Thầy tôi dạy tôi niệm Phật

01/10/201116:05(Xem: 3378)
Thầy tôi dạy tôi niệm Phật

THẦY TÔI DẠY TÔI NIỆM PHẬT
Thích Tâm Mãn

Tiếng chuông chùa vang lên, làm lay động khoảng không trời phố núi, giọt mưa cuối mùa thơm nhẹ lên mái tòng lâm, từng câu niệm Phật của các tiểu, kinh hành trên chánh điện, nghe như kỷ niệm của những gì xưa cũ, quay ngược thời giờ, trở lại tháng ngày thuở Tôi còn làm điệu ở chùa xưa.

“Nam Mô A Di Đà Phật”bài pháp tối thắng nhất, mà tôi đã mang đi trong suốt một dặm đời, thân thương như ruột thịt, ân cần như mẹ cha. Câu niệm Phật là bài pháp đầu tiên, mà tôi được Thầy tôi dạy, trong ngày tôi thế phát vào chùa, nguyện làm sứ giả của Như Lai. “Nam Mô A Di Đà Phật. Kính Bạch Thầy hôm nay đệ tử phát nguyện xuất gia...”. Lời nói đầu tiên và có cũng là lời nói thành tâm nhất, dưới sự chứng minh và gia hộ của Đức Phật Di Đà, Thầy tôi thế độ cho tôi. Từ đó tôi bước vào ngôi nhà Phật Pháp, đức tướng và danh hiệu của Đức Di Đà là tình thương, là nguyện lực, ân cần dìu dắt tôi từng bước đến với Đạo Tràng Chư Phật.

Thời còn hành điệu, chỉ mới bảy tám tuổi đầu, là con nít tôi cũng giống như tất cả trẻ con khác, ham chơi lười học, chỉ có một bài chú Đại Bi mà học hoài, cũng không cách nào thuộc được, tối nào khi dò bài, tôi cũng đọc không xong, bị quý Thầy quở trách, tôi buồn lắm, không biết làm sao mà mình dốt thế, học hoài mà không cách nào thuộc. Thầy tôi an ủi, khuyên tôi đừng có nãn chí, học hoài thì sẽ được thôi, Thầy tôi còn dạy thêm, không phải một mình con học không thuộc đâu, ngay cả Thầy nè, tu suốt cả đời rồi mà câu “Nam Mô A Di Đà Phật”Thầy cũng đã học thuộc đâu!

Tôi như người chết chìm nắm được phao, tinh thần tức khắc phấn chấn, Thầy mình tu lâu như vậy mà học còn chưa thuộc, thì mình mới tu có mấy ngày, thì đã làm sao, cố giắng học lâu sẽ thuộc, rồi cứ như vậy, chú Đại Bi, hai thời Công Phu, bốn cuốn Luật Trường Hàng tôi cũng học thuộc làu hết. Thầy tôi dạy tôi niệm Phật là vậy đó, dùng Pháp không thuộc danh hiệu Phật, để dạy người cách học thuộc Phật Kinh, đây là pháp môn niệm Phật thứ nhất mà Thầy tôi dạy cho tôi.

Sau này khi lớn lên có một chút gì đó gọi là hiểu được Phật Pháp, mà trong chùa thường gọi là thấm tương chao, tôi mới có cảm niệm rằng, công đức “Vô lượng quang” của Thầy tôi đã đạt được trong câu niệm Nam Mô A Di Đà Phật, là hãy nương vào trí tuệ của Đức Phật, để tìm ra phương tiện tốt nhất và hiệu quả nhất, để giúp cho chúng sanh thọ nhận được Phật Pháp, dù đôi khi cũng phải hy sinh ngay cả bản thân mình. Khi chúng sanh thọ nhận được Phật Pháp, thì Phật Pháp sẽ mãi được trường tồn và cứ như vậy, đời này truyền qua đời khác, ánh sáng của đạo mầu sẽ rạng chiếu khắp muôn nơi, đây là tinh thần của “Nam Mô Vô Lượng Quang Như Lai”.

Thời gian thoáng qua trong chớp mắt, Tôi đến tuổi đến trường, rồi đi tham học Phật Pháp ở phương xa, mỗi năm chỉ về thăm chùa, thăm Thầy chỉ có một lần, thời gian ở chùa thì rất là ít, bởi vậy mỗi lần về chùa là mỗi lần trút bầu tâm sự, là những lần diễn thuyết những gì mình đã học qua, với huynh đệ trong chùa, đôi khi đem cả những thắc mắt và lý sự cùn, của chính mình để nhờ Thầy giải thích hoặc là ấn chứng cho sở học của mình, trong tâm chứa bao điều tự đắc. Một lần nữa Thầy tôi lại dạy: “Thầy học cả đời nhưng chưa thuộc câu Nam Mô A Di Đà Phật”, tôi lại một lần nữa như được tỉnh thức, khác với lần trước là vui như người chết đuối vớ được phao, lần này thì cảm thấy buồn và hổ thẹn vì sự tự mãn về sở học của mình sẽ làm tổn phước, và là điều chướng ngại, trên bước đường tu học của mình về sau.

Câu “Tu mà không học là tu mù, học mà không tu chỉ là đãy đựng sách”. Đạo Phật lấy việc tu là chính, còn học cũng chỉ là phương tiện để thâm nhập Phật lý mà thôi, cho nên trong Đạo Phật hầu như chưa có ai học mà thành Phật cả, chỉ có người học rồi tu mới thành Phật được, vì vậy chớ để chướng duyên của sự hiểu biết làm mình phải mắc sai lầm che mất Phật huệ của tự thân, hảy dùng sự hiểu biết như một chiết chìa khóa để mở kho tàng trí huệ Phật của chính mình, và khi đã mở được kho tàng Phật trí huệ, thì chìa khóa kia chỉ là công cụ, còn tự thân mình lãnh hội được ý Phật mới là điều quan trọng nhất của người học Phật cần tu.

Một lần nữa, Thầy tôi lại chưa học thuộc câu “Nam Mô A Di Đà Phật”, và tôi lại được thức tỉnh, lại nhận ra một điều, đây là công đức “Vô Lượng Thọ”mà Thầy tôi đã đạt được trong câu niệm Phật. Nếu như ngày đó tôi không thức tỉnh và nhận ra những khiếm khuyết trong tâm tự mãn về học thức của chính mình, thì dần dần dễ sanh tính kiêu căng ngã mạn, và nguy cơ tổn phước, không trụ được trong tòng lâm, dễ thay tâm chuyển ý, chiếc áo Tăng già khó có thể giữ được lâu.

Thọ mạng của Phật Pháp là do Tăng già thừa kế, mà Tăng không còn ở chùa nữa, thì Phật Pháp không có người gìn giữ trông coi. Vì vậy Tăng còn là Phật Pháp còn, Tăng không còn nữa thì Phật Pháp cũng sẽ mai một mà thôi. Cho nên Tăng già “Vô Lượng Thọ” thì Phật Pháp mãi trùng hưng, chúng sanh đắc an lạc, đây là cốt lỏi của “Nam Mô Vô Lượng Thọ Như Lai”.

“Nhật vãn nguyệt lai táp nhiên bạch thủ” ngày qua tháng lại thoáng đã bạc đầu. Mới hôm nào thôi, nay về thăm chùa, thăm Thầy, tóc Thầy tôi giờ đã pha sương trắng xóa, sức khỏe không còn như thuở trước an khang, Thầy tôi vẫn như thế, ngày nào cũng ngồi hốt thuốc cho người bịnh, lo xây cất chùa chiền, tiếp Tăng độ chúng, giảng lẽ diệu trong cuộc đời để hóa độ chúng sinh, hình như lúc nào tôi cũng thấy, Thầy tôi bao giờ cũng vậy, chưa có lúc nào Người mệt mỏi về việc “Phụng sự chúng sanh là cúng dường chư Phật”.

Tôi thương Thầy tôi tuổi già sức yếu, làm việc quá nhiều sẽ ảnh hưởng đến sức khỏe của Thầy, nên khuyên Thầy tôi nên nghỉ ngơi để giữ gìn sức khỏe. Thầy tôi lại dạy: “Học đến giờ vẫn chưa thuộc được câu Nam Mô A Di Đà Phật, thì làm sao mà nghỉ ngơi!" Lần này thì tôi thật sự kinh ngạc, mở tròn xoe cả hai mắt mà nhìn Thầy và thật là cố gắng dùng hết bao nhiêu thần công lực của lý trí để hiểu lời dạy này, nhưng thật sự tôi không cách nào hiểu được.

Thầy tôi dạy: “Niệm Phật có phải niệm bằng miệng không đâu, mà phải dùng hết thảy lục căn, mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý để niệm, nếu như sáu căn đều có thể đồng tâm niệm Phật, thì câu Nam Mô A Di Đà Phật mới có thể thuộc lòng, còn nếu như trong sáu căn vẫn còn một căn chưa nhứt tâm niệm Phật được, thì coi như câu niệm Phật này, cả đời vẫn chưa cách nào học thuộc vậy thôi”.

Niệm Phật bằng sáu căn, nhãn, nhỉ, tỵ, thiệt, thân, ý. Nghe thì có hơi là lạ, nhưng nghĩ thấm rồi, thì thật là vi diệu biết bao. Sáu chữ Nam Mô A Di Đà Phật, chỉ cần niệm, đạt đến nhứt tâm, thì sẽ được vãng sanh Cực Lạc thế giới của Đức Phật A Di Đà, đây là điểm cốt yếu của Pháp môn niệm Phật vãng sanh.

Làm sao để nhứt tâm, tâm ở nơi nào, và nơi nào để chúng ta thấy tâm còn động, chưa thể nhứt tâm được, có phải dựa trên lục căn mới thấy được tâm, ngoài lục căn ra để tìm thấy tâm động hay tịnh, thì hầu như không thể được. Vì vậy đức Phật A Di Đà chỉ cần chúng ta nhứt tâm bất loạn, niệm mười câu Nam Mô A Di Đà Phật thì sẽ được vãng sanh.

Thầy tôi dạy sáu chữ Nam Mô A Di Đà Phật, là sáu căn của mình đó, làm sao trong sáu căn mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý của mình, lúc nào cũng nương theo Phật, lúc nào cũng làm theo Phật, thì nhất định sẽ không còn vọng động nữa, và như vậy thì niệm một câu niệm Phật cũng hết loạn rồi, huống hồ mười niệm thì sự nhứt tâm hoàn toàn viên mãn.

Thầy tôi dạy: “sao Đức Phật dạy chúng ta phải niệm mười niệm nhứt tâm thì mới được vãng sanh?” Mười niệm đây là thập hồi hướng của Phổ Hiền Bồ Tát “Nhất giả lễ kính chư Phật”. Niệm thứ nhất nếu ta không có tâm cung kính chư Phật thì không có nhân duyên đến với Phật Đạo Tràng.

“Nhị giả xưng tán Như Lai”. Niệm thứ hai là tán thán gợi khen chư Phật, đây là hành tu khen ngợi mọi người, lập duyên lìa xa, không còn khổ đau trong khen chê nữa, đây là phước báo, ân điền để chúng ta đến với chư Phật.

“Tam giả quảng tu cúng dường”. Niệm thứ ba là phải lập hạnh bố thí cúng dường, học tâm quảng đại rộng lớn, xa lìa tâm bỏn xẻn, tham lam, ít kỷ, tạo thắng duyên để đến với Phật Đạo Tràng.

“Tứ giả sám hối nghiệp chướng”. Niệm thứ tư là tự mình phải biết, nghiệp lực và nghiệp chướng, tội lỗi của mình đã tạo ra trong quá khứ cũng như hiện nay, để rồi thành tâm ăn năn, sám hối từ bỏ, tạo thắng duyên đến Phật Đạo Tràng.

“Ngũ giả tùy hỷ công đức”. Niệm thứ năm, là tùy hủy công đức lớn nhỏ đối với tất cả mọi người, diệt trừ tâm đố kỵ, ganh ghét nhỏ mọn, học tâm quảng đại từ bi, tùy hỷ công đức của Chư Phật, Tạo thắng duyên để đến Phật Đạo Tràng.

“Lục giả thỉnh chuyển Pháp luân”. Niệm thứ sáu lúc nào cũng luôn luôn nguyện cầu cho pháp luân thường chuyển, tạo mọi điều kiện thắng duyên để khai mở pháp hội giảng pháp, thời khóa tu tập cho mọi người, tạo thắng duyên đến Phật Đạo Tràng.

“Thất giả thỉnh Phật trụ thế”. Niệm thứ bảy luôn luôn và lúc nào cũng nguyện cầu thỉnh Phật trụ ở thế gian, người đại diện cho Phật ở thế gian là Tăng Già, Tăng trụ thế tất nhiên là Phật trụ thế, vì vậy hết tâm cung kính, cúng dường, tạo điều kiện thuận lợi, để Tăng ở đời hoằng Pháp lợi sanh, là tạo thắng duyên để đến Phật Đạo Tràng.

“Bát giả thường tùy Phật học”. Niệm thứ tám phải thường theo thầy lành bạn quý, thiện hữu trí thức, học hỏi trao đổi Phật Pháp, chớ tự mình cống cao ngã mạn, tự cho mình như vậy là đủ, nên học hạnh khiêm cung. Phật dạy: “Những gì ta nói chỉ như lá nắm trong tay. còn những gì ta chưa nói, thì như lá nhiều vô số trong rừng vậy”. Vậy nên học hoài và học mãi là như vậy “hải giác vô nhai” biển giác ngộ rộng lớn không bờ, cẩn thận với lời nói của chính mình, tạo thắng duyên đến Phật Đạo Tràng.

“Cửu giả hằng thuận chúng sanh”. Niệm thứ chím phải thâm hiểu “nhất thiết chúng sanh tâm sai biệt”, tất cả chúng sanh tâm đều không giống nhau, cho nên có người thích cái nầy, kẻ thích việc khác, người cho như vậy là đúng, kể khác bảo là sai, không ai giống ai, cho nên phải thuận theo tâm của hết thảy chúng sanh, tùy theo tâm như vậy để tìm phương pháp giúp đỡ, có như vậy mới không sanh tâm chống trái, làm cho họ dễ chấp nhận, tạo thắng duyên để đến Phật Đạo Tràng.

“Thập giả phổ giai hồi hướng”. Niệm thứ mười là phải phát tâm hồi hướng, nếu không có tâm này, thì tất cả chín niệm trên không cách nào làm được, có làm được đi nữa thì cũng là chấp có chấp không, chấp ta chấp người, vướng bận vô biên, không cách nào giải thoát được, chỉ có pháp hồi hướng là hạnh hỷ xã, tâm bình đẳng của Chư Phật, không chướng, không ngại là thắng duyên tối thượng, để đến Phật Đạo Tràng.

Thầy tôi dạy niệm Phật thì phải như vậy, niệm Phật phải nhiếp Lục Căn, hành Thập Hồi Hướng, nếu làm được như vậy mới thật sự là học thuộc câu “Nam Mô A Di Đà Phật”, là người biết niệm Phật và là người có thể, thể hiện đức tánh “Vô lượng công đức” của câu Nam Mô A Di Đà Phật. “Nam Mô Vô Lượng Công Đức Như Lai”.

Pháp môn niệm Phật của Thầy Tôi dạy là như thế và câu “Học cả đời mà chưa thuộc câu Nam Mô A Di Đà Phật”là ý tại nơi đây, vì vậy Thầy tôi học cả đời mà không thuộc là đúng thôi, Người không nói dối tôi, chỉ tại tôi chưa hiểu, và nếu là trình độ như tôi thì câu niệm Phật này, không biết kiếp nào có thể thuộc được, nhưng thôi thì cứ cố gắng học thì sẽ thuộc, cố gắng niệm thì sẽ nhất tâm, cố gắng tu thì sẽ có ngày giải thoát, tất cả sự thành tựu đều từ “Tín Hạnh Nguyện” mà có, vì vậy cần đủ Ba Tâm, thành tựu Ba Pháp, viên mãn Ba Thân, đến Phật Đạo tràng.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
20/02/2020(Xem: 6814)
Kinh Viên Giác là kinh đại thừa đốn giáo được chư Tổ cho rằng đó là “Con mắt của 12 bộ kinh”. “Con mắt” ở đây theo thiển ý có nghĩa là Viên Giác soi sáng nghĩa lý, là điểm tựa, là ngọn hải đăng cho các bộ kinh để đi đúng “chánh pháp nhãn tạng”, không lạc vào đường tà và tu thành Phật. Khi nghe kinh này, đại chúng kể cả chư Phật và chư Bồ Tát đều phải vào chánh định/tam muội, không bình thường như những pháp hội khác.
18/02/2020(Xem: 9412)
Đạo Phật là đạo đối trị với vô minh tức là đối trị với kẻ ngu si, dại khờ, nên Kinh Pháp Cú dành trọn một phẩm để đề cập đến hạng người này. Truyện tích kể rằng một cô gái rất đẹp và hiền thục, con một thương gia giàu có. Nước da cô như màu hoa sen xanh biếc nên cô có tên là Liên Hoa Sắc. Đến tuổi cập kê có quá nhiều vương tôn công tử đến xin hỏi cưới cô. Cô không ưng ai cả. Xuất gia làm ni cô, tinh tấn tu hành trong một căn lều giữa rừng. Một ngày cô ra khỏi rừng đi vào thành phố khất thực. Một kẻ bất lương vốn là con người cậu của ni cô, đem lòng yêu cô từ khi cô chưa đi tu, hắn lén vào rừng trốn dưới gầm giường. Khi cô trở về hắn hãm hiếp cô. Ngay sau đó khi hắn rời khỏi lều thời mặt đất nứt ra và tên gian ác bị đọa vào địa ngục.
13/01/2020(Xem: 6849)
Một chiều, dừng chân bên bờ suối, lữ khách chợt cảm nhận dường như nơi đây đã từng qua. Có phải hàng cây phong này, từng khẳng khiu trơ trụi lá mùa thu trước, đã thầm lặng gửi thông điệp cho nhân gian bằng tinh thần tự tin, không than khóc, dũng mãnh đứng chờ mùa đông lạnh lẽo tuyết băng, chắc chắn không xót thương những gì yếu đuối!
10/12/2019(Xem: 5943)
Tiết mùa đông bất ngờ về sớm khiến những nhành mai đang ra lá, chưa kịp nhận biết, vội nép vào nhau, thương cảm nhìn những đóa hồng tỷ muội run rẩy, mới nở đêm qua. Dọc theo bức tường ngoài hàng hiên, những khóm trúc nhẹ nhàng lay động, trấn an bụi hoa ngâu với những đóa nhỏ li ti, rằng mặt trời đang lên, chúng ta vẫn đồng hành dù ta xanh hay vàng, dù em tươi hay héo, chỉ là ngoại hình luân chuyển mà thôi!
29/11/2019(Xem: 7691)
DẪN NHẬP Phật giáo có hai hệ là Theravada và Phát-Triển. Hệ Theravada quan niệm quả vị cao nhất mà hành giả có thể đạt được là quả vị A-La-Hán. Vì thế đường tu quan trọng của họ là A-La-Hán đạo. Khi đạt được quả vị này thì các ngài nhập Niết-Bàn. Khi còn thân, thì gọi là Hữu-Dư-Y-Niết-Bàn. Trong thời gian này các ngài đi giáo hoá chúng sanh. Khi bỏ thân, thì nhập Vô-Dư-Y-Niết-Bàn không tái sanh nữa.
07/10/2019(Xem: 12495)
Tật bệnh. Có bệnh phải uống thuốc đó là chuyện đương nhiên. Uống thuốc để chữa bệnh, để mau hết bệnh. Nhưng thuốc tốt, uống đúng thuốc, đúng liều lượng thì mới có khả năng lành bệnh. Đây, không còn là chuyện đương nhiên, mà là sự mong muốn, lòng khát khao. Ai cũng ước mong không có bệnh. Khi có bệnh mong được gặp thầy giỏi, uống đúng thuốc và sớm khỏi bệnh.
05/10/2019(Xem: 6615)
Một ông tăng tu Thiền tới hỏi hòa thượng: -Xin hòa thượng cho một câu ngắn gọn “Phật Là Gì?” để con tỏ ngộ và giảng dạy cho đại chúng. Hòa thượng đáp: - Phật là cơm.
05/10/2019(Xem: 14013)
Trong đời sống hằng ngày, chúng ta thường nghe những lời bàn tán có tính cách phê phán như: "Nhân cách của ông A thật là hoàn hảo" hay "Tư cách người đó không ra gì...." hoặc "Sống sa đoạ quá làm mất cả nhân cách" v.v... và v.v... Vậy nhân cách là cái gì? Thông thường, người ta giải nghĩa Nhân là người, Cách là tư cách, là phẩm chất, là giá trị, là tư cách làm người... Như vậy Nhân cách là một thứ giá trị, phẩm chất đạo đức của mỗi con người được xây dựng và hình thành trong suốt thời gian con người đó tồn tại trong xã hội.
03/06/2019(Xem: 8444)
Thực hành thiền đánh thức niềm tin của chúng ta rằng trí tuệ và từ bi mà chúng ta cần đã có sẵn trong chúng ta rồi. Theo Pema Chodron cho biết Thiền giúp chúng ta tự biết mình: những phần thô và những phần tế của chúng ta, tham, sân, si và trí tuệ. Lý do mà con người làm hại người khác, lý do mà hành tinh này bị ô nhiễm và con người và thú vật không sống khỏe mạnh, là vì hiện nay các cá nhân không biết, không tin hay không yêu thương đủ.
06/05/2019(Xem: 14440)
Được đăng trong Advice from Lama Zopa Rinpoche, Lama Zopa Rinpoche News and Advice. Trong khóa thiền lamrim dài tháng tại Tu Viện Kopan năm 2017, Lama Zopa Rinpoche đã dạy về nghiệp, giảng giải một vần kệ từ Bodhicharyavatara (Hướng Dẫn Về Bồ Tát Hạnh) của ngài Tịch Thiên (Shantideva), đạo sư Phật giáo vĩ đại vào thế ký thứ 8 của Ấn Độ. Đây là những điều Rinpoche đã dạy: Tác phẩm Bodhicharyavatara có đề cập rằng “Trong quá khứ, tôi đã hãm hại những chúng sanh khác như thế, vì vậy nên việc chúng sanh hại tôi là xứng đáng. Đối với tôi thì việc nhận lãnh sự hãm hại này là xứng đáng.”.