Thượng Tọa Thích Tuệ HảiTrụ Trì Chùa Long Hương
Địa chỉ: 1141 Lý Thái Tổ, Ấp Long Hiệu,
Xã Long Tân, Huyện Nhơn Trạch, Tỉnh Đồng NaiĐiện thoại: 0931 085 085 – 0911 258 258Email: [email protected] Website: www.chualonghuong.org
Thầy Thích Tuệ Hải, thế danh: Đinh Kim Nga, sanh năm 1968 tại xã Long Thới, huyện Chợ Lách, tỉnh Bến Tre. Thầy được sanh ra trong gia đình có 7 anh chị em, Thầy là người con út. Gia đình vốn là một điền chủ. Một điều rất lạ là mảnh đất nơi Thầy sanh ra là một nơi linh địa, trong thời chiến tranh những lúc bom đạn xảy ra thì mọi người ở khu vực gần đó đều chạy đến mảnh đất của nhà Thầy ẩn náu thì được an toàn, bom đạn không dội tới.
Có một biến cố xảy ra, người cha buông xuôi sự nghiệp nên gia đình lâm vào cảnh khó khăn. Hai người anh của Thầy thấu hiểu được thời thế vô thường nên phát tâm xuất gia; sau đó chị gái của Thầy cũng xuất gia.
Từ thuở ấu thơ Thầy vốn là một người con rất hiếu thảo với cha mẹ. Từ khi sáu tuổi Thầy đã biết nấu cơm, theo mẹ buôn bán … để phụ giúp gia đình. Tối về tận tụy thương yêu hầu hạ cha già, một lòng phụng sự theo ý muốn của cha mình; chưa từng có nửa ý niệm chống trái. Thầy nói: “Thầy đã được dày công dạy dỗ từ thuở bé nên mới có ý chí kiên cường vượt qua những khó khăn thử thách trong cuộc sống cho đến ngày hôm nay.”
Còn Mẹ Thầy là một phụ nữ siêu tuyệt, nhân hòa và từ ái … Thầy cũng từng nói: “Khắp thế gian này khó có người phụ nữ nào đức hạnh tuyệt vời như Mẹ của Thầy.” Một đời tận tụy hy sinh cho gia đình và đến năm 1993 mẹ của Thầy đã xuất gia tu học tại Thiền Viện Tuệ Thông.
Vốn là một người có thiện căn lớn với Phật Pháp, năm lên bảy tuổi lần đầu tiên được nhìn thấy hình tượng của Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật, Thầy đã bị chấn động và đứng chết lặng trong trạng thái thiền định trước tượng Phật gần tám tiếng đồng hồ. Lúc đó Thầy thấy rõ tất cả mọi thứ diễn ra chung quanh mình, mọi người thấy vậy không ai dám làm động cho đến khi Thầy tự rời định.
Năm 1983 Thầy bị bệnh nặng nên nghiên cứu về phương pháp dưỡng sinh của Tiên Sinh G.Ohsawa. Thầy chỉ ăn dưỡng sinh trong vòng 21 ngày là đạt tới cảnh giới số 7, cảnh giới quân bình âm dương như Tiên Sinh đã nói, khi đó tất cả tật bệnh đều biến mất. Thầy ở trạng thái thân tâm rỗng lặng phúc lạc vô biên suốt bảy ngày bảy đêm.
Năm Thầy học lớp 10, lúc còn là học sinh khi nghe thầy giáo giảng đề tài “Vạn vật chuyển vận trong không gian” Thầy đã ngộ lý vô thường và nung nấu chí nguyện xuất gia. Mãi đến đầu năm 1986 Thầy đã từ giã cuộc sống đời thường đến Thiền Viện Thường Chiếu xin công quả xuất gia tu học.
Đến ngày mùng 8 tháng 12 năm 1986, ngày lễ Đức Phật thành đạo thì Thầy được chính thức xuất gia tại Thiền viện Thường Chiếu. Hòa Thượng Bổn Sư là thượng Thanh hạ Từ cho pháp danh là Thích Tuệ Hải.
Sống trong Tăng đoàn được phân công tác là trồng rau cuốc đất, nhưng ý chí xuất trần mãnh liệt, quyết tâm phá vỡ sanh tử thể nhập chân lý. Trải qua nhiều ngày tháng, thao thức ngày càng mãnh liệt, cho đến ngày 7 tháng 7 năm 1987, khi nghe Hòa Thượng Ân Sư giảng Trung Quán Luận đến câu: “Không thọ là Niết Bàn” thì ngay khi ấy Thầy liền dứt bặt tất cả những hiểu biết xưa nay, thân tâm rỗng suốt, thông thấu tất cả những duyên trần không phải là thân căn trước đây. Kể từ đó, Thầy thấu hiểu được chân lý không còn nghi ngờ lời Phật Tổ nữa, từ cái thấy biết vượt thoát mọi khuôn sáo, đời sống trở nên ung dung nhẹ nhàng. Ngay khi đó Thầy cảm tác bài kệ nói về sức sống hiện tại của mình:
Từ nay vui sống ung dung
Rõ ràng mỗi mỗi nơi duyên chẳng lầm
Chẳng lầm chẳng lộn chẳng sai
Rỡ ràng chỉ vậy chẳng sao nói lường.
Ngày 12 tháng 7 năm 1994, được sự chỉ dạy của Ân sư là Hòa Thượng thượng Thanh hạ Từ cử Thầy về Trụ trì Chùa Long Hương, huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai cho đến ngày nay.
Ngoài việc hoằng dương Chánh Pháp lợi lạc chúng sanh, Thầy còn là một vị lương y cứu giúp cho nhiều người bệnh hiểm nghèo, hướng dẫn cho mọi người có đời sống cân bằng thân tâm để khai mở trí tuệ, thấu hiểu trật tự thể vũ trụ, đạt được tự do vô biên, công bằng tuyệt đối và phúc lạc cùng tận.
Thầy đã thuyết giảng những bộ Kinh: Hoa Nghiêm, Pháp Hoa, Lăng Nghiêm, Kim Cang, Bát Nhã v.v… và các Kinh về Thiền tông, Tịnh độ cũng như các Kinh điển của Phật giáo Nguyên Thủy. Tất cả đều thể hiện tính chung nhất của đạo Phật. Tâm nguyện lớn nhất của Thầy là muốn cho tất cả các tông phái của đạo Phật có cái nhìn nhất quán đúng với tinh thần giác ngộ giải thoát như lời Đức Phật dạy: “Trăm sông đều chảy về biển cả, biển chỉ có một vị mặn, giáo pháp của Ta chỉ có một vị duy nhất là giải thoát mà thôi.”
DANH SÁCH BÀI GIẢNG CỦA TT TUỆ HẢI I. KINH BỘ 1. Kinh Hoa Nghiêm 2. Kinh Diệu Pháp Hoa 3. Kinh Lăng Nghiêm 4. Kinh Kim Cang 5. Yếu Nghĩa Kinh Kim Cang 6. Kinh Pháp Bảo Đàn 7. Bồ Đề Đạt Ma Quán Tâm Pháp 8. Pháp Bảo Đàn Kinh 9. Yếu Nghĩa Pháp Bảo Đàn Kinh 10. Tứ Diệu Đế 11. Yếu Quyết Tứ Diệu Đế 12. Thiền Tứ Niệm Xứ 13. Kinh Tứ Niệm Xứ 14. Tinh Túy Bát Nhã Ba La Mật Đa 15. Bát Nhã Tâm Kinh 16. Kinh Vô Ngã Tướng 17. Lược Giảng Kinh A Di Đà 18. Tiểu Bổn A Di Đà 19. Kinh Nhứt Dạ Hiền Giả 20. Lục Độ Ba La Mật 21. Thập Nguyện Phổ Hiền 22. Tuệ Trung Thượng Sĩ 23. Kinh Thập Thiện 24. Kinh Bát Đại Nhân Giác 25. Kinh Phước Đức 26. Kinh Pháp Cú 27. Tam Pháp Ấn 28. Quy Sơn Cảnh Sách 29. Sa Di Luật Nghi 30. Sử 33 Vị Tổ Sư 31. Tứ Nhiếp Pháp 32. Tứ Vô Lượng Tâm 33. Tứ Thập Nhị Chương 34. Tỳ Ni Nhựt Dụng Thiết Yếu 35. Mười Bốn Điều Minh Triết II. BÀI GIẢNG LẺ 36. Phương pháp toạ thiền 37. Thế gian và cực lạc 38. Hạnh phúc chân thật 39. Vô thường khổ vô ngã 40. Nghiệp trong đạo phật 41. Hóa giải nghiệp tập 42. Thiền tịnh song hành 43. Ý nghĩa phật đản sanh 44. Tâm hạnh người tu 45. Công đức niệm Phật 46. Lục hoằng thệ nguyện 47. Chữ tu trong đạo Phật 48. Tu là cội phúc 49. Tu là được hay mất 50. Tùy duyên bất biến 51. Thực tại hiện tiền 52. Lối về cố hương 53. Yếu quyết tu tập 54. Bệnh và nghiệp 55. Mùa xuân bất tận 56. Vật chất tâm linh 57. Giá trị câu niệm Phật 58. Vượt qua nghiệp chướng 59. Sống an lạc chết siêu thoát 60. Thương yêu và tôn kính 61. Ý nghĩa phật thành đạo 62. Ý nghĩa thọ bát quan trai 63. Nhân quả 64. Bát phong 65. Thương ghét 66. Lòng tịnh tín 67. Bi trí dũng 68. Ba cửa giải thoát 69. Vô thường khổ 70. Hộ trì Tam Bảo 71. Phát bồ đề tâm 72. Mười trọng giới 73. Thiền tịnh song tu 74. Phước huệ song tu 75. Nhĩ căn viên thông 76. Nhất niệm nhất bái 77. Khởi đầu tu tập 78. Tu tập và trị liệu 79. Phương pháp tọa thiền 80. Thân tâm không khác 81. An lạc trong đời sống 82. Tâm bình thế giới bình 83. Ý nghĩa phật đản sanh 84. Đức Phật là bậc đại y vương 85. Sống bình an chết siêu thoát 86. Giá trị đời sống tâm linh 87. Thiền thư giãn và quán thân 88. Lễ phật thành đạo 89. Tín hạnh nguyện 90. Mười bài thơ thiền 91. An trú trong hiện tại 92. Đạo hiếu người con Phật 93. Khái niệm về định trong đạo Phật 94. Ý thức được sanh tử là khổ 95. Phật pháp là cội nguồn của an lạc 96. Những điều cần yếu để về cõi Phật 97. Đạo phật cội nguồn của sự an lạc 98. Vượt qua chướng nghiệp và tái sanh 99. Công hạnh của Bồ Tát Quán Thế Âm 100. Mười hai lời nguyện của Bồ Tát Quán Thế Âm 101. Sự tương đồng giữa thiền tông và tịnh độ 102. Nguyên nhân bệnh tật và hướng điều trị 103. Lời nguyện thứ 18 của Đức Phật A Di Đà 104. Tình thương nhiều sẽ có hạnh phúc nhiều 105. Niệm phật như thế nào để có được công đức 106. Những điều cần yếu của người tu Phật 107. Tình thương yêu thế gian và lòng từ bi của đạo Phật III. DƯỠNG SINH: 108. Sức khỏe & hạnh phúc 2020 109. Sức khỏe & hạnh phúc 2019 (10 bài 26 buổi) 110. Sự vi diệu của âm dương111. Để hoàn thiện một đời người 112. Dưỡng sinh thai giáo 113. Tham vấn Phật Pháp 114. Quân bình âm dương 115. Giảng về dưỡng sinh 116. Giải đáp câu hỏi 117. Câu hỏi dưỡng sinh 118. Dưỡng sinh công phu 119. Dưỡng sinh trong đời sống 120. Dưỡng sinh phòng bệnh 121. Giá trị âm dương 122. Phương pháp dưỡng sinh 123. Ăn chay theo Ohsawa 124. Cân bằng thân tâm 125. Dưỡng sinh giải thoát 126. Phật pháp và dưỡng sinh 127. Dưỡng sinh chăm sóc sức khỏe cộng đồng 128. Tinh thần dưỡng sinh trong Phật giáo 129. Thực phẩm quyết định vận mệnh đời người 130. Nâng cao vật chất và tâm linh theo pháp dưỡng sinh