Nguyễn Khuyến
Nhà thơ Nguyễn Khuyến tên thật là Nguyễn Thắng, hiệu là Quế Sơn, tự là Miễu Chi. Ông sinh ngày 15/02/1835 (tức ngày 18 tháng Giêng năm Ất Mùi), tại quê ngoại là làng Văn Khế, xã Hoàng Xá, huyện Ý Yên, tỉnh Hà Nam nay thuộc huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định. Quê nội của nhà thơ ở làng Vị Hạ, xã Yên Đổ này là xã Trung Lương, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam.
Nhà thơ Nguyễn Khuyến là con trai của cụ Nguyễn Tông Khởi và mẹ là Bà Trần Thị Thoan. Có thể nói ông xuất thân trong một gia đình nhà nho nghèo. Hai bên gia đình đều có truyền thống khoa bảng. Bố ông đỗ 3 khóa tú tài và làm nghề dạy học, mẹ ông nguyên là con của Trần Công Trạc, từng đỗ tú tài thời Lê Mạc.
Thuở nhỏ, Nguyễn Khuyến học với cha mình cho đến năm lên 8 tuổi ông theo gia định về quê nội ở Bình Lục để sinh sống. Nguyễn Khuyến được biết là một người thông minh, hiếu học. Năm 1864 ông đỗ đầu cử nhân.
Năm sau tức năm 1865, ông thi trượt kỳ thi Hội, nên tu chí ở lại kinh đô học tại Trường Quốc Tử Giám đổi tên từ Nguyễn Thắng thành Nguyễn Khuyến với hàm ý phải nỗ lực hơn nữa.
Đến năm 1871, ông mới thi đỗ Hội Nguyên và Đình Nguyên. Kể từ đó Nguyễn Khuyến thường được gọi là Tam Nguyên Yên Đổ.
Vào năm 1873, ông được bổ làm Đốc Học, rồi thăng Án Sát tại tỉnh Thanh Hóa. Đến năm 1877, nhà thơ Nguyễn Khuyến được thăng làm Bố Chính tỉnh Quảng Ngãi. Năm sau đó, ông bị giáng chức và được điều về Huế được giữ chức quan nhỏ với nhiệm vụ toản tu Quốc Sử Quán. Năm 1884 Ông cáo quan về quê Yên Đổ và ông qua đời ở đây.
Nhà thơ Nguyễn Khuyến được biết đến là một vị quan có phẩm chất trong sạch, mặc dù làm quan nhưng ông nổi tiếng là người rất thanh liêm, chính trực. Nhiều những giai thoại kể về đời sống và những gắn bó của ông với nhân dân.
Hoàn cảnh lịch sử thời nhà thơ Nguyễn Khuyến
Nguyễn Khuyến ra làm quan giữa lúc nước mất, nhà tan. Thời gian này, triều đại nhà Nguyễn đang ở giai đoạn lụi tàn. Cơ đồ của nhà Nguyễn gần như sụp đổ hoàn toàn nên giấc mơ trị quốc bình thiên hạ của ông không thực hiện được.
Ở giai đoạn này, Nam Kỳ rơi vào tay thực dân Pháp và đến năm 1882 quân Pháp bắt đầu tiến đánh Hà Nội. Vào Năm 1885, thực dân Pháp lại tấn công vào kinh thành Huế. Kinh thành nhà Nguyễn bị thất thủ, Tôn Thất Thuyết nhân danh vua Hàm Nghi xuống chiếu Cần Vương, kêu gọi nhân đứng lên đấu tranh, phong trào được hưởng ứng khắp nơi. Nhưng cuối cùng Phong trào Cần Vương tan rã.
Có thể nói, nhà thơ Nguyễn Khuyến sống giữa một thời kỳ mà các phong trào đấu tranh yêu nước thời bấy giờ, phần lớn các phong trào đấu tranh yêu nước đều bị thực dân, đế quốc dập tắt.
Nhà thơ Nguyễn Khuyến thời gian này cảm thấy bất lực vì không thể làm được gì để có thể thời đổi được thời cuộc lúc bấy giờ nên ông xin cáo quan về ở ẩn.
Nhà thơ không chỉ là một tâm hồn Việt Nam tiêu biểu. Ông còn được coi là một nhân cách Việt Nam tiêu biểu thời bấy giờ, cái thời đại mất nước, con người dân tộc Việt Nam bị chà đạp, đói rét, lầm than. Về ở ẩn nơi làng quê nhưng ông vẫn giữ được cái gọi là khí tiết, phẩm chất của một người yêu nước chân chính và hòa mình cùng với nhân dân.
Ông là một trong những nhà thờ đau với nỗi đau của nhân dân, ông buồn vì sự nghèo đói của họ, nhưng ông càng đau đớn hơn khi nhìn thấy cảnh đất nước bị dày xéo và cảm thấy day dứt nỗi đau của một người ưu thời mẫn thế.
“Nghĩ chuyện đời xưa cũng nực cười,
Sự đời đến thế, thế thời thôi!
Rừng xanh núi đỏ hơn nghìn dặm,
Nước độc ma thiêng mấy vạn người.
Khoét rỗng ruột gan trời đất cả,
Phá tung phên giậu hạ di rồi.
Thôi thôi đến thế thời thôi nhỉ,
Mấy trắng về đâu nước chảy xuôi.”(Huệ Hương ST)