Tiếng Việt
English
Tiếng Việt
Các bài viết (347)
Đôi nét về tác giả
Danh sách tác giả
Dr. Hoang Phong
Mới nhất
A-Z
Z-A
Câu 40 đến 77
09/08/2021
17:46
Các lời "trích dẫn" (quotation, citation) thường bị hiểu lầm với các câu "châm ngôn" (maxim), "tục ngữ" (proverb), "ngạn ngữ" (saying) hay "cách ngôn" (aphorism). "Châm ngôn" là các câu ngắn gọn nêu lên một quan điểm đạo đức nào đó; "tục ngữ" cũng khá gần với châm ngôn, nhưng thường mang tính cách phổ cập và đại chúng hơn; "ngạn ngữ" là các câu nói xưa, nêu lên một sự thật hiển nhiên trong cuộc sống hay một sự tin tưởng mang tính cách đại chúng; "cách ngôn" là những câu thật ngắn với mục đích khuyến dạy đạo lý thường tình. Tất cả các các thể loại này, từ châm ngôn, tục ngữ, ngạn ngữ đến cách ngôn, đều không có tác giả, cũng không được trích dẫn từ một tư liệu nào cả, mà chỉ là những câu được truyền tụng rộng rãi trong dân gian.
Câu 78 đến 157
09/08/2021
17:34
Đây là bài thứ 4 và cũng là bài sau cùng trích dẫn một số câu liên quan đến giáo lý của Đức Phật. Bài 4 này gồm tất cả 80 câu được chọn lọc từ một bài gồm 265 câu trên một trang mạng tiếng Pháp : https://www.evolution-101.com/citations-de-bouddha/. Các câu này chủ yếu được rút tỉa từ kinh Dhammapada (Kinh Pháp Cú) và các kinh trong phẩm thứ tư của Tam Tạng Kinh là Anguttara Nikaya (Tăng chi hay Tăng nhất bộ kinh). Người chuyển ngữ cố gắng truy tìm nguồn gốc chính xác của các câu trích dẫn từ kinh Dhammapada, thế nhưng đối với các câu trích dẫn từ các kinh khác trong Anguttara Nikaya thì việc truy tìm rất khó, bởi vì trong Anguttara Nikaya có đến hơn chín ngàn bài kinh. Dầu sao các câu trích dẫn thường không bắt buộc phải ghi chú chính xác nguồn gốc. Ngoài ra độc giả cũng có thể xem thêm các câu trích dẫn bằng tiếng Anh, chẳng hạn như trên trang mạng Wikiquote : https://en.wikiquote.org/wiki/Gautama_Buddha.
Câu 26 đến 39
09/08/2021
17:30
Mười bốn câu trích dẫn lời của Đức Phật dưới đây được chọn trong số 34 câu đã được đăng tải trên trang mạng của báo Le Monde, một tổ hợp báo chí uy tín và lâu đời của nước Pháp. Một số câu được trích nguyên văn từ các bài kinh, trong trường hợp này nguồn gốc của các câu trích dẫn đó sẽ được ghi chú rõ ràng, trái lại các câu đã được rút gọn, chỉ giữ lại ý chính, sẽ không có chú thích về nguồn gốc.
Câu 1 đến 25
09/08/2021
17:28
Các lời trích dẫn giáo lý của Đức Phật cùng các danh nhân khác thường thấy trên mạng, báo chí và tạp chí đủ loại tại các nước Tây phương. Dường như trong cuộc sống dồn dập tại các nơi này, một số người đôi khi cũng thích đọc một vài câu ngắn gọn nhưng sâu sắc, giúp mình suy nghĩ về xã hội, con người và sự sống nói chung.
Các Câu Trích Dẫn Giáo Lý Của Đức Phật
09/08/2021
17:27
Các lời trích dẫn giáo lý của Đức Phật cùng các danh nhân khác thường thấy trên mạng, báo chí và tạp chí đủ loại tại các nước Tây phương. Dường như trong cuộc sống dồn dập tại các nơi này, một số người đôi khi cũng thích đọc một vài câu ngắn gọn nhưng sâu sắc, giúp mình suy nghĩ về xã hội, con người và sự sống nói chung.
Bài 43: Prajña hay năm thể dạng trí tuệ
29/07/2021
22:15
Sự suy tư về shunyata (sự trống không) là cách phát huy trí tuệ tốt nhất nhằm mang lại một sự thăng tiến tuần tự với các cấp bậc thâm nhập (penetration / quán thấy, thấu triệt) ngày càng cao hơn về hiện thực. Tuy nhiên cũng vẫn còn một phương pháp tu tập khác có thể mang lại cùng một sự thăng tiến như vậy về các thể dạng và chiều sâu của trí tuệ, đó là cách nhờ vào năm jñana tức là năm thể dạng hiểu biết gọi là năm hình thức trí tuệ.
Bài 42: Prajña paramita hay sự hiểu biết siêu việt về hiện thực
16/06/2021
19:31
Dù đã phát động các cố gắng như trên đây (trong việc luyện tập thiền định) thế nhưng chúng ta vẫn không phát huy được các cấp bậc dhyana thật cao, thì qua một vài cảm nhận nào đó về dhyana mà mình đã thực hiện được, chúng ta cũng có thể phát huy prajña (prajña là tiếng Phạn, tiếng Pali là paññā, có nghĩa là Trí tuệ), là thể dạng paramita thứ sau (paramîta dịch âm là ba-la-mật-đa trong các kinh sách Hán ngữ, Chữ này có nghĩa là sự Hoàn hảo hay Toàn thiện, nghĩa từ chương là "vượt sang bờ bên kia"), và cũng là thể dạng paramita cao nhất. Hậu ngữ jña trong chữ prajña có nghĩa là sự hiểu biết và tiền ngữ pra thì đơn giản chỉ có nghĩa là sâu sắc (intense), do đó có thể hiểu chữ prajña / trí tuệ là một sự hiểu biết vượt bực (extreme / tối thượng), một sự hiểu biết siêu việt, điều đó cũng có nghĩa là sự hiểu biết về hiện thực, về shunyata (sự trống không, còn gọi là Tánh không trong kinh sách Hán ngữ).
Bài 41: Các cửa ngõ mở vào sự giải thoát
04/06/2021
20:02
Người ta có thể phân biệt samadhi siêu nhiên (samadhi là tiếng Pali và tiếng Phạn, kinh sách tiếng Hán gọi là "định", là các phép tập trung tâm thức thật cao, tạo ra cho người hành thiền các thể dạng tâm thần vượt bực gọi là dhyana, kinh sách Hán ngữ gọi là "thiền") theo nhiều thể loại tùy thuộc vào các khía cạnh khác nhau của hiện thực mà người hành thiền hướng vào đó trong khi suy nghiệm (suy tư). Trong số các samadhi đó có ba thứ chủ yếu và tiêu biểu nhất được xếp vào một danh sách chung mang tên là "các cửa ngõ mở vào sự giải thoát", tiếng Pali và tiếng Phạn là "vimocaka mukha" (vimocaka có nghĩa là "sự giải thoát", mukha là "cửa ngõ" và cũng có nghĩa là "mở vào" hay "đưa vào". Ba samadhi hay ba cửa ngõ này sẽ được nhà sư Sangharakshita lần lượt giải thích dưới đây).
Bài 40: Bốn Dhyana Phi Hình Tướng
18/05/2021
19:38
Bốn dhyana trong thế giới arupaloka (tiền ngữ "a" nói lên một sự phủ nhận, rupa có nghĩa là hình tướng, loka là cõi, lãnh vực hay thế giới, tóm lại có thể hiểu chữ arupaloka là thế giới phi hình tướng, xin nhắc lại thế giới hình tướng / rupaloka đã được nói đến trong bài 39) là các dhyana (các thể dạng thiền định) thuộc vào cõi phi hình tướng. Rất ít những người hành thiền đạt được các thể dạng cảm nhận này (hầu hết những người hành thiền chỉ đạt được cấp bậc cảm nhận trong thế giới hình tướng, có nghĩa là những gì cụ thể liên quan đến con người của mình, chẳng hạn như sự tập trung tâm thần, niềm phúc hạnh hay sự thanh thản / upeksa.
Bài 39: Dhyana Thứ Hai
12/05/2021
14:32
Trong dhyana thứ hai, sự sinh hoạt duy lý của tâm thức (discursive mental activity) tan biến. Đó là một thể dạng [tâm thần] mà người ta không suy nghĩ gì nữa cả. Nhiều người cho rằng tình trạng đó quả đáng kinh sợ, tương tự như không còn một tư duy nào nữa, không còn hiện hữu nữa. Dầu sao cũng nên hiểu rằng người ta có thể hoàn toàn giữ được sự tỉnh giác, chú tâm và ý thức, thế nhưng hoàn toàn không có một sự sinh hoạt tâm thần duy lý nào cả. Trong dhyana thứ hai, toàn thể tri thức ở vào một cấp bậc thật cao, giúp chúng ta trở nên linh hoạt (bright, brisk / vif / bén nhạy , sinh động) hơn nhiều so với những lúc bình thường, nhất là sáng suốt, tinh khiết và rạng ngời hơn. Các luồng năng lực tâm lý và vật lý h theo đó cũng trở nên cô đọng và hợp nhất hơn, nhờ đó các cảm giác dễ chịu (pleasant feeling) trên cả hai phương diện vật lý (thân thể) và tâm thần sẽ bền vững hơn. .
Quay lại