Hoà Thượng thế danh Diệp Quang Tiền, pháp danh Tâm Khai, tự Thiện Giác, hiệu Trí Ấn Nhật Liên.
Ngài sanh ngày 13 tháng 10 năm Quý Hợi (1923) tại thôn Xuân Yên, xã Triệu Thượng, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị, trong một gia đình thâm tín Phật Giáo.
Thân phụ là cụ Diệp Chí Hoan; thân mẫu là cụ bà Phan Thị Đường. Hai cụ sinh hạ được 5 người con : 4 nam, 1 nữ - Ngài là con thứ trong gia đình, sau anh trưởng là Thầy Diệp Tôn (Thích Thiện Liên).
Năm lên 6 tuổi (1928) gia đình Ngài dời về thôn Diên Sanh, xã Hải Thọ, huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị. Thân sinh Ngài đã rước thầy Đồ Nho danh tiếng về nhà để dạy chữ Hán cho hai con. Hai anh em Ngài thường được cụ Đồ khen là thông minh, hứa hẹn một tương lai tốt đẹp.
Năm lên 10 tuổi (1932), Ngài theo học Việt Văn tại thôn Diên Sanh.
XUẤT GIA :
Vốn có túc duyên với Phật Pháp, năm 13 tuổi (1935) Ngài cùng anh trưởng, được sự đồng ý của song thân và dưới sự dìu dắt của Thúc Phụ cũng là Sư Thúc, Hòa thượng Thích Đôn Hậu, xuất gia theo Hòa thượng Thích Giác Nguyên Trụ trì Chùa Tây Thiên Di Đà tại Huế. Hai anh em Ngài được Hòa Thượng truyền thọ Tam Quy Ngũ Giới, đồng thời làm lễ thế độ xuất gia và cho Ngài pháp danh: Tâm Khai, tự Thiện Giác, anh trưởng pháp danh: Tâm Hoa, tự Thiện Liên.
Đương thời, ở Việt Nam, phong trào chấn hưng Phật giáo đang lên cao. Tại miền Nam, có Hội Nam kỳ nghiên cứu Phật học, thành lập năm 1930, trụ sở đặt tại Chùa Linh Sơn - Sài Gòn, và xuất bản tạp chí Từ Bi Âm tại Huế, có Hội An Nam Phật Học (sau này đổi tên là Hội Việt Nam Phật học), thành lập năm 1932, xuất bản nguyệt san Viên Âm, và mở trường Sơ Đẳng Phật Học tại Chùa Trúc Lâm, sau dời về Chùa Báo Quốc Huế. Tại miền Bắc, có Bắc Kỳ Phật Giáo Hội, thành lập năm 1934, trụ sở đặt tại Chùa Quán Sứ Hà Nội và xuất bản báo Đuốc Tuệ. Được xuất gia trong phong trào lịch sử đó, nên chỉ sau một thời gian ngắn nhập đạo, Ngài đã được Hòa Thượng Bổn Sư cho tòng học tại Sơ đẳng Phật Học đường, do Hòa Thượng Thích Trí Độ làm Đốc giáo. Những bạn đồng học cùng Ngài bấy giờ là các Hòa Thượng Thiện Siêu, Trí Quang, Thiện Minh v.v… ngày nay.
HỌC ĐẠO :
Được song thân cho theo đuổi nghiệp đèn sách ngay từ ngày còn thơ ấu, và với tư chất thông minh, tinh thần hiếu học sẵn có, lại được sự tận tâm ân cần dạy bảo của Hòa Thượng Đốc giáo, nên sự học vấn của Ngài rất chóng tiến bộ, và trong kì thi cuối niên học đầu tiên, với đề tài giáo lý "Năm thời thuyết pháp của Đức Phật" Ngài được xếp vào hạng ưu.
Năm 18 tuổi (1940), Ngài theo học tại Phật Học Đường Tây Thiên do Sơn môn Tăng Già Thừa Thiên Huế (tiền thân của Giáo hội Tăng Già sau này) thành lập. Cùng năm Ngài được Hòa Thượng Bổn sư cũng là Hòa Thượng Đường Đầu, truyền thọ Giới Sa Di tại Giới Đàn Chùa Tây Thiên.
HÀNH HOÁ :
Năm Ngài 22 tuổi (1944) sau khi tốt nghiệp tại Phật Học Đường Tây Thiên, Ngài được cử vào giảng dạy tại Thích Học Đường của Hội Lưỡng Xuyên Phật Học tại tỉnh Trà Vinh.
Năm 23 tuổi (1945) Ngài nhận lời mời của Sơn Môn Tăng Già tỉnh Bình Thuận, giảng dạy Phật pháp tại Chùa Phật Quang (Chùa Cát), Phan Thiết
Năm 24 tuổi (1946) vì tình hình chính trị trong nước xáo trộn, nên Ngài trở về trú tại Chùa Long An thuộc liên thôn Xuân Yên–Nhan Biều, huyện Triệu Phong là ngôi Chùa của gia tộc Ngài. Ngài nhận lời mời của Tỉnh Hội Phật Giáo Quảng Trị làm Giảng Sư của Tỉnh hội. Đồng thời, Ngài cùng các vị trong Sơn môn Tăng già Quảng Trị thành lập Phật học đường Quảng Trị đặt tại Chùa Long An.
Đầu năm 1947, quân Pháp tái chiếm Quảng Trị, Ngài về ẩn cư tại Chùa Diên Thọ, thuộc thôn Diên Sanh, huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị. Tại đây Ngài hoạt động đả phá Tổ chức Phật Giáo Thiền Lữ (thân Chính), và cùng Huynh trưởng là Thầy Thiện Liên hoạt động phục hồi Sơn môn Tăng già Quảng Trị trước sự tổ chức rầm rộ, ồ ạt của phái Thiền Lữ.
Năm 28 tuổi (1950), Ngài rời Quảng Trị vào Huế ở tại Chùa Tây Thiên hầu cận Bổn sư, sau qua Chùa Linh Mụ phụ tá cho Hòa Thượng Sư Thúc, trông nom sinh hoạt của Chùa, vì Hòa Thượng thường xuyên đi giảng dạy các trường Phật học tại Huế.
Trong lúc đó, tình hình Phật Giáo ở miền Nam đang bước đầu phát triển. Cuối năm, Ngài được phép của Bổn Sư và Sư Thúc rời Huế vào Sài Gòn hợp tác với Quý Thầy ở Phật Học Đường Nam Việt. Ban đầu trụ sở đặt tại Chùa Sùng Đức –Chợ Lớn, sau dời về Chùa Ấn Quang - Sài Gòn.
Nguyên ngôi Chùa Ấn Quang tên cũ là Ứng Quang do Hòa Thượng Thích Trí Hữu sáng lập và Hòa Thượng đã phát nguyện cúng cho Quý Thầy ở 3 Phật Học Đường là Liên Hải –Mai Sơn –Ứng Quang, kể cả Hòa Thượng Thiện Hòa và Ngài là 7 vị, để có cơ sở làm Phật sự chung. Sau khi 3 Phật học đường này hiệp nhất, lấy danh hiệu là Phật Học Nam Việt, do sự vận động của nhị vị Hòa Thượng Trí Quang và Thiện Minh (1950). Khi Ngài hợp tác với Quý Thầy, Ngài đã đề nghị đổi tên Chùa Ứng Quang thành Ấn Quang theo ý nghĩa Tổ Ấn Trùng Quang. Ngài cũng đề nghị đổi khuôn dấu của Phật học đường Nam Việt (bằng Hán tự) thành Nam Việt Phật Học Đường ….
- Về mặt giáo dục, Ngài nhận lãnh chức vụ Cố vấn kiêm Giáo thọ Phật Học Đường, các học Tăng do Ngài hướng dẫn lúc bấy giờ là các Hòa Thượng : Từ Thông, Huyền Vi, Thiền Định, Thanh Từ v…v… ngày nay.
- Cũng trong thời gian này, Ngài tham gia Hội Phật Học Nam Việt (Chùa Xá Lợi ngày nay) giữ chức Đệ nhất Cố vấn Ban Quản trị Trung Ương Hội, kiêm chủ biên Tạp chí Từ Quang, cơ quan Hoằng pháp của Hội trong buổi đầu.
- Năm 29 tuổi (1951), Hội nghị thống nhất Phật Giáo Việt Nam họp tại Chùa Từ Đàm Huế để thành lập Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam (tiền thân của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất sau này). Ngài là một trong số 51 vị Đại biểu Phật giáo toàn quốc và là một trong 7 thành viên của Phái đoàn Phật giáo Nam Việt.
- Cùng năm đó, Ngài vận động thành lập Giáo Hội Tăng Già Nam Việt và giữ chức vụ Tổng thư ký sáng lập Hội, trụ sở đặt tại Chùa Hưng Long, sau đó dời về Chùa Ấn Quang.
- Năm 30 tuổi (1952) Ngài tấn đàn thọ Cụ Túc Giới, tại Giới đàn Chùa Ấn Quang, do Hòa thượng Thích Đôn Hậu làm Hòa thượng Đường đầu. Các Giới tử đồng thọ giới với Ngài lúc bấy giờ là Thầy Nhất Hạnh, Thầy Thiện Tấn (bào huynh của Thầy Nhất Hạnh), v. v…
- Năm 31 tuổi (1953) Ngài vận động tổ chức Đại hội Tăng Già Nam Việt; Đại hội được mở tại Chùa Ấn Quang, và lần đầu tiên có hơn 500 Tăng Ni và đông đảo đồng bào Phật tử khắp miền Nam tham dự. Đại hội suy tôn Hòa thượng Thích Huệ Quang, nguyên Tổng lý Hội Lưỡng Xuyên Phật Học Trà Vinh lên ngôi Pháp Chủ Phật Giáo Nam Việt. (Trong Đại hội này, Ban Quản Trị và Ban Hộ Trợ Phật Học Đường Nam Việt đã đóng một vai trò rất quan trọng).
- Cũng trong năm này, dư luận quần chúng Phật tử xôn xao về loạt bài đăng trên Báo "Thần Chung" (Tìm hiểu Phật Giáo Việt Nam) của tác giả Đoàn Trung Còn. Mục đích của bài này không phải thật sự tìm hiểu, màø là xuyên tạc sự thật, gán cho những người hoạt động cho Phật Giáo Thống Nhất bấy giờ là những kẻ tha phương cầu thực, làm Chính trị, phỉ báng Đức Bồ Tát Quán Thế Âm v.v…, và đề cao Tổ chức Lục Hòa Tăng Nam Việt, cho Tổ Chức này là chính thống. Để cho quần chúng Phật tử, cũng như không phải là Phật tử tại miền Nam hiểu rõ về Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam, Ngài đã viết loạt bài "Người học Phật phải tôn trọng sự thật" đăng trên Báo "Dân Ta" để trả lời. Khi loạt bài của Ngài xuất hiện, mọi người mới hiểu rõ là Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam mà Giáo Hội Tăng Già Nam Việt vàø Hội Phật Học Nam Việt là 2 Tập đoàn Tăng Già, Cư sĩ trong số 6 Tập đoàn của Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam cả nước.
- Năm 32 tuổi (1954) Ngài nghỉ việc tại Phật Học Đường Nam Việt; hai lần vân du sang Cao Miên, mở Lớp bồi dưỡng Giáo lý và mở Khóa Huấn luyện Trú trì cho Tăng Già Việt Kiều tại Chùa Kim Chương ở Nam Vang.
- Năm 33 tuổi (1955) do Thỉnh Nguyện thư đề ngày 25/11/1955 của vị nguyên Hội trưởng Vientiane Phật Giáo Hội (Hội Phật Giáo Việt Kiều) tại thủ đô nước Lào, ông Trịnh Văn Phú và Đại Đức Trú trì lâm thời Chùa Bàng Long –Vientiane Thích Thiện Liên (vị Sư du phương Hoằng hoá và đã đem hết tâm lực, vận động thu hồi ngôi Chùa Bàng Long đã bị người bản xứ chiếm ở 1945), gởi Giáo Hội Tăng Già Trung Việt tại Huế, thỉnh cầu Giáo Hội cử cho một vị Tăng Già đức độ đảm nhiệm Phật sự Phật Giáo Việt Nam tại Lào. Ngài đã được Giáo hội cung cử ủy nhiệm đảm trách Phật sự quan trọng ấy. Tại Lào, Ngài được toàn thể Chư tăng và Phật tử Việt Kiều suy tôn lên ngôi Đạo Thống Phật Giáo Việt Nam tại Lào, kiêm Trú trì Chùa Bàng Long. Với một trọng trách mới, Ngài đem hết tâm lực, xiển dương Phật pháp, thiết lập hệ thống Phật Giáo Việt Nam tại Lào từ cấp Trung Ương xuống các cấp Tỉnh, Thành; Tại Trung Ương có Tòa Đạo Thống và Viện Hành Pháp Trung Ương. Tại các Tỉnh, Thị, đông đảo Phật tử Việt Kiều cư trú, có Ban đại diện Phật giáo Tỉnh.
- Nhơn duyên Phật pháp đưa đẩy, tiếp theo bước chân của Ngài, có các Hòa thượng Quảng Thiệp, Hòa thượng Thanh Tuất, Hòa thượng Trung Quán, kẻ trước người sau từ Sài Gòn sang Lào, cộng trú tại Chùa Bàng Long. Kể từ đó, hệ thống Phật Giáo Việt Nam tại Lào phát triển lớn mạnh. Hòa Thượng Thanh Tuất xây dựng Chùa Phật Tích tại Luangprabang, tiếp theo Hòa thượng Trung Quán tiếp tục mở mang rộng lớn thêm.
- Năm 38 tuổi (1960) với sự hợp lực của Hòa thượng Trung Quán, Ngài phát nguyện sùng tạo Chùa Bàng Long với quy mô rộng lớn, thành lập Phật Học Viện Huyền Quang, Ni bộ Đại Thừa Phật Giáo Việt Nam tại Chùa Bàng Long. Những năm kế tiếp, Ngài đứng ra tu sửa ngôi miếu thờ Phật tại nghĩa địa Việt Kiều VienTiane cũ thành am Phật tích, về sau trở thành Ngôi Chùa của Ni Chúng - Tạo mãi, thiết lập nghĩa trang Phật Giáo (gọi là Thánh địa Phật Giáo), xây dựng Chùa Đại Nguyện tại nghĩa trang. Ngài cũng cho trùng tu Chùa Bảo Quang (Chùa Tăng) và Chùa Diệu Giác (Ni) tại SavannaKhét với quy mô rộng lớn. Trùng tu Chùa Long Vân tại Paksé, Chùa Bồ Đề tại Thà Khẹt v.v… Bước chân của Ngài đi đến đâu, Ngài đều trang nghiêm Phật cảnh, tiếp Tăng độ Chúng và hướng dẫn đồng bào Phật tử sống theo đúng đường hướng giáo lý của Đức Phật.
- Do những hoạt động Phật sự của hệ thống Phật Giáo Việt Nam tại Lào phát triển mạnh mẽ. Do những xung đột giữa nhiều thế lực thù địch và tình hình chiến tranh cục bộ đương thời, cộng thêm những sự việc vừa kể trên, Ngài bị tình nghi là khuynh Cộng, hoạt động cho Cộng sản Việt Nam, nên Ngài đã bị chính quyền Lào trục xuất về Việt Nam với lý do an ninh quốc gia Lào, ngày 19/9/1969, để lại trong lòng Tăng, Ni và Phật tử Việt Kiều tại Lào bao nỗi xót xa kính nhớ !!!
- Tại Sài Gòn, trong thời gian làm thủ tục hồi hương, không rõ nguyên nhân sắp xếp từ đâu ? có một cuộc tiếp xúc giữa Ngài và ông Mai Thọ Truyền, Hội trưởng Hội Phật Học Việt Nam Chùa Xá Lợi và ông Truyền đã mời Ngài về lưu trú tại Chùa Xá Lợi. Ngài nhận lời mời. Sau khi an trú tại đây, việc đầu tiên của Ngài là đánh điện thỉnh cầu Hòa Thượng Thích Trung Quán đang trú tại Chùa Bàng Long Vientiane hoan hỷ phát tâm đảm nhiệm Phật sự Phật Giáo Việt Nam tại Lào, kiêm Quản trị Chùa Bàng Long. Rồi lần lượt viếng thăm các vị Hòa Thượng tôn túc Lãnh đạo Giáo Hội, thời gian còn lại, Ngài chuyên chú xem Đại Tạng Kinh tại Thư viện của Chùa.
- Năm 48 tuổi (1970) Ngài đảm nhiệm ngôi Chùa cổ Văn Thánh tại Thị Nghè- Gia Định, do Hòa Thượng Thích Tuệ Đăng chuyển cúng. Ngôi Chùa được thành lập năm 1906 . Ngài trú tại đây, rồi ra công chỉnh trang, tu sửa, thay đổi cách bài trí, biến nơi đây thành ngôi Già Lam thanh tịnh trang nghiêm.
- Ngài tôn tạo Phật đài Quán Thế Âm lộ thiên trước Chùa uy nghiêm cao lớn, hướng mặt ra phía dòng sông.