Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Pháp thoại: Pháp học, Pháp hành của đệ tử Phật từ tinh yếu đến phát triển của HT Thích Thái Hòa

25/04/202406:00(Xem: 610)
Pháp thoại: Pháp học, Pháp hành của đệ tử Phật từ tinh yếu đến phát triển của HT Thích Thái Hòa



ht thai hoa

Pháp thoại:

Pháp học, Pháp hành
của đệ tử Phật từ tinh yếu đến phát triển

của HT Thích Thái Hòa chia sẻ đến Đại chúng trong Khóa tu mùa xuân tại Vương quốc Thái Lan, vào ngày 22.01. Giáp Thìn PL 2567 – 02.03.2024


Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật!

Kính thưa chư Tôn đức Tăng Ni nhị bộ, cùng toàn thể Phật tử tham gia Khóa tu mùa xuân, năm 2024, tại Vương quốc Thái Lan hiện diện quý mến!


Để cho thời Pháp thoại đi tới với quý vị có hiệu quả, giờ phút này xin toàn thể Đại chúng trong Pháp hội khóa tu này, ngồi ngay thẳng, nhiếp tâm thanh tịnh, khi nghe tôi thỉnh tiếng chuông, xin tất cả tập trung theo dõi hơi thở vào và ra, để cho ba nghiệp của chúng ta trong giờ phút này hoàn toàn thanh tịnh.

“Lắng lòng nghe, lắng lòng nghe tiếng chuông hiền dịu đưa về nhất tâm” (boong);

“Nghe chuông phiền não tan mây khói, ý lặng tâm an miệng mỉm cười

Hơi thở nương chuông về Chánh niệm, vườn tâm hoa tuệ nở muôn nơi” (boong);

“Ngồi đây ngồi cội Bồ đề, vững tâm Chánh niệm không hề lãng xao” (boong).

“Thở vào, thở ra, tôi biết rất rõ, giờ phút này, tôi có thân hành an tịnh” (boong);

“Thở vào, tôi biết tôi đang thở vào, thở ra, tôi biết rất rõ tôi đang thở ra”; (boong);

Thở vào và thở ra, tôi biết rất rõ giờ phút này, trong tôi đang có ngữ hành an tịnh” (boong);

“Thở vào tôi biết tôi đang thở vào, thở ra tôi biết tôi đang thở ra”;

“Thở vào, thở ra, chúng tôi ý thức rất rõ  giờ phút này, chúng tôi đang có tâm hành an tịnh”.

Khi nghe tôi thỉnh tiếng chuông, xin đại chúng buông bỏ thiền tập, chuyển động thân thể, làm những động tác xoa hai bàn tay, xoa lên đỉnh đầu, xoa lên mặt và ngồi lại, tư thế trang nghiêm thanh tịnh để nghe pháp thoại.

Khi nghe tôi thỉnh tiếng chuông, xin Đại chúng ngồi trang nghiêm, với tư thế thoải mái và nghe Pháp thoại (boong).

Thưa Đại chúng!

Hôm nay là ngày 22, tháng giêng, năm Giáp thìn, nhằm ngày 02, tháng 03, năm 2024, tại Wangreen Resort, vùng Nakhon Nayok, vương quốc Thái Lan.

Tôi chia sẻ đến với quý vị Pháp thoại này, vì tôi thấy các thành viên có mặt trong Pháp hội này, đến từ nhiều vùng miền khác nhau của quê hương Việt Nam, tôi rất xúc động và vui mừng, vì biết rằng : “Chánh pháp của đức Thế tôn vẫn còn tồn tại không phải chỉ là hình thức, mà còn tồn tại ngay trong lòng của những người con Phật và Chánh pháp của đức Thế tôn tồn tại ngay trong lòng những người con Phật tha thiết bằng tất cả niềm tín thành tu học, nên chúng ta mới có Pháp hội này. Vì vậy, bài Pháp thoại cho tất cả chúng ta hôm nay với đề tài: “Pháp học, pháp hành của người Đệ tử Phật từ tinh yếu đến phát triển” .

Quý vị biết Pháp học, pháp hành của người Đệ tử Phật căn bản là Pháp gì không? Ai biết?

Quý vị biết rằng, khi đức Thế tôn của chúng ta mới thành đạo, Ngài chưa vội vã chuyển vận pháp luân, mà sau khi thành đạo rồi, Ngài tiếp tục quán chiếu sâu xa Pháp của Ngài vừa chứng ngộ từ tuần thứ nhất đến tuần thứ hai, rồi qua tuần thứ ba thì Đại long Ka-la xuất hiện và đến trước đức Thế tôn đảnh lễ và xin dâng cung điện Đại long cung của Ka-La lên đức Thế tôn.

Bấy giờ, Đại long Ka-la thưa rằng: “Bạch đức Thế tôn! Cung điện này con đã từng cúng dường đức Phật Câu-lưu-tôn; đức Phật Câu-na-hàm; đức Phật Ca-diếp và bây giờ Thế tôn thành đạo là vị Thế tôn thứ tư, trong thời Hiện tại hiền kiếp, con xin được dâng cúng cung điện này”.

Qua lời tác bạch của Đại long Ka-la như vậy. Bấy giờ, đức Thế tôn mặc nhiên chấp nhận và sau khi chấp nhận rồi, Ngài vào cung điện của Đại long Ka-la đó, để thiền định đến một tuần và sau khi xuất định là tuần thứ tư, rồi đức Thê tôn mới gọi Đại long Ka-la và bảo rằng: “Ngươi hãy tự Quy Y Phật, hãy tự Quy Y Pháp, hãy tự Quy Y Tăng và lãnh thọ năm Giới để tu tập, thành tựu phước báu cõi người, cõi trời và từ nơi đó mà có thể tu tập giải thoát sinh tử khổ đau”.

Như vậy, đức Thế tôn đã trao truyền ba pháp Tam Tự Quy Y và năm Giới cho Đại long Ka-la, rồi sau đó, đức Thế tôn mới đi vào thiền định. Ngài đi vào thiền định một tuần và sau một tuần Ngài xuất định thì Đại long Mục-chơn-lân-già xuất hiện và cũng xin dâng cung điện cúng dường. Đại long Mục-chơn-lân-già, thưa với đức Thế tôn rằng: “Bạch đức Thế tôn! Cung điện này, bấy giờ con cũng đã từng cúng dường đức Phật Câu-lưu-tôn; đức Phật Câu-na-hàm; đức Phật Ca-diếp và bây giờ chúng con xin dâng cúng lên Ngài là Vị Phật thứ tư ở trong thời Hiện tại hiền kiếp này, xin đức Thế tôn nhận cho chúng con”.

Và sau khi nhận xong rồi, đức Thế tôn đi vào thiền định ở trong cung điện ấy một tuần và sau khi xuất định, đức Thế tôn truyền Pháp Tam Tự Quy Y và năm  Giới cho Đại long Mục-chơn-lân-già, đến tuần thứ sáu đức Thế tôn thuyết pháp và truyền ba Pháp tự Quy Y cho Thiên tử Uy-lực. Và đức Phật đã khuyên Thiên tử Uy Lực, hãy thọ trì ba Pháp Tự Quy Y và năm cấm giới để phước thọ được lâu dài.

Sau khi truyền ba Pháp Tự Quy Y và năm giới cho Thiên tử Uy-lực và đến tuần thứ bảy, chư Thiên mới nói lên những lời giữa không trung rằng: “Đức Thế tôn mới thành đạo, chưa thọ dụng bất cứ một vật thực gì từ sự cúng dường, cho nên những vị nào có duyên, thì hãy đến đó để cúng dường sẽ có phước báu vô lượng”. Tiếng nói giữa không trung ấy, khiến hai vị thương gia Tapassu và Bhallika từ Trung Ấn đi về quê hương, họ nghe được âm thanh ấy từ không trung, nên họ liền đến Bồ Đề Đạo Tràng, thấy đức Thế tôn đang đi thiền hành, với tư thế oai nghi, hào quang sáng ngời từ đỉnh đầu phóng ra, uy hùng và trang nghiêm như vậy, cho nên họ liền chứng kiến và khởi tâm cúng dường thực phẩm lên đức Thế tôn. Nhung khi họ dâng thực phẩm cúng dường lên đức Thế tôn, bấy giờ đức Thế tôn liền nghĩ: “Ba đời chư Phật không có khi nào đưa tay mà nhận sự cúng dường từ người khác”.

Ngay khi ấy, Trì quốc thiên vương ở phương Đông; Tăng trưởng thiên vương ở phương Nam; Quảng mục thiên vương ở phương Tây; Đa văn thiên vương ở phương Bắc, bốn vị đồng thời dâng bốn bình bát cúng dường đức Thế tôn.

Bấy giờ, đức Thế tôn nhận bốn bình bát cúng dường từ Tứ thiên vương xong, bấy giờ Ngài nghĩ: “Bốn bình bát này, nên nhận cái nào  và không nhận cái nào. Nghĩ như vậy xong, Ngài liền nhận cả bốn cái bình bát và chồng bốn cái bát thành một chồng, rồi đưa tay đè xuống, khiến bốn bình bát trở thành một bình bát và sau đó Ngài đã sử dụng bình bát ấy, để nhận thực phẩm cúng dường từ hai thương gia Tapassu và Bhallika. Hai vị thương gia này đã đặt vật phẩm vào ở trong bình bát để cúng dường đức Thế tôn.,

Cho nên, bình bát mà đức Thế tôn sử dụng để đi khất thực là từ Tứ thiên Vương cúng dường, chứ không phải như bình bát mà ngày nay các Thầy đi khất thực đâu.

Quý vị hiểu không? Cho nên, quý vị đừng nghĩ rằng, bình bát các Thầy đi khất thực ngày nay là như bình bát của Phật. Hiểu như vậy là nguy hiểm và rất sai lầm.

Bình bát mà đức Thế tôn nhận từ Tứ thiên Vương là từ bốn bình bát trở thành một bình bát, bình bát ấy tiếp nhận tất cả các thực phẩm cúng dường từ bất cứ thành phần nào của xã hội, nghèo hay giàu, sang hay hèn, thì khi họ đặt thực phẩm cúng dường vào trong bình bát ấy của đức Thế tôn đều trở thành cam lồ, pháp vị cả.

Sau khi nhận bình bát cúng dường từ Tứ thiên Vương, để nhận cúng dường vật phẩm từ hai thương gia Tapassu và Bhallika, đức Thế tôn thọ dụng xong, Ngài liền nói ba Pháp Tự Quy Y và năm cấm giới cho đoàn thương gia Tapassu và Bhallika.

Bài pháp đầu tiên đức Thế tôn nói cho những vị này là: “Sở vị bố thí giả, tất hoạch kỳ lợi ích, nhược vị nhạo bố thí, hậu tắt đắc an lạc”. Nghĩa là “những ai thực hành hạnh bố thí, thì những vị ấy sẽ có thu hoạch được rất nhiều lợi ích; nếu ai mà ưa thích hành bố thí, cúng dường, thì người ấy đời này, đời sau đều an lạc”. Đó là bài pháp thoại đầu tiên, sau khi đức Thế tôn thành đạo nói về lợi ích của hạnh bố thí cúng dường.

Sau khi, đức Thế tôn thành đạo đến tuần thứ bảy, Ngài chiêm nghiệm giáo lý duyên khởi do Ngài chứng ngộ là quá sâu thẳm, vi diệu, trong lúc đó, chúng sinh phần nhiều đam mê ái dục, đắm chìm trong ái dục, khó mà mà thấy được định lý duyên khởi, nếu thuyết pháp thì quả thật khó khăn cho ta.

Bấy giờ, Phạm thiên Sahampati chúa tể cõi trời Sắc giới nhận được luồng tư tưởng này của đức Thế tôn, liền xuất hiện bạch đức thế tôn và cầu thỉnh đức Thế tôn chuyển vận pháp luân, vì lợi ích cho đa số thế giới người, trời. Lời tác bạch cầu thỉnh của Phạm thiên Sahampati đến đức Thế tôn như sau: “Bạch đức Thế tôn, xin Ngài hãy thuyết pháp! Bạch đức Thiện thệ, xin Ngài hãy thuyết pháp! Có những chúng sinh ít nhiễm bụi đời sẽ ị nguy hại, nếu không được nghe chánh pháp. Nếu những vị này được nghe chánh pháp, họ sẽ thông hiểu”.

Khi ấy, đức Thế tôn mặc nhiên nhận lời, và nghĩ rằng giáo pháp thâm diệu này, không thể nói cho người vô trí mà hãy nói cho những người có trí.

Bấy giờ, Ngài liền nghĩ Đạo sĩ  Alārakaāama, vị đạo sĩ đã từng dạy cho đức Thế tôn khi còn là vị Sa Môn đi tầm đạo, thì Chư thiên báo rằng, vị đạo sĩ này đã viên tịch rồi; rồi đức Thế tôn nghĩ đến Pháp thậm thâm này có thể trao truyền được cho đạo sĩ Uddaka-Rāmaputta (Uất-đầu-lam-phất), thì chư Thiên cũng lại báo rằng, Ngài này mới viên tịch ngày hôm qua.

Sau đó, đức Thế tôn nghĩ đến năm anh em Kiều Trần Như, người bạn cùng tu khổ hạnh với mình lúc trước, do đó mà mà đức Thế tôn đi tới vườn Nai để mà chuyển vận Pháp luân Tứ thánh đế cho năm anh em Kiều Trần Như, khi Pháp luân đã được chuyển vận, thì Phật là Phật bảo, Pháp đã chuyển vận là Pháp bảo và Tăng bảo đầu tiên là năm anh em Kiều Trần Như. Tam bảo bấy giờ xuất hiện giữa thế gian đầy đủ cả sự và lý.

Vậy, bây giờ tôi hỏi Đại chúng Pháp học, pháp hành của người đệ tử Phật từ tinh yếu đến phát triển là gì? Quý vị trả lời được không?

Vậy, “Pháp học, pháp hành của người đệ tử Phật từ tinh yếu đến phát triển”, đó là Pháp Tam Tự Quy Yvà Tam Quy Y. Pháp Tam Tự Quy Y và Tam Quy Y là pháp học, pháp hành tinh yếu của người đệ tử Phật.

Mọi giáo pháp của đức Phật thuyết là đều từ nơi pháp học, pháp hành tinh yếu này mà phát triển. Cho nên, khi Thế tôn thành đạo, loài Rồng là súc sinh có phước báo nhất trong các chủng loại súc sanh đã được đức Thế tôn trao cho ba pháp Tam Tự Quy, và năm giới quí báu, để tu tập chuyển hóa thân súc sinh thành phước báu người và trời, bằng pháp học, pháp hành cúng dường.

Pháp học, pháp hành cúng dường này, các chú Rồng ka-la và Mục-chơn-lân-già đã từng gieo trồng phước đức từ đức Phật Câu-lưu-tôn, Câu-na-hàm, Ca-diếp và tiếp tục từ đức Thế tôn của chúng ta. Chính nhờ phước báu cúng dường chư Phật này mà loài Rồng được giữ gìn kho tang Chánh pháp ở dưới long cung.

Cho nên, trong Phật giáo Thầy tổ chúng ta, từ Ấn Độ, Trung Quốc, Việt Nam, Tích Lan, Miến Điện, Thái Lan, Campuchia, Lào, v.v… đã từng kết tập, giữ gìn và lưu truyền Kinh điển, nhưng rồi bao nhiêu thế lực phi Phật giáo đã đánh phá Phật Pháp, đã tiêu hủy rất nhiều kinh điển của Phật giáo. Tuy vậy, nhưng Kinh điển Phật giáo không mất hết, vẫn còn là nhờ được lưu giữ tại Long cung và khi nào thấy kinh điển ở trên này bị thất lạc, hay thiếu đi, thì các vị Bồ tát nhập định đi xuống ở Long cung mang Kinh đó lên để mà truyền bá, dạy dỗ cho tất cả chúng ta. Hoặc có những vị Bồ tát nhập định lên cung trời Đâu-suất, để tham vấn với các vị Bồ tát Nhất-sanh-bổ-xứ nội viện, rồi trở lại cõi này biên tập lại. Cho nên, năm nay năm rồng, rồng có ơn với chúng ta rất lớn.

Cho nên, tôi hoan hỷ khi biết Thượng tọa Pháp Hòa cùng với Ban tổ chức tổ chức khóa tu mùa xuân của năm Giáp Thìn này tại Vương quốc Thái Lan và được đông đủ quý vị tham dự như thế này, được chư Tôn đức Tăng Ni hỗ trợ nhiệt tình, ấy là điều tôi rất hoan hỷ.

Sự kiện hai chú Rồng yểm trợ cho đức Phật trong tuần thứ ba, thứ tư, sau khi đức Thế tôn thành đạo, và là những vị thọ ba pháp Tam Tự Quy Y và năm giới làm những Ưu-bà-tắt đệ tử đầu tiên của đức Phật, lại còn phát nguyện giữ gìn và hộ trì Pháp bảo, đó là một trong những điều mà tại sao các ngôi chùa Phật giáo Việt Nam phần nhiều là có những chú rồng ở trên nóc chùa.

Vì vậy, chúng ta biết rằng, Tổ tiên Việt Nam chúng ta rất uyên bác Phật Pháp, hiểu rất sâu xa Phật Pháp và nếu quý vị đi tới Thái Lan, đi tới Campuchia, thì thấy ở nơi những xứ sở Phật giáo này cũng có những cấu trúchình tướng , hay đại mãng xà ở chùa tháp, công đường hay công lộ.

Cho nên, Rồng làm đệ tử Phật trước loài người chúng ta. Đây là một trong những điều mà quý vị cần nghiên cứu, chiêm nghiệm, học hỏi thêm,để biết một cách sâu xa mọi sự kiện liên quan đến Phật giáo.

Sau khi loài Rồng Thọ Tam Tự Quy Y, rồi đến Thiên tử Uy-lực thọ trì Tam Tự Quy Y và năm giới. Như vậy, chư thiên cũng làm đệ tử Phật trước loài người chúng ta. Sau khi nghe lời chư Thiên khuyến tấn giữa không trung, hai đoàn thương gia gồm, Tapassu và Bhallika, liền nghe được, nên họ biết Phật mới thành đạo ở Bồ đề đạo tràng, và liền đến đó để cúng dường đức Thế tôn.

Và sau khi phát tâm cúng dường, thì Tứ thiên Vương đã dâng bát cúng dường để yểm trợ cho việc cúng dường của hai vị thương gia đó được thành tựu đúng như chánh pháp. Nếu Tứ thiên Vương không dâng bát cúng dường, thì Phật đâu có nhận vật phẩm cúng dường của đoàn thương gia đó một cách hợp pháp đúng như sự nhận cúng dường của chư Phật ba đời từ tín đồ dâng cúng.

Cho nên, chúng ta tu hành mà thành tựu pháp Tam Tự Quy Y,  thành tựu năm giới, thành tựu pháp cúng dường, pháp bố thí, là nhờ chư Thiên và Long thần hộ trì cho chúng ta rất nhiều. Cho nên, chư Thiên dâng bát cúng dường lên đức Phật, Ngài nhận bình bát để nhận thực phẩm cúng dường từ tín đồ, mới xứng hợp với hạnh nguyện chư Phật ba đời không bao giờ đưa tay nhận vật cúng từ người khác, mà phải có bình bát. Bấy giờ, Không có Tứ thiên vương hỗ trợ, thì pháp cúng dường của hai thương gia Tapassu và Bhallika không đủ nhân duyên như pháp để thành tựu.

Pháp cúng dường mà không thành tựu thì cũng không thành tựu được Pháp Tam Tự Quy Y và năm giới. Cho nên, pháp Tam Tự Quy Y và năm giới là Pháp tinh yếu. Vì vậy, Đại chúng thấy rằng, Tăng Ni, Phật tử Việt Nam, tụng bất cứ kinh gì, nhưng cuối cùng cũng đều có tụng bài pháp Tam Tự Quy Y. Nếu tụng Kinh mà không kết thúc bằng pháp Tam Tự Quy Y, thì xem như kinh đó tụng chưa xong. Chúng ta tu mấy thì tu, tu một trăm năm, tu một ngàn năm, mà chưa tụng được ba pháp Tam Tự Quy Y, thì dù cho tu đến cả ngàn năm vẫn chưa có đường về.

Nên tôi thấy, tôi rất vinh dự, khi làm người Việt Nam và tôi càng thấy vinh dự hơn, khi làm thầy tu Việt Nam; càng vinh dự hơn nữa, khi được làm con cháu của Tổ tông Việt Nam. Bởi vì, Tổ tông Việt Nam, Thầy tổ Việt Nam của chúng ta đã đạt đến đạo đức sống và đã trải nghiệm sống về đạo đức và đã tạo ra các pháp học, pháp hành cho chúng ta.

Cho nên, ông thầy tu thiệt của Việt nam thì không bao giờ lạc đường. Nếu thật sự là Phật tử Việt Nam thì cũng không bao giờ đi bị lạc đường. Không lạc đường là vì ta có pháp học, pháp Tam Tự Quy Y. Học gì thì học mà chưa học pháp Tam Tự Quy Y, thì sở học chưa hoàn tất. Tu gì thì tu, nhưng chưa hành pháp Tam Tự Quy Y, thì sở hành chưa đạt đến viên mãn.

Quý Thầy, quý Sư Cô, quý Phật tử phải nhớ kỹ điều này.  

Nếu chúng ta muốn đạt tới pháp học, pháp hành Tam Tự Quy Y, thì chúng ta phải học và hành pháp Tam Quy Y. Nếu chúng ta  thọ Ngũ giới mà không thọ pháp Tam Quy Y, thì Ngũ giới không bao giờ thành tựu. Muốn thọ Ngũ giới thành tựu, thì trước hết phải thọ pháp Tam Quy.

Một vị Giới sư thực hành đúng Phật Pháp, vị ấy truyền giới cho giới tử, thì khi nào cũng truyền pháp Tam Quy Y trước, sau đó mới truyền các giới, như Năm giới, Bát quan trai giới, Sa di, Sa di ni giới, Thức-xoa-ma-na giới, Tỷ kheo, Tỷ kheo ni giới, Bồ tát giới.

Nếu không thọ pháp Tam Quy Y mà chỉ thọ Ngũ giới hay các giới khác, thì việc thọ giới không thành. Một vị thọ Sa di cũng phải thọ Tam Quy Y trước khi thọ Ngũ giới; một vị thọ giới Thức-xoa-ma-na, cũng phải thọ Tam Quy Y trước khi thọ Giới Thức-xoa-ma-na; một vị thọ Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, thành tựu giới thể cũng phải thọ Tam Quy Y trước khi thọ các giới pháp ấy.

Muốn thọ Đại thừa Bồ Tát Giới mà không thọ Tam Quy, Ngũ giới thì Đại thừa Bố Tát Giới không thành.

Như vậy, Pháp học, pháp hành Tam Quy Y làm nền tảng cho mọi pháp học, pháp hành khác phát triển. Phật giáo phát triển là phát triển từ nơi Tam Quy Y và từ nơi pháp học, pháp hành này mà hướng tới pháp học, pháp hành Tam Tự Quy Y. Nghĩa là đệ tử Phật, từ nơi thực hành pháp Tam Quy Y mà đi đến được với pháp Tam Tự Quy Y. Tam Quy Y là sự; Tam Tự Quy Y là lý. Nghĩa là từ nơi hành sự mà thể nhập chân lý và sống với chân lý. Lý sự không hai. Nên, muốn đạt đến Tam Tự Quy Y, người đệ tử Phật phải thực hành pháp Tam Quy Y.

Đệ tử Phật thực hành pháp Tam Quy Y để thành tựu các giới pháp khác. Và thực hành các giới pháp khác là để thành tựu pháp Tam Tự Quy Y.

Chỉ có đệ tử của Phật mới Quy y Tam bảo và Đệ tử Phật mới tụng kinh Phật, chứ ngoại đạo làm sao tụng Kinh Phật. Chúng ta là con của đức Phật thì mới biết ngôi nhà của Phật để về, chứ ngoại đạo làm gì mà biết được ngôi nhà của Phật để về? Cho nên, từ Tam Quy Y phát triển thành Ngũ giới, từ Tam Quy Y phát triển thành Bát quan trai Giới, từ Tam Quy Y phát triển thành Sa d giới, Sa di ni giới, phát triển thành Thức-xoa-ma-na giới, Tỳ kheo, Tỳ kheo ni giới, Đại thừa Bồ tát giới.

Phát triển Đại thừa Bồ tát giới đến chỗ tận cùng rồi quay lại với Tam Tự Quy Y. Bồ tát đi giáo hóa chúng sanh, đưa chúng sanh đi về đâu? Bồ Tát đi giáo hóa chúng sanh, rồi đưa chúng sanh đi tới Bangkok à? Bồ tát đi giáo hóa chúng sanh, rồi đưa chúng sinh đi tới Washington DC à? Đi tới Onttaw, Canada à? Đi tới Paris, Pháp à? Bồ Tát giáo hóa chúng sinh, rồi đưa chúng sinh đi về đâu? đi tới đâu? đi tới với Pháp học, pháp hành Tam Quy Y, và Pháp học, pháp hành Tam Tự Quy Y.

Chúng ta tu tập thành tựu pháp học, pháp hành này, chúng ta quá sung sướng, vì chúng ta có được gia tài châu báu vô lượng, nhưng chúng ta không hưởng thụ châu báu này một mình mà đem châu báu đó chia sẻ cho những người mình thương, và kể cả những người mình ghét.

Nếu chúng ta đem châu báu đó mà chia sẻ cho những người mình thương mà không chia sẻ cho những người mình ghét, những người đã từng làm trở ngại sự tu tập của mình, thì đúng là mình chưa phải là Bồ Tát, chưa phải là con của đức Phật.

Chúng ta là đệ tử của đức Phật phải biết đem châu báu mình khám phá ra đó mà hiến tặng cho những người dễ thương, những người đã từng giúp mình tu học, nhưng mà đồng thời cũng đem châu báu đó cho những người đã từng gây khó khăn cho sự tu học của chúng ta, cho nên mình mới “nguyện đem công đức này, hướng về khắp tất cả, đệ tử và chúng sanh, đều trọn thành Phật đạo”.

Ai dạy cho mình sự hồi hướng này? Ấy là Thầy tổ của Việt Nam. Nên, quý Thầy VN đi học nước ngoài phải nhớ nghe! Quý cô VN đi học nước ngoài phải nhớ nghe! Phải nhớ Thầy tổ của chúng ta nghe!

Cho nên đi học là đi học cho vui thôi nha, học cho biết cái học ở đời  một chút cho vui thôi, chứ những cái học đó là không phải cái học của Phật giáo đâu nghe! Nếu ta vui theo cái học của thế gian, thì cái vui ấy đẩy mình trôi lăn trong dòng sinh tử và vĩnh viễn thất bại đời tu của mình. Nếu có học đậu tiến sĩ thì cũng có cho vui vậy thôi nghe, chứ tiến sĩ không là cái gì trong Phật Pháp cả; nó cũng không là cái gì trong Phật giáo hết; không là cái gì trong Tam bảo hết; dù có bao nhiêu bằng tiến sĩ mà không quy y Tam bảo, không có sự thanh tịnh về giới pháp, thì không trở thành Phật tử; không phải là Ưu bà tắt, Ưu bà di, không phải là Tỷ kheo, Tỷ kheo ni, không phải là đệ tử của đức Phật và không bảo giờ trở thành thành thành viên chính thức của Tam bảo đâu nghe!

Cho nên, chỉ có Ưu bà tắt, Ưu bà di hành trì giới  thanh tịnh mới là đệ tử thực thụ của đức Phật; chỉ có Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, thực hành giới thanh tịnh mới là đệ tử Thanh văn thực thụ của đức Phật và mới đứng vào thành viên chính thức của Tăng bảo.

Sa Di, Sa Di Ni, Thức-xoa-ma-na chỉ là thành viên dự bị củaTăng bảo; Ưu-bà-tắt, Ưu-bà-di là những người ngoại hộ của Tam bảo.

Vua, Quan, Đại thần, Tể tướng, Đại gia mà chưa quy y Tam bảo, chưa thọ trì giới pháp của Phật dạy, nếu họ hỗ trợ mình thì cũng chỉ là những cái ngoài da của Phật pháp thôi. Và có đôi khi họ hỗ trợ mình, khiến cho mình thiếu tỉnh giác làm sai Phật pháp, lạc vào ma cung của tham dục, lạc mất chí nguyện tu học của mình. Thầy Thái Hòa đã được Thầy tổ Việt Nam dạy dỗ kỹ lưỡng như vậy và hành trì như vậy trải qua sáu mươi năm, mỗi buổi sáng mai thức dậy, trước khi đi làm bất cứ công việc gì, trước khi đi học bất cứ môn học gì, trường học nào, thì cũng phải tụng một thời Kinh công phu khuya và khi nào cũng chấp tay trước Phật và nói rằng: “Con Quy Y Phật, Con Quy Pháp, Con Quy Y Tăng”, rồi lạy xuống 3 Lạy; lạy xong rồi, đứng dậy:

“Con Quy y Phật, nguyện đời đời kiếp kiếp, không Quy Y Trời,Thần, Quỷ,  Vật;

            Con Quy Y Pháp, nguyện đời đời kiếp kiếp, không Quy Y Ngoại đạo, Tà giáo:

            Con Quy Y Tăng, nguyện đời đời kiếp kiếp, không Quy Y Tà sư, Ác hữu”. rồi Lạy xuống.

“Con Quy Y Phật là Đấng phước trí vẹn toàn;

Con Quy Y Pháp là con đường chấm dứt sinh tử khổ đau;

Con Quy Y Tăng chúng tu hành thanh tịnh”.

Lạy xuống.

“Con Quy Y Phật không đọa vào địa ngục;

Con Quy Y Pháp không đọa vào ngã quỷ;

Con Quy Y Tăng không đọa vào súc sinh”.

Lạy xuống.

Ngày nay, cho con giữ năm giới thanh tịnh, gồm: “không sát sanh; không trộm cắp; không tà hạnh hay sống tịnh hạnh; không nói dối; không uống rượu”.

Lạy xuống.

Ngày nay, con có làm được điều gì tốt đẹp, thì con xin hồi hướng sự tốt đẹp này đến cha mẹ, Tổ tiên, ông bà nội ngoại, đến những người thân và đến mọi người và muôn loài.

Lạy xuống.

Ngày nay, con có làm điều gì sai lầm với thân, ngữ, ý, cho con xin sám hối, đó là lỗi của con, không phải lỗi của cha mẹ con, không phải là lỗi của Thầy, Tổ con, không phải là lỗi của mọi người.

Lạy xuống.

Pháp học, pháp hành ấy, ngày nào tôi cũng thực tập kể từ hành điệu cho đến bây giờ. Cho nên, chúng ta Quy y không phải một lần cho có Pháp danh, mà chúng ta quy y suốt đời.

Có nhiều người hiện nay quy y chỉ để có pháp danh, sau đó là không cần biết đến Thầy, không cần biết đến Tổ, không cần biết đến Chùa, không cần biết ai hết và đến khi chết đến xin Thầy về làm lễ cầu siêu, vì trước đó ba mẹ của con có Quy Y với Thầy!

Nếu quy y Tam bảo để đến khi chết làm lễ cầu siêu và khi bị tai nạn làm lễ cầu an, lfa không phải sự quy y đúng nghĩa. Quy y như vậy, chỉ có những người sơ cơ, chưa biết gì Phật pháp, thì họ mới nghĩ và làm như thế. Còn Phật tử chơn chính, thì sao quy y như thế được!

Trong pháp hội tu tập này, gồm một ngàn hai trăm người, chúng ta là những Phật tử chơn chính, thực hành pháp quy y  thì không như những người sơ có hay kết duyên.

Pháp học, pháp hành quy y Tam bảo không phải là pháp học, pháp hành chỉ dành cho giới Cư sĩ mà bao gồm cả giới Tăng sĩ.

Quý vị biết rằng, giới Cư sĩ hay giới Tăng sĩ tu tập đạt đến địa vị cỡ nào đi nữa, thì cũng phải luôn luôn nhớ ba pháp học, pháp hành Quy y này để hành trì.

Dù cho chúng ta tu tập chứng đến quả vị A-la-hán rồi, cũng phải thực hành pháp học, pháp hành, quy y Phật Pháp Tăng, chứ không thể xao lãng.

Có một đôi vị, mới tu chợt chợt thôi, mới lên được Đại đức thôi, mà đã nói những giọng điệu trên trời, dưới đất rồi, không biết Phật Pháp Tăng là gì! Hiện nay có những vị danh làm Thượng tọa, hàng ngày cũng không thấy Phật Pháp Tăng ở đâu cả; lại có những vị ngớ ngẩn, tưởng rằng thấy mình to hơn cả Phật Pháp Tăng. Ngớ ngẩn như vậy, thì nguy hiểm quá. Chết rồi. Tu như vậy là chết rồi. Tu như vậy là đọa vô Gián địa ngục rồi.

Có đôi vị danh gọi là Hòa thượng rồi, suốt ngày cũng không thấy Phật Pháp Tăng đâu hết, chỉ thấy mình là Hòa thượng thôi, ấy là chết rồi. Hòa thượng như vậy là Hòa thượng chỉ có tên gọi mà hoàn toàn không có phẩm chất. Ấy là điều quá nguy hiểm cho vị ấy và cho những người sống chung quanh vị ấy.

Cho nên, ở bất cứ lúc nào, bất cứ ở đâu, chúng ta cũng phải thấy Phật Pháp Tăng ở trên đầu, ở trong tâm của mình, ở trong trái tim của mình, ở trong đời sống của mình, nên không phải chỉ có một lần Quy y là xong, mà quy y suốt đời  và quy y đời đời. Nên, A La Hán suốt đời Quy y Phật Pháp Tăng; Bồ tát thì đời đời quy y Phật Pháp Tăng.

Nhiều bậc A La Hán sống hòa hợp thanh tịnh với nhau trở thành Thánh tăng hay xuất thế gian Tăng; nhiều Tỳ kheo tu chưa giỏi, họ vẫn còn tham, còn sân, còn giận, còn hờn mà nhiều vị Tỷ kheo đó sống chung với nhau, cùng hòa hợp thanh tịnh tu học với nhau ở trong Pháp và Luật của Phật, thì đoàn thể như vậy cũng gọi là Tăng, nhưng thuộc về Phàm tăng hay thế gian tăng.

Bởi vậy, có những vị họ tu tập kết duyên, họ chỉ tu tập kết duyên được ba năm, năm năm, bảy năm, mười năm, hai mươi năm, sau khi hết duyên tu thì họ xả giới hoàn tục.

Cho nên, Bồ tát còn một đời nữa làm Phật, những vị Bồ tát này cũng không bao giờ xao lãng pháp hành quy y Phật Pháp Tăng.

Như vậy, Đại chúng đã thấy Pháp Quy y Phật Pháp Tăng quan trọng đến cỡ nào không? Pháp Tam qu y quá quan trọng phải không? Nhờ chúng ta Quy y Phật Pháp Tăng, nên chúng ta thọ và giữ gìn được năm Giới; rồi chúng ta giữ gìn được Bát quan trai giới; rồi chúng ta giữ gìn được giới Sa-di, Sa-di-ni; Thức-xoa-ma-na; giới Tỳ kheo; Tỳ kheo ni; Bồ tát Đại thừa giới và chúng ta giữ giới, sống trong sự thanh tịnh là nhờ chúng ta luôn luôn nghĩ rằng, chúng ta là con của Phật; là người đang thực hành Pháp; là người đang đi trên con đường mà các bậc Thánh tăng đã đi, đang đi và sẽ đi; là người đang đi trên con đường của chư Phật quá khứ đã đi; hiện tại đang đi và chư Phật vị lai sẽ đi; và chúng ta phải luôn luôn thực hiện hạnh cúng dường để nuôi lớn phước đức của chúng ta, để chuyển hóa cái nghiệp sinh tử của chúng ta thành đạo nghiệp giải thoát.

Cho nên, chú rồng Ca-la khi dâng cung điện lên cúng dường đức Thế tôn của chúng ta, sau khi Ngài thành đạo, liền nhắc lại rằng, chính mình đã từng dâng lên cúng dường cung điện này từ đức Phật Câu-lưu-tôn; đức Phật Câu-na-hàm; đức Phật Ca-diếp và bây giờ đến đức Thế tôn Thích-ca-mâu-ni, và Đại Long Mục-chơn-lân-già, khi dâng cung điện cúng dường đến đức Thế tôn Thích-ca-mâu-ni cũng dâng lời tác bạch như vậy.

Nhờ thực tập hạnh cúng dường như vậy, mà các đại Long vương Ka-la và Mục-chơn-lân-già đã biến Ba pháp Quy y từ một đời, trở thành nhiều đời và trở thành vô lượng kiếp; và cũng nhờ thực tập hạnh cúng dường như vậy, mà biết được tự mình có Phật tính; cho nên không những chỉ biết quy y Tam bảo bên ngoài mà còn biết quay về quy y Tam bảo ở chính nơi tự tâm.

Nên, Quy Y Phật bên ngoài, khiến chúng ta có đủ điều kiện để quay về nương tựa Phật bên trong của chúng ta. Quy y Phật bên trong tâm chúng ta, gọi là Tự Quy Y Phật. thực hành Pháp bên ngoài như, Cúng dường, Bố thí, Tứ niệm xứ, Tứ Chánh cần, Tứ như ý túc, Ngũ căn, Ngũ lực, Thất Bồ đề phần, Bát Chánh đạo phần, nhờ thực tập các Pháp đó mà chúng ta quay về được với Pháp thanh tịnh, giải thoát ở trong tự tâm của chúng ta, cho nên gọi là tự Quy Y Pháp, nhớ chưa? nhờ Lạy Phật bên ngoài để thấy Phật bên trong; nhờ tụng Kinh; nhờ niệm Phật, nhờ ngồi thiền, cho nên mình mới thấy cái Pháp thanh tịnh ở trong chúng ta, nên gọi là tự Quy Pháp, nhớ không? rồi nhờ cúng dường, thân cận các Bậc thiện sĩ, các Bậc A La Hán, các bậc Thánh giả, các bậc Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, các thiện hữu tri thức, ta nghe chánh pháp từ nơi các Ngài, rồi chúng ta quay về với thanh tịnh, hòa hợp thanh tịnh ở nơi tự tính của chúng ta, cho nên gọi là tự Quy Y Tăng, hiểu không?

Mình giữ Giới cũng để quay trở lại với Tam tự Quy Y, học bất cứ Pháp nào, hành bất cứ Pháp nào, cuối cùng cũng quay về với Tam tự Quy Y, chứ không gì khác hết, hiểu không? Và Đại chúng thấy rằng, khi mà mình quay về được với đức Phật trong tâm mình, thì mình bắt đầu sống có chủ quyền, ấy là chủ quyền của trí tuệ và chủ quyền của từ bi, chưa quay về được đức Phật ở trong mình, thì mình sống chưa có chủ quyền trí tuệ và từ bi.  Vì sao? Vì chưa có chủ quyền của trí tuệ, cho nên đôi khi mình nói sai, mình làm sai, mình nghĩ sai, có phải không? Và vì chưa có chủ quyền của từ bi cho nên lời nói của mình sai,, hành động sai, ý nghĩ sai. Mình nói, nghĩ và làm sai, thì ai khổ? Mình khổ, chứ ai khổ? mình nghĩ sai, thì mình khổ, mình nói sai thì mình khổ, mình làm sai thì mình khổ, mà đâu phải chỉ có một mình mình khổ, mà Mẹ mình cũng khổ, nghe không mấy bà Mẹ? con mà làm sai đâu chỉ có con khổ, mẹ khổ, mà mấy vị làm cha, làm bố cũng khổ, phải không mấy vị làm cha, làm bố? Cho nên, chúng ta tu tập mà chưa quay lại được với chính mình, thì mình còn rong đuổi tìm cầu cái bên ngoài, mà càng tìm cầu cái bên ngoài thì càng sa lầy vào những cái lưới bẫy của các ma quân, bởi vì ma quân giăng bẫy khắp nơi, mà mình không có trí tuệ thì mỗi bước chân của mình sa vào lưới bẫy của ma quân, mỗi hành động của mình rơi vào lưới bẫy của ma quân, mỗi lời nói của mình là rơi vào bẫy lưới của ma, mà khi đã rơi vào bẫy của ma rồi, thì chúng ta vĩnh viễn làm nô lệ cho ma quân đời đời, nhớ chưa? Như vậy, chúng ta phải tu học như thế nào mà từ Quy Y Phật Pháp Tăng đạt tới Tự Quy Y Phật, đạt tới Tự Quy Y Pháp, đạt tới Tự Quy Y Tăng, và khi nào chúng ta đạt tới Tam Tự Quy Y như vậy, thì trong đời sống hàng ngày của chúng ta mới là người có chủ quyền, nghĩa là có chủ quyền về trí tuệ, có chủ quyền về từ bi, chúng ta có chủ quyền về đời sống cao thượng, chúng ta có chủ quyền về đời sống cao đẹp của một Tăng sĩ, của một hàng Cư sĩ, để cùng nhau tuyên dương Chánh Pháp của đức Thế tôn, quý vị nhớ chưa?

Như vậy, quý vị tham dự khóa tu này để làm gì? Hãy nói mau! Tham dự khóa tu này không phải là vì danh, không phải là vì lợi, mà chúng ta tham dự khóa tu này để lấy lại chủ quyền của chúng ta đã bị đánh mất, bởi tham dục tầm thường của thế gian này. Những tham dục này đang quyến rủ chúng ta, chúng ta hãy phủi nó như phủi bụi. Chúng ta quay về với ba Pháp hành Tam Quy Y và Tam tự Quy Y, là chúng ta lấy lại chủ quyền mà chúng ta đã bị vô minh tà kiến cướp mất.

Chúng ta có tu tập như vậy, thì sau khóa tu này chúng ta mới lớn lên, nếu không có tu tập theo Pháp Tam Tự Quy, thì tu mấy chúng ta cũng không lớn, cũng không có chủ quyền. Lúc nào, ở đâu chúng ta thực hành Pháp Tam Tự Quy, thì ngay đó ta trở thành người lớn, người lớn ở trong Phật Pháp, bởi vì người lớn không cần ai nhắc nhở, không cần ai hướng dẫn mà người đó ở đâu là cõi Phật trang nghiêm ở đó. Thực hành pháp Tam Quy Y, thì có Thầy nhắc nhở, nhưng thực hành pháp Tam Tự Quy Y, thì tự mình trang nghiêm lấy chính mình, không cần ai nhắc nhở nữa, cho nên tu tập đạt tới Tam Tự Quy Y, thì đạt tới cái văn minh cao nhất của thế giới loài người  vậy.

Khi mọi người đã tu tập đạt tới Tam Tự Quy Y rồi, thì thế gian này không cần công an, không cần quân đội, không có nhà tù, bởi vì công an, quân đội do mọi người chưa đạt tới pháp Tam Tự Quy Y, nên cần phải có những vị đóng vai trò đó để bảo vệ cái chung, để trang nghiêm cái chung, còn khi mọi người tu tập đạt tới Tam Tự Quy Y rồi, thì chính người đó ở đâu cũng trang nghiêm lấy bản thân họ, họ tự trang nghiêm lấy gia đình họ, họ tự trang nghiêm lấy cái tự viện của họ, họ tự trang nghiêm lấy cuộc sống của họ, và chính sự trang nghiêm đó là trang nghiêm cao nhất mà chúng ta tu học cần phải đạt tới, nhớ không?

Cho nên, quý vị biết rằng, tham dự khóa tu này rồi, quý vị phải thực tập Pháp Tam Quy Y và Pháp Tam Tự Quy  cho tích cực, cho tha thiết. Mỗi buổi sáng, sau khi thức dậy, đứng trước bàn thờ Phật, tự mình nói với chính mình, nguyện thực hành Pháp Tam Quy Y và Pháp Tam Tự Quy, trước khi làm bất cứ làm công việc gì trong ngày.

Quý vị tự nói rằng: “Con Quy Y Phật, nguyện đời đời kiếp kiếp không quy y Trời, Thần, Quỷ, Vật;

Con Quy Y Pháp, nguyện đời đời kiếp kiếp, không quy ngoại đạo, tà giáo;

Con Quy Y Tăng, nguyện đời đời kiếp kiếp, không quy y bè bạn xấu ác.

Ngày nay, con nguyện thọ trì năm Giới thanh tịnh”.  (lạy xuống ba lạy).

“Ngày nay, con làm được những gì tốt đẹp, con nguyện xin hồi hướng cho mọi người và những gì không tốt đẹp, con nguyện xin Sám hối, nguyện nỗ lực khắc phục”. (Lạy xuống ba lạy).

Thực tập nư vậy xong, ai làm chi thì làm nấy, ai làm Vua thì lo làm Vua, ai làm Tổng thống thì lo làm Tổng thống, ai làm Thủ tướng thì lo làm Thủ tướng, ai làm Bộ trưởng thì lo làm Bộ trưởng, mà ai làm Dân thì lo làm Dân, cứ làm công việc của mình cho tốt, trên nền tảng ba Pháp Quy Y và năm Giới      

Trước khi đi ngủ, cũng đến trước bàn Phật và nói: “Con Quy Y Phật, Con Quy Y Pháp, Con Quy Y Tăng”.

“Con Quy Y Phật, nguyện đời đời kiếp kiếp, không quy y Trời, Thần, Quỷ, Vật;

Con Quy Y Pháp, nguyện đời đời kiếp kiếp, không quy y ngoại đạo tà giáo

Con Quy Y Tăng, nguyện đời đời kiếp kiếp, không quy y bè bạn xấu ác”.

Ngày nay, con làm được điều gì tốt đẹp, con xin hồi hướng cho Cha mẹ chúng con, cho những người Thân yêu của chúng con, cho Tổ tiên của chúng con, cho Giang sơn tổ quốc của chúng con, cho mọi người và muôn loài và đêm nay cho con có giấc ngủ ngon lành, không mộng mị, rồi niệm hai mươi mốt biến danh Phật A Di Đà và ngủ. Niệm cho rõ ràng. Miệng xưng niệm danh hiệu; tai lắng nghe danh hiệu; ý ôm lấy danh hiệu và ý thức rất rõ ràng từng danh hiệu.

Niệm Phật như vậy, cho đến hai mươi mốt biến và trước khi chấm dứt lời niệm Phật thì mình nói: “cho con đêm nay ngủ giấc ngủ ngon lành, và khi kết thúc sinh mệnh, thì cho con vãng sanh về thế giới tịnh độ của Phật A Di Đà.

Như vậy, đại chúng thấy người Đệ tử Phật mở mắt ra là mình đã có Tam Bảo, mở mắt ra mình đã có đức Phật Thích Ca Mâu Ni vị Bổn sư của chúng ta chỉ lối đưa đường, và khi ngủ nhắm mắt lại, chúng ta có đức Phật A Di Đà để chúng ta trở về trong giấc ngủ bình yên, trong giấc ngủ tạm thời bình yên, trong giấc ngủ vĩnh viễn bình yên.

Cho nên, giữa này việc ai bơ vơ là nghiệp chủng của họ, còn Phật tử thì không được bơ vơ, Phật tử không được than thở, Phật tử thì không có trách móc, trách chi nữa? móc chi nữa? mở mắt ra buổi sáng mình đã có Thầy chỉ lối đưa đường, tối về mình cũng có Thầy chỉ lối đưa đường và ru cho mình ngủ và ngủ một giấc ngon, sáng mai còn duyên thì tỉnh dậy, tiếp tục những gì mình cần tiếp tục mà không còn duyên với cõi này thì mình đi luôn, đi đâu? đi theo ước nguyện của mình.

Cho nên, ngủ mà không có ước nguyện thì lỡ ra mình ngủ thẳng luôn, là không đi theo ước nguyện mà đi theo nghiệp lực. Quý vị nên biết rằng, đi theo nghiệp là đi theo cái không có chủ quyền trong đời sống của chúng ta, đi theo nghiệp là chúng ta hoàn toàn bị thụ động trong cuộc sống, ta bị thụ động bởi cái bị sinh, bị già, bị bệnh, bị chết; thương yêu mà bị xa lìa; oán đối mà bị gặp gỡ; mơ ước mà bị không thành, cầu hoài, cầu mãi mà không được rồi bị thân năm uẩn này ngày đêm xung đột, mâu thuẫn tạo ra các khổ thọ, cái khổ đó là đi từ cái nghiệp của chúng ta.

Bây giờ đây chúng ta tu, ta nguyện chuyển hóa cái nghiệp trở thành ra nguyện. Cho nên, ngủ dậy chúng ta đã nguyện Quy Y Phật Pháp Tăng, nguyện làm điều lành rồi và nhớ lời của đức Phật Thích Ca Mâu Ni rồi, lỡ ra ta đi ra đường mà xe tông chết, thì mình vẫn đi theo nguyện đó, mà đi theo với Phật. Nếu ngủ dậy mà ta không nhớ làm việc đó, thì đi ra đường xe tông chết là đi nghiệp, cho nên bị tái sinh rồi, khổ đau lại tiếp theo.

Tối ngủ cũng nguyện Quy Y Phật, Pháp, Tăng và nguyện ngủ một giấc ngon lành, rồi nguyện xả thân này thì được sanh về Tịnh độ của Phật A Di Đà. Nếu ở trong đêm ấy lỡ ra có bị đột quỵ thì cũng đi theo nguyện ấy mà về Tây Phương.

Như vậy, trong thời pháp thoại này, trong khóa tu này, chúng tôi đã chia sẻ cho tất cả quý vị và cầu mong tất cả chúng ta, lấy lại chủ quyền của chúng ta đã bị vô minh, phiền não, nghiệp chướng cướp mất từ bao đời và đẩy chúng ta đi vào cõi sống chật hẹp bởi ngã tính, ngã tướng của thế gian này và để kết thúc buổi giảng này, tôi mong rằng, tất cả quý vị cùng với chúng tôi nguyện đời đời sinh ra ở đâu, lúc nào cũng làm được con Phật chứ không làm con của ai nữa.

Vì nếu có làm con Phạm Vương đi nữa, thì vẫn còn nằm trong sinh tử, mất chủ quyền; có làm con Thiên chúa Đế Thích đi nữa, thì cũng còn nằm trong sinh tử luân hồi, có làm con của Chuyển luân thánh Vương, cũng còn nằm trong sinh tử luân hồi; có làm con của quốc Vương, cũng nằm trong sinh tử luân hồi; và có làm con của đại gia đi nữa thì cũng nằm trong sinh tử luân hồi, chỉ có làm con Phật, phát nguyện làm con Phật, thì mới thoát ra khỏi sinh tử luân hồi, mới có cái thân này để tu hành khiến thân không tật bệnh, để có cái tâm này tu hành khiến tâm không phiền não, nên ở trong đời này ai là người hạnh phúc? Chỉ có một người thôi nghe, thế gian này chỉ có một người thôi nghe, đó là người thân không tật bệnh, tâm không phiền não, hàng ngày an vui tu tập, Pháp Phật nhiệm mầu để mau ra khỏi luân hồi. Nên, người ấy là người con của Phật.

Thưa Đại Chúng !

Chúng tôi rất vui, khi nghe Tổ tiên Việt Nam chúng ta có nói với chúng ta rằng: “Mỗi người mỗi nước mỗi non, bước vào cửa Phật như con một nhà”. Cho nên, khi chúng ta nguyện làm con Phật, thì người Đông hay người Tây, người Nam hay người Bắc, người Âu hay người Á, tất cả chúng ta đều là con một nhà, ngôi nhà gia đình tâm linh của chúng ta. Tuy không gian rộng lớn không thể nào đo lường được, nhưng mọi không gian đều là không gian của những người con Phật nguyện sống với nhau để tu tập. Thời gian tuy vô tận, nhưng tất cả mọi thời gian đều là thời gian của những con Phật phát nguyện tu hành sửa đổi tâm tính, cho nên thời gian nào cũng là thời gian hạnh phúc của người con Phật. Đối với mọi chủng loại chúng sanh, chủng loại nào cũng có Phật tính, cho nên chủng loại nào cũng có những đức tính dễ thương, để cho ta có thể đi tới với nhau và tùy theo cái chủng loại của mình mà giúp nhau tu học, cho nên chúng ta cùng nhau nguyện đời đời kiếp kiếp sinh ra ở đâu, cũng được làm bà con quyến thuộc trong ánh đạo từ bi, thực hành Chánh pháp, lợi lạc cho muôn loài chúng sinh, đó là lời chúng tôi kính chúc quý vị và cầu nguyện khóa tu thành công một cách tốt đẹp

Và bây giờ chúng ta, tôi là người nói Pháp, quý vị là người nghe Pháp, người nói Pháp mà không có người nghe thì Pháp thuyết cũng không thành. Người nghe Pháp mà không có người thuyết Pháp, thì Pháp cũng không thành. Trưa hôm nay, người nói Pháp, người nghe Pháp, chúng ta thâm nhập được Pháp và chúng ta nguyện thực hành pháp, để cho đời sống chúng ta ở đâu cũng có Pháp đưa lối chỉ đường, khiến cho chúng ta thay đổi từ đời sống thấp kém, trở thành đời sống cao thượng, khiến cho chúng ta thay đổi đời sống hệ lụy, thành đời sống tự do, khiến cho ta mở to đôi mắt, để nhìn thấy nhau, để cùng nhau đi trên con đường vui, tu học Chánh pháp, lợi lạc muôn loài chúng sinh.

Có bao nhiêu công đức tốt đẹp như vậy, chúng ta không để dành cho chúng ta mà chúng ta nguyện hiến tặng cho tất cả mọi người, muôn loài và để cho tất cả mọi người, muôn loài đều được ân triêm lợi lạc, đó là công phu và nguyện ước tu học của chúng ta.

Xin Đại Chúng đứng dậy, chúng ta hồi hướng.

“Nguyện đem công đức này, hướng về khắp tất cả, Đệ tử và chúng sinh, đều trọn thành Phật đạo”.

Lời của vị đại diện Đại chúng:

Thay lời toàn thể chư Tăng Ni và Phật tử pháp hội đạo tràng, chúng con xin thành kính đảnh lễ niệm ân những lời Pháp quý báu từ nơi Hòa thượng.

Quả thật, hơn một bài Pháp thông thường, bởi lẽ qua thời Pháp của Hòa thượng, chúng con còn được thiền tập, chúng con còn được nhận những pháp tinh yếu nhất, quan trọng nhất đối với Pháp học Pháp hành, ba Pháp Quy Y, năm Giới Pháp và nhất là Pháp Tam Tự Quy và chúng con còn được một thời kinh tụng, thật là mưa Pháp gội tắm tâm hồn chúng con, xin một lần nữa chúng con nguyện kính tri ân Hòa thượng và xin đồng phát nguyện “Y Giáo Phụng Hành”.

Nguyện Tam Bảo luôn gia hộ cho Hòa thượng được nhiều sức khỏe, an lành để hướng dẫn hàng Tăng Ni Phật tử chúng con tu học.

Nam Mô Chứng Minh Sư Bồ Tát Ma ha Tát

 

Đệ tử Trần Thị Phượng Liên – Nhuận Pháp Nguyên kính phiên tả

Sài gòn 28 tháng giêng năm Giáp Thìn, nhằm 09.03.2024.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
15/04/2024(Xem: 898)
Thù thắng thay, hoan hỷ thay, kính cảm niệm, cách điều hành Tu một ngày bát quan trai giới! Mỗi tháng một ngày, cho Phật Tử tại gia Gìn giữ trọn vẹn 8 giới Đức Phật đã chế ra (1) Phật tử còn ràng buộc gia duyên, cần phát nguyện, tinh tấn thực hành trọn vẹn(2) Sẽ tích lũy vô lượng công đức khi thực hiện ! Đặc biệt hôm nay 14/4/2024 nhân dịp chuyến du hành của HT Pháp Tông, trú trì chùa Huyền Không tại cố đô Huế /VN cũng là nhà Sư VIỆT NAM đầu tiên cũng là nhà sư nước ngoài đầu tiên được HOÀNG GIA THÁI LAN cúng dường TƯỚC HIỆU CAO QUÝ - CHAO KHUN (TĂNG CANG ĐỆ NGŨ PHẨM). Tu viện Quảng Đức đã dành cho các đạo hữu khoá tu bát quan trai một sự lợi lạc hoan hỷ vô cùng khi mời được HT Pháp Tông đến với bài pháp thoại chủ đề “Phật học tu tập” và sau đó là những câu hỏi của quý đạo hữu đã trải nghiệm và có chướng ngại gì để cùng Ngài thảo luận. Thù thắng thay, hoan hỷ thay, kính cảm niệm, cách điều hành Tu một ngày bát qua
11/04/2024(Xem: 459)
Lịch trình thuyết giảng của Hòa Thượng Pháp Tông tại Úc (tháng 4 năm 2024)
24/03/2024(Xem: 520)
Từ khi con có cơ duyên thính pháp và trình pháp với nhiều bậc đại giảng sư quảng bác, đa văn, thể nghiệm Phật Pháp được nhiều năm nay, con vẫn nghĩ rằng Pháp Đàm thật ra khó hơn Pháp thoại rất nhiều vừa cho giảng sư vừa cho người thính pháp vì rằng buổi pháp đàm ấy thường phải tuỳ thuộc rất nhiều về những câu hỏi của MC và những người nghe pháp vì đòi hỏi XỨ, CƠ, THỜI GIÁO ( có nghĩa là đề tài trình giảng có phù hợp với sự đòi hỏi của chủ nhiệm muốn mở mang xây dựng, có phù hợp với căn cơ đối tượng mà tuỳ bịnh cho thuốc, có phù hợp với thời đại4.0 công nghệ hiện nay không, và cuối cùng giảng sư có giúp người nghe nâng cao Chánh kiến và hiểu rõ chủ đề hơn thêm không)
20/03/2024(Xem: 723)
Lời đầu tiên kính xin được chúc mừng đến quý đạo hữu trong đạo tràng ĐGĐQĐ đã tham dự ngày thọ bát quan trai 17/3/2024 và đã có sự an lạc và phước báu vô cùng khi thu thập được 5 lợi ích của sự nghe pháp đến từ những bậc cao tăng, rất uyên bác và đầy khiêm tốn mà người viết thấy đúng với một câu danh ngôn mà mình đã học -“Khi một người khiêm tốn, đó là lúc người ấy tiến gần đến sự vĩ đại." Tagore Hơn thế nữa chủ đề của buổi pháp thoại hôm nay khi được thông báo là KHUYẾN TU, tự nó có ý nghĩa rất phổ quát, có nghĩa là qua buổi giảng pháp, quý Thầy đưa đến cho các Phật tử những lời góp ý chân thành, từ một người đi trước dày dặn kinh nghiệm sẽ là kim chỉ nam giúp ta tỉnh táo, sáng suốt, thay đổi bản thân và đi đúng đường và chắc chắn mang đến sự thay đổi kỳ diệu cho cuộc sống, trên phương diện đạt đến vạch đích an lạc thân tâm mọi thời mọi lúc.
18/03/2024(Xem: 338)
Tôi rất vui, khi bước vào đây, bước vào đây và biết được rằng, ở nơi đây có chúng xuất sĩ Nam ở trú xứ Trời Quang và Giới xuất sĩ Nữ ở trú xứ Trăng Tỏ. Trời mà không quang, làm sao chúng ta thấy mặt nhau, cho nên chúng ta thấy mặt nhau, ta hỗ trợ nhau tu học trong tinh thần thương thân, tương ái; trong tinh thần của tình huynh đệ; trong chí nguyện Bồ Đề. Nếu chúng ta không có Trời Quang thì lấy gì để mà tương thân tương ái, khi chúng ta sống quá nhiều lầm lỗi trong dòng chảy vô minh, tham ái, chấp ngã, chấp Pháp và trời không quang, lấy gì mà trăng tỏ? Cho nên, Trăng tỏ được là từ nơi Trời quang. Tuy, Trời quang Trăng tỏ, nhưng đâu ra đó. Trời quang có thể tính, có tác dụng, có hiệu quả của Trời quang; Trăng tỏ có nhân duyên, có tác dụng của Trăng tỏ.
09/03/2024(Xem: 982)
Kính dâng đến HT Thích Thông Trí cùng quý đạo hữu vài vần thơ cảm tác từ bài pháp thoại Đích đến mọi pháp môn của Phật giáo vẫn là “ giải thoát sinh tử “! Từ khi tịnh độ ra đời …. Niệm Phật tín thành và phát nguyện cầu vãng sanh Riêng Thiền Tông, muốn bước vào phải qua được cửa Không Là Trí tuệ Bát Nhả thấu hiểu “muôn pháp thế gian chỉ là gá hợp, giả huyễn” Nên “ Sinh ư nghệ, tử ư nghệ” chỉ do tịnh hoá nghiệp được chuyển !
08/03/2024(Xem: 854)
Chúng ta sinh ra làm người đã là khó, xuất gia lại càng khó hơn. Nhưng xuất gia rồi lại được học Phật, học Phật rồi lại được chiêm nghiệm lời Phật dạy và sau khi chiêm nghiệm lời Phật dạy rồi, thấy pháp học này, pháp hành này thích ứng với chúng ta và chúng ta đưa pháp học, pháp hành đó ứng dụng vào trong đời sống của chúng ta lại là rất khó. Và khó hơn nữa là chúngta ứng dụng pháp học pháp hành ấy vào trong đời sống chúng ta mà dục lậu, hữu lậu, vô minh lậu trong tâm thức ta hoàn toàn lắng yên, tịch lặng, khiến cho hết thảy điều ác từ nơi thân khẩu ý không còn có điều kiện để biểu hiện, khiến cho tất cả những điều thiện luôn luôn biểu hiện nơi thân ngữ ý của chúng ta lại là rất khó. Và khó hơn nữa, là chúng ta luôn luôn giữ tâm ý thanh tịnh đúng như lời Phật dạy, đó là thiên nan vạn nan trong đời sống tu học của chúng ta
07/06/2023(Xem: 2598)
June 4, 2023 - Wisdom of Emptiness - Vietnamese Version
15/05/2023(Xem: 2071)
Tám Từ Thay Đổi Cuộc Đời của Bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567