Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Giữa Hoang Mạc Tinh Thần, Tìm Lại Tâm Kinh

15/10/202510:50(Xem: 312)
Giữa Hoang Mạc Tinh Thần, Tìm Lại Tâm Kinh



hoang mac tinh than
Giữa Hoang Mạc Tinh Thần, Tìm Lại Tâm Kinh


Mùa Nobel đang nở rộ với các giải thưởng danh giá nhất trong nhiều lĩnh vực chuyên môn như Vật Lý, Hóa Học, Y Khoa, Văn Chương, Hòa Bình đang lần lượt được công bố. Sự thú vị tuyệt vời trong mùa phát giải Nobel là hầu hết người trúng giải đều thật sự xứng đáng là những nhân vật tinh hoa thời đại. Giải Nobel Văn Chương năm nay đang xoáy vào đề tài “hoang mạc tinh thần” hay “sa mạc vô tâm”... nói đến thân phận con người giữa vòng xoáy của sự cô độc trong cơn tuyệt vọng gần như tận thế của tâm hồn. Trước nỗi tuyệt vọng đầy cuồng nộ của phương Tây và nhẹ nhàng hơn ở phương Đông mình thử làm người cưỡi ngựa xem hoa, đi tìm vài giọt sương Thu trong cơn khát cháy...



Khôi nguyên Nobel Văn chương 2025

 

Giải thưởng văn chương cao quý nhất thế giới – giải Nobel Văn học – năm 2025 đã được viện Hàn lâm Thụy Điển công bố. Người thắng giải là nhà văn Hungary László Krasznahorkai (LK).  Anders Olsson, chủ tịch Ủy ban Nobel, đã đưa ra lời nhận định về tầm nhìn tiên tri của nghệ thuật:

“Vì sự nghiệp sáng tác đầy sức cuốn hút và mang tầm nhìn tiên tri của ông – ngay giữa cơn kinh hoàng tận thế, vẫn khẳng định sức mạnh cứu rỗi của nghệ thuật.”

 

Và Olsson nhìn về khía cạnh văn chương:

László Krasznahorkai là một đại văn hào mang phong cách sử thi của truyền thống Trung Âu, nối dài từ Kafka đến Thomas Bernhard, đặc trưng bởi chủ nghĩa phi lý và sự phóng đại mang tính bi hài. Tuy nhiên, ông không chỉ dừng ở đó; ông còn hướng về phương Đông, tiếp thu một giọng văn tĩnh lặng, chiêm nghiệm và tinh tế hơn, thể hiện chiều sâu của tâm linh và suy tưởng trong thế giới hỗn loạn.

 

Tác phẩm xuất bản đầu tay của Krasznahorkai là  The Melancholy of Resistance (phản kháng trầm luân).  Tác phẩm này, ra đời năm 1989, là một ẩn dụ về xã hội Đông Âu tan rã, nơi niềm tin tập thể mất dần, người dân rơi vào một sự hoang vu tâm hồn với tinh thần trống vắng tột cùng như viễn khách trên chính quê hương của mình giữa cõi đi về không định hướng.

 

Khái niệm “hoang mạc tinh thần” (spiritual dessert) lan tỏa trong suốt cả bốn tác phẩm đưa tác giả lên đài danh vọng văn chương. Krasznahorkai viết nó như hành giả tụng kinh thiền hành giữa tận thế: ngôn từ dài, xoắn, tối, nhưng mang sức gợi về khả năng hồi sinh của tâm hồn – rất gần với tinh thần “vô minh dẫn tới giác ngộ” trong Phật học.

 

Tuy Krasznahorkai có lối hành văn rất khác thường so với văn chương truyền thống với câu văn có cấu trúc rắc rối, dài lê thê, dồn dập và nội dung diễn đạt đen tối, u sầu, nhưng Anders Olsson - Chủ tịch Ủy ban Nobel – đã ca ngợi “ Văn xuôi của Krasznahorkai đã phát triển theo hướng cú pháp trôi chảy. Các câu dài, quanh co không có dấu chấm tạo nên thương hiệu của ông. Krasznahorkai là nhà văn sử thi vĩ đại..." Và cũng chính László Krasznahorkai từng nói với Guardian: "Nếu có độc giả nào chưa đọc sách của tôi, tôi không thể gợi ý cho họ bất cứ điều gì để đọc. Thay vào đó, tôi khuyên họ hãy ra ngoài, ngồi xuống đâu đó, chỉ im lặng như đá. Rồi họ sẽ gặp được người đã đọc sách của tôi". Lời tự bạch “tâm vô sở trụ” nầy làm người ta nhớ thi hào Nguyễn Du với kinh Kim Cang trong lần đi sứ cuối đời: Ngã độc Kim Cang thiên biến linh. Kim Cang vô tự thị chân kinh – (Kim Cang ta đọc nghìn lần. Kim Cang thật sự tự thân không lời.)

 

          Hoang mạc tinh thần và một thoáng Tâm Kinh

 

Sự “hoang mạc tinh thần” là hậu quả của văn minh lý trí bởi con người biết rất nhiều cách sống, nhưng quên mất ý nghĩa của sự sống. Sự tuyệt đối hóa lý trí khiến con người cô độc, hoài nghi và lạc hướng giữa vô vàn thông tin nhưng thiếu minh triết. Đây là bối cảnh mà Kafka, Beckett, Bernhard và nay Krasznahorkai đã diễn tả cái trống rỗng của hiện hữu trong thế giới mù Tâm. Khuynh hướng tìm về Phật lý là con đường trở lại “Tâm nguyên”.

 

Khi con người ý thức rằng mọi nỗ lực bên ngoài không còn cứu rỗi được sự bế tắc bên trong, họ quay về tìm đạo lý nội tâm. Phật lý – với nguyên lý Duyên khởi, Vô ngã, Vô thường và Trung đạo –  chính là phản đề của hoang mạc tinh thần:

 

Duyên khởi chỉ ra rằng mọi hiện tượng tương liên, phá vỡ cô đơn của “cái tôi biệt lập”.

 

Vô ngã giúp ta thoát khỏi chấp thủ, cái gốc của khổ đau.

 

Trung đạo mở lối quân bình giữa hư vô và cực đoan, giữa cảm xúc và lý trí.

 

Từ đó, Phật lý trở thành “dòng suối mát” tưới tẩm hoang mạc tâm linh, giúp con người nhận ra rằng: cứu rỗi không đến từ bên ngoài mà từ sự tỉnh thức nội tâm.

 

Khi nghệ thuật trở thành con đường giác ngộ

 

Với Krasznahorkai, nghệ thuật không chỉ là phản ánh hiện thực mà là phương tiện để trở về với im lặng là gốc của chính mình, nơi con người chiêm nghiệm sự tan rã của thế giới và sự tồn sinh của Tâm. Giữa khi đó, trong “hoang mạc tinh thần”, người nghệ sĩ đi tìm thể tánh – bản lai diện mục chính mình – là hành trình trở về với bản thể của sáng tạo, nơi chữ nghĩa chỉ còn là hơi thở và tư tưởng trở thành vắng lặng vô ngôn.

 

Để so sánh “sự chiêm nghiệm về tâm lý hoang mạc” và cách “giải quyết” (nếu có) bằng thiền định hay quan niệm nhân sinh giữa hai thế giới Đông Tây, trước hết ta cần làm rõ cách hiểu “tâm lý hoang mạc” (desert psychology / desert mind) trong ngữ cảnh triết học, tâm lý, rồi xem mỗi tác giả hoặc tư tưởng mà ta so sánh diễn đạt nó ra sao và họ có giải pháp hay hướng đi nào để tự mỗi người hướng tâm, khai trí.

 

1. “Tâm lý hoang mạc” –  khái niệm và hình ảnh

 

Khái niệm “hoang mạc” (desert, emptiness, wasteland) thường mang tính biểu tượng: cô lập, khô cằn, mất chiều sâu gắn kết, nơi mọi cấu trúc quen thuộc bị bóc trần.  Trong tâm lý học, nó cũng có thể ám chỉ trạng thái nội tâm rỗng không, hoang mang, tuyệt vọng, mất mát liên kết tinh thần, nơi “không có chỗ bám”.

 

Nếu xem “tâm lý hoang mạc” là hình ảnh hay ẩn dụ cho trạng thái tinh thần nơi con người hoang mang đối diện với vô nghĩa, thì ta có thể xem thử có chăng một giải pháp để “cứu chữa” tâm lý bế tắc cùng cực này.

 

Thử tìm một nhân vật đối ứng với nhà văn Krasznahorkai trong hai thế giới Đông – Tây; có lẽ Thiền sư Thích Nhất Hạnh là một trong những hình ảnh tiêu biểu.

 

Trong văn chương hiện đại, László Krasznahorkai, là kẻ lữ hành lang thang giữa hoang mạc ấy.

Trong đời sống tâm linh hiện đại, Thiền sư Thích Nhất Hạnh là người gieo hạt trên cánh đồng khô cằn, chỉ ra con đường trở về.

 

2. Thích Nhất Hạnh: từ “hoang mạc” đến chánh niệm và giao cảm

 

Mặc dù Thầy Nhất Hạnh không dùng cụm từ “tâm lý hoang mạc” thường xuyên như một khái niệm chính thống, nhưng trong nhiều bài giảng và sách viết, ta thấy rõ Thầy nhìn thấy những vùng “cằn cỗi” nội tâm – những tâm lý sợ hãi, cô đơn, tổn thương – và dẫn dắt con người ra khỏi nó bằng chánh niệm, thiền định, lòng từ bi và “interbeing” (tương thuộc).

 

Thầy nhấn mạnh rằng, nhiều khổ đau nội tại không đến từ hoàn cảnh bên ngoài mà từ cách mình không lắng nghe, không hiểu mình là chính. Do vậy, nếu biết lắng nghe và hiểu được cảm xúc nội tại của chính mình sẽ làm vơi đi niềm đau nỗi khổ đang đè nặng trong ta (Listening to and understanding our inner sufferings will resolve most of the problems we encounter.)

 

Tức thị rằng vùng đất “hoang mạc” (nỗi khổ, sầu muộn, cảm giác bị bỏ rơi) cần được lắng nghe hơn là đàn áp, tự áp chế.

 

Thầy Nhất Hạnh nói về chánh niệm (mindfulness) như một năng lượng, một con đường, không chỉ một phương tiện: (Mindfulness is not a tool … True mindfulness is a path, an ethical way of living.)

 

Chánh niệm giúp người ta “ở với” khổ đau, nhìn rõ chúng mà không phản ứng tự động, từ đó có thể chuyển hóa.

 

Lắng nghe, nói lời thương yêu – ái ngữ – (deep listening, compassionate speech) là một phần của nghệ thuật chữa lành: vấn đề nội tâm không tách rời cộng đồng – để vượt hoang mạc, người ta cũng cần trà trộn, giao cảm, lắng nghe người khác.

 

Quan niệm “interbeing” (tương thuộc) là mấu chốt: mọi sự sống liên đới, không có cái tôi độc lập tuyệt đối. Khi ta cảm thấy “cô độc trong hoang mạc”, Thầy Nhất Hạnh sẽ nhắc nhở rằng cái tôi cô độc đó vốn là ảo tưởng; trong khi ta thực sự “liên-hữu” với mọi người và mọi sự vật.

 

Và trong thực hành: tâm nằm trong hơi thở, bước đi, ăn uống – mọi hành động đời thường đều là dịp để thực tập chánh niệm – khơi lại tương thuộc và chữa lành những vùng “cằn cỗi” trong lòng.

 

Vậy, “giải quyết hoang mạc tâm linh” theo Thầy Nhất Hạnh không phải bằng việc thoát khỏi nó ngay lập tức, mà bằng cách bước vào nó trong chánh niệm, lắng nghe, mở rộng lòng từ bi để nhận ra rằng ta không thực sự đơn độc, đó là tiến trình dần hồi sinh mạch kết nối với mình, với người, với sự sống.

 

3. Krasznahorkai: cái hoang mạc nhân sinh và hư vô kéo dài bất tận

 

Khác với nhà thiền, Krasznahorkai là nhà văn hiện đại/ hậu hiện đại và cách “chiêm nghiệm” của ông là thông qua văn chương – mô tả trạng thái, giọng nói, cấu trúc câu – chứ không đề xuất một phương pháp giải quyết rõ ràng. Ở ông, ta dễ thấy “tâm lý hoang mạc” ở cấp độ nhân sinh: sự kiệt quệ của ý nghĩa, sự cạn kiệt của thời gian, sự căng thẳng giữa khát vọng và thực tại bất định.

 

Có thể nói: Thích Nhất Hạnh là người chữa lành hoang mạc; Krasznahorkai là người làm cho ta thấy nó rõ mồn một và để ta tự mang nó trong mình.

 

Thích Nhất Hạnh là tâm ảnh phương Đông – mở đường thoát khỏi “sa mạc” bằng việc buông bỏ, hòa tan, an trú.

 

Krasznahorkai là ảo ảnh của phương Tây – dấn thân vào “sa mạc” để nhìn tận cùng vô nghĩa, để nghệ thuật còn lại như “bằng chứng con người từng tồn tại”.

 

Tuy hai hướng khác nhau, cả hai gặp nhau ở điểm cốt lõi:

 

“Không ai có thể thật sự thoát khỏi hoang mạc nếu chưa đi xuyên qua nó.”

 

Thích Nhất Hạnh đi qua bằng hơi thở; Krasznahorkai đi qua bằng chữ nghĩa.

Một người “đem nước từ bi tưới mát”, người kia “giữ lại tro than của nhân loại để soi vào đó ánh sáng.”

 

Có chăng ánh sáng của Krasznahorkai là ánh sáng của trí tuệ và nghệ thuật phát ra từ bóng tối của tuyệt vọng. Sự giao thoa đầy lý tính của phương Tây về trí tuệ và nghệ thuật là một hứa hẹn “giải phóng hoang mạc tinh thần” thấp thoáng đâu đó cuối đường hầm. Mong rằng, thế hệ Trí tuệ Nhân tạo và khoa học công nghệ sẽ giúp phát ra tia sáng.

 

Sacramento mùa Thu 2025

Trần Kiêm Đoàn

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
08/11/2025(Xem: 455)
Dường như đều đặn gần 10 năm nay, từ khi học Đạo và nghe nhiều pháp thoại trong các bộ kinh Lăng Nghiêm và Diệu Pháp Liên Hoa và thường tụng niệm chú Đại Bi cũng như các câu chú đại linh mật thông dụng nhứt và nhắn gọn nhứt của Quán Thế Âm theo Mật Tông Tây Tạng là OM MANI PADME HÙM! (Án Ma Ni Bát Di Hồng!) của Phật Bà Tàrà, ứng Thân của Quán Thế Âm: (OM TÀRE TUTTÀRE TURE SVÀHÀ!) con thường nhủ rằng “trong tâm lý học sâu, con người dù trí tuệ đến đâu vẫn có khoảng trống của khổ đau và bất an. Quán Âm là biểu tượng của sự lắng nghe tuyệt đối, của năng lượng dịu lành giúp tâm người được an định.
07/11/2025(Xem: 260)
Trong xã hội ngày nay, khi lời nói dễ dàng trở thành vũ khí sát thương, nó có thể đến từ nguyên nhân: “đề cao cái tôi cá nhân”, “thích phán xét và công kích”, xem sự trừng phạt người khác là tiêu chí để nâng cao đạo đức bản thân, hạ bệ những quan điểm trái chiều. Bạo lực ngôn từ cho thấy sự bất lực của nhận thức khi ngôn ngữ lý luận bị vô hiệu hóa bằng những ngôn từ trấn áp thô thiển.
06/11/2025(Xem: 533)
Bạn thương mến, hy vọng lá thư này đến từ những người đang tiếp xúc trực tiếp với các bạn ( những người chịu nhiều thiệt hại và mất mát sau thiên tai ) như một làn gió nhẹ thổi thật dịu dàng đến những trái tim từng mất tất cả, bằng một lòng thương cảm sâu xa giúp các bạn nhìn lại sự sống bằng ánh sáng hiền hòa của từ tâm và chánh niệm.
02/11/2025(Xem: 470)
Tản mạn về Sống, Chết Sau khi đọc tác phẩm “ Ngón Tay Chỉ Trăng” – HT Thích Từ Thông (Như Huyễn Thiền Sư) Gần đây thường thấy nhiều bài viết thường nhắc đến .. “Cái chết của một người giác ngộ và một người không giác ngộ có gì khác nhau?. “ Rồi sau đó vài người bình luận : A- Cái chết vẫn là một sự tắt ngấm tuyệt đối. Cái chết dù của ai nó cũng có ý nghĩa như nhau, nghĩa là không có ý nghĩa. Người ta nói rằng các bậc chân tu ra đi trong thanh thản, những người mê muội trong đau đớn và thảng thốt. Cái chết là nốt cuối của bản nhạc: nó làm cho bản nhạc toàn vẹn hay là dang dở bất thành. Sự thanh thản đó, nó từ đâu? Từ niềm tin rằng vị chân tu không chết. Chỉ bỏ cái xác trần để đi tiếp
01/11/2025(Xem: 248)
Trăng trần truồng trên rạng núi rừng xa xăm, để rồi đêm về lặng sâu vùi sâu vào bóng tối bao la của biển cả nhiệm màu, không gợi dục, cũng không mời gọi hiến dâng đam mê trần tục...Trang đài quá, Cao sang quá, nuột nà như nét đẹp của người em gái của anh năn nào. Một thời nào đó em đã thầm thì bên tôi “Buổi sáng cười vui ha ha, tối về em chết lịm trong tim anh...Em sẽ đợi, hãy đến bên em khi nào anh muốn” Trực nhớ ngay đến mấy câu thơ của Hàn Mặc Tử : “Trăng năm sóng soải trên cành liễu, Đợi gió đông về để lả lơi
25/10/2025(Xem: 350)
Ngón Tay Chỉ Trăng (tập 01) Trực Chỉ Đề Cương
24/10/2025(Xem: 856)
a bậc tài danh – Leonardo da Vinci, Baruch Spinoza và Vincent van Gogh – mỗi người là một khía cạnh của hành trình nhân loại tìm đến chân lý. Cả ba đều chứng minh rằng: trí mà không phước thì sáng mà mong manh, phước mà thiếu duyên thì nở muộn như hoa trong đêm, còn duyên mà không trí thì chỉ là hư sắc thoảng qua.
24/10/2025(Xem: 692)
Thuần nhiên, nhẹ nhàng như hơi thở là tiếng thơ của Chân Tạng Nghiêm. Một tiếng thơ lấp lánh, long lanh ngời ánh thanh cao, là nguồn thơ trong trẻo, reo ca giọng hát thiên lương trong tận đáy xanh lòng... Lòng yên, tâm lặng như vầng trăng sáng chiếu diệu kỳ. Thi ca đi về trên đôi chân trần, chất phác, nhè nhẹ khẽ chạm vào núi sông, rừng biển, suối thác, mưa nắng, trăng sương, gió mây, cây lá, chim bướm, cỏ hoa trên mặt đất thân yêu. Nhật nguyệt cũng huyền hòa chan chứa giữa ánh sáng ban sơ, diễm tuyệt, bừng lên rực rỡ trong tâm hồn vô ngại của trái Tim Thơ.
22/10/2025(Xem: 455)
Ngày tháng trôi nhanh như gió thổi, như tia chớp bầu trời. Có người lặng nhìn thời gian trong vô vọng rồi cúi mặt cho qua; một số khác thì tỏ ra nuối tiếc vì chưa hoàn tất điều gì đó cho riêng mình. Thời gian cứ vậy, thầm trôi. Nó trôi thật hững hờ và lạnh nhạt. Thật thì nó có tội gì. Nó là cái đồng hồ được quy định theo nguyên lý của ngày và đêm. A.m là sáng mà p.m là tối. Người ta đã quen những ký hiệu này. Ồ, đã 7:00 a.m, ta bắt đầu lao vào cuộc sống để tìm cách mưu sinh, 7:00 p.m thì coi như khép lại một ngày.
19/10/2025(Xem: 336)
Trên những cánh đồng thảo nguyên rộng lớn châu Phi, vào ban đêm, những con ngựa hoang thường bị dơi tấn công bằng cách hút máu và rất nhiều con đã chết sau đó. Tuy nhiên, theo các nhà động vật học nghiên cứu, ngựa không chết vì máu, sự thật thì lượng máu dơi hút từ ngựa không phải quá nhiều đủ để ảnh hưởng tính mạng. Ngựa chết vì tức giận. Khi bị dơi cắn, ngựa giận dữ vì không thể làm gì được dơi và trong cơn giận dữ ấy, ngựa lao đi điên cuồng, đánh mất sự kiêu hãnh của mình mãi cho đến khi chết vì kiệt sức.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com