌺🍀💐🌼🌹🥀🌷🌸🏵️🌻🌺🍀💐🌼🌹🥀🌷🌸🏵️ Múi giờ : pháp thoại mỗi ngày của TT Trụ Trì Thích Nguyên Tạng (trong thời gian cách ly vì đại dịch Covid-19) về chư vị Tổ Sư Ấn Độ, Trung Hoa, Việt Nam…) - 06: 45am (giờ Melbourne, Australia) - 01:45pm (giờ Cali, USA) - 03:45pm (giờ Mon
Khuyên đời vào đạo
03/08/2020
19:15
Chúng ta chuẩn bị kết thúc một năm cũ, bước sang năm mới, tôi dẫn bài kệ “Khuyến thế tiến đạo” của Tuệ Trung Thượng Sĩ, để nhắc nhở tất cả Tăng Ni Phật tử cố gắng thức tỉnh tu hành: Tứ tự tuần hoàn xuân phục thu, Xâm xâm dĩ lão thiếu niên đầu, Vinh hoa khẳng cố nhất trường mộng, Tuế nguyệt không hoài vạn hộc sầu. Khổ thú luân hồi như chuyển cốc, Ái hà xuất một đẳng phù âu, Phùng trường diệc bất mô lai tỷ, Vô hạn lương duyên chỉ mạ hưu.
Quay lại