Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Thầy Tuệ Sỹ và Bùi Giáng với bài thơ tứ tuyệt "Vô Đề"

05/11/201521:28(Xem: 19884)
Thầy Tuệ Sỹ và Bùi Giáng với bài thơ tứ tuyệt "Vô Đề"
On Tue Sybuigiang-chandung



Thầy Tuệ Sỹ và Bùi Giáng với bài thơ tứ tuyệt "Vô Đề"



Bối cảnh ra đời và vài từ ngữ của bài thơ tứ tuyệt vô đề này của nhà thơ Tuệ Sỹ cần được hiệu đính cho đúng nguyên tác vì nếu không thì người đọc không hiểu tính hay đùa của Bùi Giáng và tính hết sức nghiêm túc của Thầy Tuệ Sỹ.

 

* Bối Cảnh Bài Thơ Tứ Tuyệt.

 

Thầy Tuệ Sỹ là một bậc danh tăng uyên bác tam tạng kinh luật luận, sống khắc khổ như một nhà sư khổ hạnh mà tâm hồn vô cùng phóng khoáng trong cuộc đời tự tại cũng như trong cõi thơ thâm viễn vô bờ.  Chưa từng du học ở nước ngoài mà khả năng lưu loát Đức ngữ, Anh ngữ, Pháp ngữ, Hoa ngữ, Tạng ngữ (Sanskrit) và Pali của Thầy thì Bùi Giáng vô cùng ngưỡng mộ mặc dầu khả năng ngoại ngữ của Bùi Giáng đã được thực chứng qua rất nhiều dịch phẩm rất khó dịch từ những tác phẩm của Heidegger như "Being and Time."  Thầy Tuệ Sỹ không những là một nhà trước tác, biên khảo, sáng tác với hơn 50 tác phẩm đồ sộ mà còn là một dịch giả với hơn 10 tác phẩm kinh luật luận chính yếu của Phật giáo. Thầy Tuệ Sỹ còn là "Thầy của những bậc thầy" cả nghĩa đen và nghĩa bóng, trong đó hầu hết chư tôn đức với tuổi đời dưới 70 và đang ở hàng giáo phẩm Thượng Tọa (và Hòa Thượng) hiện nay đều có theo học với Thầy tại Viện Đại Học Vạn Hạnh hay tại các Phật Học Viện khắp Miền Nam thuộc lãnh thổ VNCH.

Trước năm 1975 khá lâu, khoảng năm 1970, một hôm Thầy Tuệ Sỹ đọc cho Bùi Giáng nghe hai câu thơ Hán văn của Thầy và nhờ Bùi Giáng làm tiếp cho thành một bài thơ Tứ Tuyệt vì Thầy không tìm ra được ý mới.

 

" Thâm dạ phong phiêu nghiệp ảnh tùy
" Hiện tiền vi liễu lạc hoa phi

 

(Đêm khuya gió thổi đùa bóng nghiệp

Trước mắt làm liễu lạc hoa bay)

 

Bùi Giáng bèn đọc tiếp, 

 

" Phiêu bồng tâm sự, tân toan lệ, 

" Trí Hải đa tàm, trúc loạn ty.

 

(Tâm sự lâng lâng, dòng lệ khổ

Hổ thẹn với biển trí vì chưa thâu đắc được / rừng trúc rối như tơ)

 thichnutrihai

Ở đây Bùi Giáng có ý đùa là Thầy Tuệ Sỹ "bị khớp" trước Ni Sư Quản Thủ Thư Viện Trí Hải.  Thầy Tuệ Sỹ không giận Bùi Giáng nhưng Thầy rất ngượng nghịu rồi vài hôm sau Thầy trao cho Bùi Giáng bài thơ "Không Đề" mà sau này thì mới có tựa.  Không Đề là bài thơ gồm 3 khổ, khác với bài thơ tứ tuyệt Vô Đề ở trên.

 

Đôi mắt ướt tuổi vàng khung trời hội cũ
Áo màu xanh không xanh mãi trên đồi hoang
Phút vội vã bỗng thấy mình du thủ
Thắp đèn khuya ngồi kể chuyện trăng tàn

 

Từ núi lạnh đến biển im muôn thuở
Đỉnh đá này và hạt muối đó chưa tan
Cười với nắng một ngày sao chóng thế
Nay mùa đông mai mùa hạ buồn chăng


Đếm tóc bạc tuổi đời chưa đủ
Bụi đường dài gót mỏi đi quanh
Giờ ngó lại bốn vách tường ủ rũ
Suối nguồn xa ngược nước xuôi ngàn

 

* Vài Từ Ngữ Cần Được Hiệu Đính Cho Đúng Nguyên Tác.

 

1.- Bối cảnh thời gian ra đời của bài thơ tứ tuyệt này là khoảng năm 1970 chứ không phải vào thời gian rối loạn sau khi có Hiệp Định Paris 1973.  Và các từ ngữ cũng không như bài thơ được đăng trên internet hiện nay vì "tâm sự" với "tân tâm" và "tâm loạn" với "trúc loạn" rất khó đọc, thiếu chất thơ; đấy là chưa nói "loạn" và "ly" không phải là danh từ như "lệ / nước mắt" và "ty / tơ" để hình thành danh từ ghép trong cấu trúc từ theo mô thức "tỉnh từ trước, danh từ theo sau" của ngữ pháp Hán văn.

 

Tứ Tuyệt (bài thơ do Cụ ... post trên Internet)


thâm dạ phong phiêu nghiệp ảnh tuỳ 
hiện tiền vị liễu lạc hoa phi 
Tuệ Sĩ 

phiêu bồng tâm sự tân tâm loạn 
trí hải đa tàm trúc loạn ly 
Bùi Giáng 

 


2.- Một số người khác cũng giải thích bài thơ tứ tuyệt "Vô Đề" này không đúng ý tác giả.  

"Hiện tiền" chứ không phải "hiên tiền / trước hiên" vì ở đây tác giả đang nói về triết lý Nghiệp / Karma, và người gieo nghiệp thiện ác (đã qua) thì bây giờ (hiện tiền) "làm liễu lạc hoa bay."  Do vậy, chữ được dùng là "vi / làm" chứ không phải "vị / sẽ."

Và càng không đúng khi dịch hai câu sau của Bùi Giáng là:

 

" Những điều mong muốn trong lòng không thể thổ lộ ra ngoài làm ông phải khóc thầm

" (Vì) đôi mày (đẹp) của Trí Hải, làm (lòng ông) rối như tơ (phải không).

 
Thật ra, chữ "tàm" nghĩa là "con tằm / hàng lông mày" [蚕] không phải ở đây vì Bùi Giáng "chọc phá" Thầy Tuệ Sỹ chứ Bùi Giáng không dám thất lễ với Ni Sư Trí Hải đâu.  Chữ "tàm" này nghĩa là hổ thẹn [] mới đúng "tâm tư thầm kín" của một vị chân tu và vô cùng uyên bác.  Câu "Trí Hải đa tàm trúc loạn ty" chỉ có nghĩa là " Biển học mông mênh (trí hải / THỨC) mà thẹn lòng rất nhiều vì đầu óc mình (TRÍ) không minh mẫn (rối loạn / khớp)" mà thôi, và đấy là ý của Bùi Giáng để đùa phá Thầy Tuệ Sỹ chứ không phải ý thơ của Thầy Tuệ Sĩ.

Ví dụ, khi một người đàn ông nhìn thấy một cô gái đẹp quá bỗng cảm thấy lòng mình xao xuyến thì anh ta đâu thể nói " Cô / Em đẹp quá làm tâm hồn tôi ngẩn ngơ" mà phải nói gián chỉ chứ đâu có thể nói sổ sàng như thế được.

 

3.- Nhà thơ Hoàng Đình Bảo dịch thơ bài thơ này rất hay nhưng cũng viết sai ba từ "tang bồng / phiêu bồng", "ly / ty" và "da / đa" làm sai lạc ý thơ một trời một vực.

 

Tứ Tuyệt

thâm dạ phong phiêu nghiệp ảnh tuỳ 
hiện tiền vi liễu lạc hoa phi 
Tuệ Sĩ 

tang bồng tâm sự tân toan lệ 
trí hải đa tàm trúc loạn ly 
Bùi Giáng 

đêm thẳm gió lùa trêu bóng nghiệp 
nương về làm liễu lạc hoa bay 
chí lớn trạnh lòng đau đáu lệ 
trúc loạn chưa lìa biển giác ai 

Hoàng Quốc Bảo

 

Đẹp thay tâm hồn trong sáng của một vị Thiền Sư đạo hạnh trước tình cảm tự nhiên của con người !

 

Trần Việt Long

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
27/10/2011(Xem: 12529)
Bùi Giáng, Người viết sách với tốc độ kinh hồn
04/10/2011(Xem: 2934)
Vài năm qua trên báo chí và sách vở xuất hiện một số thảo luận về câu niệm (Nam Mô) A Di Đà Phật hay (Nam Mô) A Mi Đà Phật. Có lẽ khởi đầu từ cuốn "Hương Sen Vạn Đức" của HT Thích Trí Tịnh1(2006), và "Ý Nghĩa Hoằng Pháp và Hộ Pháp" của tác giả Diệu Âm - Diệu Ngộ được ghi nhận trong bài viết trên mạng Thư Viện Hoa Sen (21/6/2011). Phần này chú trọng đến sự khác biệt ngữ âm giữa Di (trong A Di Đà Phật) và Mi (trong A Mi Đà Phật) và không đi vào chi tiết các giáo pháp liên hệ cũng như phạm vi tâm linh tín ngưỡng dân gian. Thanh điệu ghi bằng số ngay sau một âm như số 3 trong min3 hay mǐn (giọng Bắc-Kinh hay BK ghi theo hệ thống pīnyīn thông dụng hiện nay), không nên lầm với số ghi phụ chú (superscript) như min3; dấu hoa thị * (hình sao/asterisk) đặt trước một âm tiết để chỉ dạng cổ phục nguyên (reconstructed sound). Hi vọng bài này cho thấy phần nào khuynh hướng ngạc hóa nói riêng, văn hóa ngôn ngữ Phật giáo nói chung đã đóng góp không nhỏ trong quá trình hình thành tiếng Việt hiện đại.
19/09/2011(Xem: 7691)
Những ai đã đạt được lòng từ bình đẳng tuyệt đối như vậy thì chẳng những đã đạt được an vui cho chính bản thân mình mà tình thương ấy còn lan toả đến tất cả, kể cả những kẻ khuất mặt đang sống trong tối tăm mà lòng lúc nào cũng sục sôi căm thù nữa.
28/08/2011(Xem: 2507)
Tình mẹ và con, một tình yêu thiêng liêng trong nhân loại. Tình yêu ấy gắn bó thiết tha như sóng và nước. Nước là mẹ và sóng là con. Sóng ôm lấy nước...
11/08/2011(Xem: 2508)
Em ơi, anh đã từng đọc những vần thơ đầy sự day dứt của nhà thơ Trụ Vũ khi ông mong muốn diễn đạt một tình yêu dành cho mẹ nhưng đành phải bất lực trước sự giới hạn của ngôn từ và hình ảnh:
29/06/2011(Xem: 6477)
Sách do nhà xuất bản Nguồn Sống ấn hành
02/06/2011(Xem: 2749)
Dù biết rằng rồi một ngày Thầy cũng phải ra đi nhưng con vẫn bàng hoàng xúc động khi nhận được hung tin ! Viết về Thầy, không biết con có diễn tả đầy đủ hết mọi ý nghĩ của mình bởi vì con cũng đã có nhiều kỷ niệm dễ thương về Thầy mà mỗi lần nhớ lại, lòng không khỏi dâng lên niềm xót xa !
30/05/2011(Xem: 8145)
Chùa tôi nho nhỏ bên làng Bên dòng sông quyện bên hàng thông xanh Có tre mấy lũy yên lành Có chim ca hót trên cành líu lo
25/05/2011(Xem: 2460)
Một lần nữa phải cám ơn Hòa Thượng Phương Trượng chùa Viên Giác và anh Chủ bút Phù Vân đã cho chúng tôi có được cơ hội gặp nhau - cùng có chung một đứa con tinh thần - từ đó sợi dây thân ái càng ngày càng ràng buộc và lòng thương yêu nhau càng gắn bó nhiều với thời gian ! Chúng tôi - những cây bút nữ - mỗi đứa ở một phương trời đã quy tụ về dưới mái chùa Viên Giác vào một ngày tháng 8 năm trước, để rồi khi chia tay vẫn còn lưu lại trong lòng nhau những luyến lưu bịn rịn.
24/05/2011(Xem: 6969)
Lá Diêu Bông không hiện hữu trên trái đất này thì làm sao ai mà tìm thấy được và như thế thì chẳng khác nào người đẹp gieo cầu trong gió lớn, làm lỡ duyên người con gái thơ ngây! Tôi viết vài dòng về Lá Diêu Bông vì thấy lyric và nhạc của Trần Tiến mang tính mẫn cảm thật đẹp về tình yêu hơn lyrics và nhạc của Phạm Duy về cùng một bài thơ, Lá Diêu Bông của Hoàng Cầm
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567