Tiếng Việt
English
Tiếng Việt
Các bài viết (347)
Đôi nét về tác giả
Danh sách tác giả
Dr. Hoang Phong
Mới nhất
A-Z
Z-A
Bài 38: Dhyana paramita hay sự hoàn hảo của thiền định
17/04/2021
12:19
Người ta thường dịch chữ dhyana [sang các tiếng Tây phương] là meditation (tiếng Việt là "thiền" hay thiền-na, tiếng Hán là Chan, tiếng Nhật là Zen, v.v.) cách dịch này khá phù hợp với mục đích của nó là một sự luyện tập, thế nhưng đối với từ này cũng như rất nhiều các từ khác [trong giáo lý Phật giáo] thì không thể tìm được các từ tương đương trong các ngôn ngữ Tây phương. Trên căn bản, dhyana gồm có hai thứ (hai khía cạnh): trước hết dhyana là các thể dạng tri thức vượt xa hơn và cao hơn các thể dạng tâm thức bình thường, sau đó cũng có thể hiểu dhyana là một phương pháp luyện tập thiền định nhằm mang lại sự cảm nhận về các thể dạng tri thức ở các cấp bậc cao siêu. Tôi sẽ tập trung việc giải thích vào ba trong số các cấp bậc này: trước hết là bốn dhyana thuộc thế giới hình tướng, tiếp theo là bốn dhyana trong thế giới vô hình tướng, và sau hết là ba cửa ngõ của sự giải thoát. Gộp chung cả ba thứ ấy với nhau sẽ giúp chúng ta có một ý niệm nào đó về ý nghĩa của dhyana là gì, dầu sao
Bài 37: Trước ngưỡng cửa Giác ngộ
17/04/2021
12:14
Sau khi nêu lên sự kết hợp giữa các phẩm tính dana (lòng hào hiệp) và sila (đạo đức) (chương IV), cũng như giữa kshanti (sức chịu đựng) và virya (nghị lực) (chương V) trong cuộc sống, sự nghiệp và cả trong các cảm nhận tâm linh của người bồ-tát, chúng ta sẽ tiếp tục tìm hiểu thêm một cặp tương phản khác tinh tế hơn nhiều là dhyana hay thiền (meditation) và prajna hay trí tuệ (wisdom). Khi hai phẩm tính này được nâng lên cấp bậc hoàn hảo (paramita) thì sẽ đưa chúng ta trực diện với ngưỡng cửa của sự Giác ngộ và sự hoàn thành của thể dạng Phật tính (Bodhicitta) (dhyana là tiếng Phạn, tiếng Pali là jhana, tiếng Hán là "thiền" / 禅, còn gọi là "định" "thiền định" hay "thiền na", là thể dạng tập trung và lắng sâu của tâm thức, thường hiện lên trong những lúc hành thiền).
Bài 36: Phật giáo Zen và Phật giáo Shin
15/04/2021
08:54
Zen và Shin là hai học phái Phật giáo Nhật-bản bắt nguồn từ hai học phái Phật giáo Trung quốc là Thiền học (Chan / Tchan, Thiền / 禪) và Tịnh độ tông (淨土宗). Tuy bắt nguồn từ Phật giáo Trung quốc thế nhưng sau khi được đưa vào Nhật bản thì cả hai học phái này đã chịu ảnh hưởng khá sâu đậm bởi văn hóa, tánh khí, phong cách của dân tộc Nhật, và đã phát triển rộng rãi tại nơi này và vẫn tiếp tục còn tồn tại đến nay. Tuy nhiên dường như học phái Zen được nhiều người biết đến hơn, và như vậy thì học phái Shin là gì?
Bài 35: Sự tinh tế trong các xúc cảm mộc mạc
31/03/2021
08:47
Chúng ta có thể biến các xúc cảm mộc mạc và thô thiển bên trong chính mình trở thành tinh tế hơn bằng cách phát động lòng tin tưởng và sự sùng kính (devotion), chẳng hạn như các nghi lễ gọi chung là "Puja gồm bảy thành phần" (The Seven-fold Puja, sẽ được giải thích trong phần ghi chú dưới đây), hoặc nhờ vào các sinh hoạt nghệ thuật (thi phú, âm nhạc, hội họa, ảnh tượng, kiến trúc, v.v. cũng có thể tạo cho mình nhiều xúc cảm và rung động sâu sắc và tinh tế hơn). Một số người có thể cho rằng xu hướng tu tập của Phật giáo chẳng có gì liên hệ đến nghệ thuật cả. Hơn nữa họ cũng có thể nghĩ rằng cả hai thứ ấy (Phật giáo và nghệ thuật) dường như không thể nào đi đôi với nhau được (Phật giáo là sự giải thoát, nghệ thuật là sản phẩm của tâm thức, phản ảnh một sự bám víu). Thế nhưng trên thực tế nghệ thuật là một phương tiện có thể tập trung và tinh tế hóa nghị lực của xúc cảm góp phần vào sự thăng tiến trong việc tu tập, giúp mình hoàn tất các paramita (các phẩm tính hoàn hảo) mà ng
Bài 34: Virya hay nghị lực hướng vào điều thiện
31/03/2021
07:58
Nếu muốn phẩm tính kshanti biểu trưng đầy đủ được ý nghĩa của nó (xin nhắc lại kshanti có nghĩa là sự kiên nhẫn hay nhẫn nhục, là một trong sáu phẩm tính hoàn hảo / paramita / ba-la-mật. Kinh sách Hán ngữ gọi phẩm tính kshanti là "nhẫn", thế nhưng thật ra phẩm tính này gồm có ba khía cạnh hay ý nghĩa khác nhau: sức chịu đựng, lòng khoan dung và khả năng thụ cảm, cả ba đặc tính này biểu trưng cho "nữ tính" trong việc tu tập), thì phải nêu lên thêm một phẩm tính khác là virya, là phẩm tính thứ tư trong sáu phẩm tính paramita (virya có nghĩa là nghị lực hay sức cố gắng / energy, nếu kshanti biểu trưng cho nữ tính thì virya biểu trưng cho nam tính. Kinh sách Hán ngữ gọi phẩm tính virya là "tinh tiến" hay "tinh tấn" (精進), tinh có nghĩa là tinh lọc, tinh khiết, tấn hay tiến có nghĩa là tiến tới, cách dịch này dường như không được sát nghĩa lắm).
Bài 33: Kshanti với tư cách là một sự thụ cảm tâm linh
11/03/2021
07:38
Khía cạnh thứ ba của kshanti ("nhẫn") mà tôi sẽ nêu lên dưới đây là sự thụ cảm tâm linh. Khía cạnh này được nêu lên qua một câu chuyện được ghi chép trong chương hai của Kinh Hoa Sen (còn gọi là Kinh Pháp Hoa). Câu chuyện thuật lại một lần Đức Phật ngồi xuống vây quanh bởi các đệ tử của mình, gồm thật đông các vị A-la-hán và bồ-tát, tất cả có thể lên đến nhiều ngàn người. Đức Phật ngồi theo tư thế hoa sen giữa đại hội đông đảo dó, mắt nửa khép nửa mở, hai tay gác lên đùi, lắng thật sâu vào thiền định. Ngài ngồi yên như vậy thật lâu và thật lâu. Toàn thể các vị trong đại hội cũng giữ tư thế ngồi yên đúng như thế, thật lâu và thật lâu, không một cử động, không một tiếng ho. Họ cùng ngồi yên với Đức Phật và cùng lắng vào thiền định như Ngài.
Bài 32: Kshanti với tư cách là một sự khoan dung
11/03/2021
07:36
Khía cạnh khoan dung của phẩm tính kshanti phản ảnh thật rõ nét qua một câu chuyện trong lịch sử Phật giáo như sau. Vào thế kỷ XIII, có một vị sư Tây Tạng là Drogön Tchögyal Phagpa, là vị lãnh đạo học phái Sakyapa (Tát-ca), một trong bốn học phái lớn nhất của Tây Tạng, đã đưa Phật giáo vào Mông cổ. Ông là người có nhiều uy tín, uyên bác và nổi tiếng. Ông là vị thầy tâm linh của Kublaï Khan (Hốt Tất Liệt, 1215-1294, hoàng đế nhà Nguyên) là Đại đế Trung quốc và cả Mông cổ. Để tỏ lòng biết ơn thầy mình là nhà sư Phagpa, Kublaï Khan đã trao quyền pháp trị vĩnh viễn (secular jurisdiction) xứ Tây Tạng cho nhà sư này. Vị Đại đế Kublai Khan là người vô cùng nhiệt tình với học phái Skyapa và có ý đưa ra một đạo luật bắt buộc tất cả những người Phật giáo trong đế quốc của mình phải tu tập theo học phái này. Thế nhưng nhà sư Phagpa đã cố gắng thuyết phục ông nên để mọi người được tự do tu tập phù hợp với tâm tính mình, được chọn lựa hình thức Phật giáo nào tùy sở thích của họ, đấy là truyền thống
Bài 31: Ba lãnh vực tu tập về sức chịu đựng
11/03/2021
07:32
Ba lãnh vực tu tập về sức chịu đựng Tất hiển nhiên là việc luyện tập về sức chịu đựng không nhất thiết chỉ để chống lại những người tấn công mình bằng lời nói hay gậy gộc (mà còn là để chống lại các khó khăn khác trong các cảnh huống bên ngoài và cả bên trong chính mình). Kinh sách Phật giáo nêu lên ba lãnh vực tu tập nhằm phát huy sức chịu đựng đó.
Bài 30: Nam tính và nữ tính trong cuộc sống tâm linh
11/03/2021
07:27
Thời buổi ngày nay, đề cập đến vấn đề nam tính nữ tính, dù là thuộc lãnh vực nào, thì cũng chẳng khác gì bước vào một lãnh địa vô cùng nguy hiểm, dù với tất cả sự thận trọng bằng cách đặt các chữ này (nam và nữ) vào giữa hai ngoặc kép cũng vậy, cũng không sao tránh khỏi cách hiểu quá đỗi từ chương của hai chữ này. Thế nhưng thật ra chúng ta cũng có thể áp dụng ý nghĩa của các chữ ấy (nam tính và nữ tính) vào các paramita (ba-la-mật / sự hoàn hảo) là các phương cách luyện tập của người Phật giáo: đó là kshanti và virya. (kshanti là tiếng Phạn có nghĩa là sự kiên nhẫn (patience), khoan dung (toleration) và tha thứ (forgiveness); và chữ virya thì có nghĩa là sức cố gắng hay nghị lực).
Bài 29: Hôn nhân và Phật giáo
25/02/2021
08:21
Có một khía cạnh khác trong cuộc sống ảnh hưởng đến hầu hết mọi người, bằng cách này hay cách khác, trực tiếp hay gián tiếp, đó là việc hôn nhân. Quan điểm Phật giáo về hôn nhân khác hẳn với quan điểm theo truyền thống lâu đời của Tây phương. Hôn nhân đối với Phật giáo không phải là một "bí tích" (sacrament / một nghi thức tôn giáo mang tính cách thiêng liêng, Hội thánh Ki-tô La-mã đưa ra bảy bi tích: bí tích thứ nhất là "rửa tội", bí tich thứ bảy là "hôn phối"), cũng không phải là một sự giao ước trên phương diện luật pháp. Theo truyền thống Phật giáo, hôn nhân chỉ đơn giản là một sự tương giao trên phương diện con người, được bạn bè và gia đình thừa nhận. Trong khung cảnh Phật giáo của thế giới Đông phương, việc hôn phối không cần đến một nghi lễ [tôn giáo] nào cả, mà hai người chỉ cần tổ chức một buổi lễ (tiệc cưới) quy tụ bạn bè và gia đình để chính thức tuyên bố sự sống chung của họ.
Quay lại