Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Nương tựa Tam Bảo là nương tựa chính mình

12/03/202219:51(Xem: 3231)
Nương tựa Tam Bảo là nương tựa chính mình

Phat Niet Ban-1Phat Niet Ban-2

Nương tựa Tam Bảo là nương tựa chính mình

Chút tư duy nhân ngày Đức Phật đại viên tịch Niết Bàn,

(Rằm tháng 2 âm lịch )

 


 

 

 

Dù biết truyền thống của Phật giáo Nam truyền (Tích Lan, Miến Điện, Lào, Campuchia…), Vesak được xem là tháng thiêng liêng nhất, bởi theo truyền thống này Đức Phật Đản sanh, Thành đạo và Niết Bàn đều vào ngày trăng tròn tháng 4 Vesak và theo nghị quyết của Liên Hiệp Quốc vào năm 2000(1) nhưng người viết trộm nghĩ thường vào Đại lễ này Phật Tử và các tự viện chỉ chú trọng đến sự kiện Đức Phật đản sanh với nghi thức tắm Phật và hầu như hai sự kiện khác rẩt quan trọng là Ngày Phật đại viên tịch nhập Vô Dư Y Niết Bàn  không nghe nhắc đến cũng như Ngày Đức Phật thành Đạo .

 

Từ khi bắt đầu vào Đạo tôi đã quen với bốn ngày lễ thật đặc biệt trang trọng khi nhớ đến ân đức Ngài và tôi vẫn nhớ mình đã học ở đâu đó rằng” Ngày Rằm tháng Hai (15/02 âm lịch) vào năm 544 TCN, Đức Phật Thích Ca đã nhập Niết Bàn. Ngay lúc ấy, mặt đất rung động mạnh. Trời, người, muôn vật đều khủng khiếp kinh hoàng. Chư Thiên Trời Đao Lợi ở giữa hư không rải hoa như tuyết rơi để cúng dường Đức Bổn sư Từ phụ Thích Ca Mâu Ni Phật nhập Niết Bàn.

 

Thôi thì hãy trở về tự mình thiết lễ tưởng niệm này Đức Phật nhập Niết Bàn theo truyền thống  cũ ngày trước để có hoàn toàn trọn vẹn một tháng 2 âm lịch với tâm tưởng lúc nào cũng hướng về phẩm kinh Di Giáo mà trong đó lời phó chúc của Ngài vẫn còn vang mãi tận  ngày nay dù đã hơn 2575 năm.

 

“Này! Các người phải tự thắp đuốc lên mà đi! Hãy nương tựa chính mình. Các người hãy lấy Pháp của Ta làm đuốc! Hãy theo Pháp của Ta mà tự giải thoát! Đừng tìm sự giải thoát ở một kẻ nào khác, đừng tìm sự giải thoát ở một nơi nào khác, ngoài các người!

”Vậy, này Ananda, hãy tự coi chính con là hải đảo (chỗ ẩn náu) của con, chính con là chỗ nương tựa của con. Không nên tìm nương tựa bên ngoài "Hãy xem Giáo Pháp là hải đảo của con. Giáo Pháp là chỗ nương tựa của con. Không nên tìm nương tựa ở bên ngoài."Này Ananda, một thầy tỳ khưu phải sống cách nào như coi chính mình là hải đảo, là chỗ nương tựa của mình, không tìm nương tựa bên ngoài?"

Đây này, Ananda, một thầy tỳ khưu sống chuyên cần tinh tấn, suy gẫm, thận trọng giác tỉnh, từ khước mọi tham ái trong thế gian, luôn luôn giữ chánh niệm nơi thân, thọ, tâm và pháp."Dầu ngay trong hiện tại hay sau khi Như Lai nhập diệt, người nào sống đúng theo như vậy, xem chính mình là hải đảo của mình, là chỗ nương tựa của mình, không tìm nương tựa đâu bên ngoài, những vị tỳ khưu ấy sẽ đứng hàng đầu trong những người sống hoàn toàn theo Giới Luật."“Này! Các người đừng dục vọng mà quên lời Ta dặn. Mọi vật ở đời không có gì quý giá. Thân thể rồi sẽ tan rã. Chỉ có đạo Ta là quý báu. Chỉ có Chân lý của đạo Ta là bất di, bất dịch. Hãy Tinh tấn lên để giải thoát, hỡi các người rất thân yêu của Ta!”.

Dù lời di chúc rất rõ ràng như thế nhưng vẫn có một số người thắc mắc giữa nương tựa chính mình và nương tựa Tam Bảo có khác nhau chăng? Vì Quy y Phật Pháp Tăng là trở về nương tựa vào Phât, vào Pháp và vào Tăng.

Người viết đã tìm lại giải đáp trong Phật Pháp Căn Bản (được Sư Khánh Hỷ Việt dịch từ các bài giảng của Trưởng Lão U.Silananda) như sau :

"Nương tựa vào chính mình, lấy mình làm hải đảo của chính mình, đừng nương tựa ai khác" Điều này dường như có vẻ trái ngược lại những điều mà Phật Tử chúng ta làm, đó là: nương tựa Phật, Pháp, Tăng hay Quy Y Phật, Quy Y Pháp, Quy Y Tăng. Và chúng ta cũng thường nghe nói những người nào Quy Y Phật, Pháp, Tăng mới được gọi là Phật Tử.

Nương tựa vào Tam Bảo và nương tựa vào chính mình là hai chuyện khác nhau. "Nương tựa vào Tam Bảo" có nghĩa là chấp nhận Phật, Pháp, Tăng là ba sự hướng dẫn tinh thần; xem Phật, Pháp, Tăng là thầy dạy của chúng ta. Nương theo Phật, Pháp, Tăng để tu hành chứ không phải nương theo Phật, Pháp, Tăng rồi không làm gì cả.

 Ở đây, "lấy mình làm nơi nương tựa của mình" có nghĩa là bạn phải dựa vào chính mình, tự mình nỗ lực để đạt được kết quả tốt đẹp trong việc thực hành giáo pháp. Không ai có thể đem kết quả của việc thực hành của họ tặng cho bạn. Không ai có thể tu thay cho bạn. Bạn phải tự mình thực hành. Bạn phải tự mình nỗ lực để đạt kết quả.

 Như vậy, nương tựa vào Phật, Pháp, Tăng và nương tựa vào chính mình là hai chuyện khác nhau. Trong kinh Pháp Cú Đức Phật dạy: "Chính ta là kẻ cứu rỗi ta. Không ai khác có thể là kẻ cứu rỗi ta".

Và Ngài Trưởng Lão giảng tiếp:

Tại sao Đức Phật dạy rằng: "Con hãy cứu chính con. Không ai có thể cứu con. Bởi vì “cứu rỗi chính mình” có nghĩa là loại trừ phiền não.

 Muốn loại trừ phiền não thì chính bạn phải thực hành. Không ai có thể đi vào trong tâm bạn và lấy đi các phiền não đang nằm trong đó. Nếu chuyện này có thể làm được thì thật là may mắn, tốt đẹp cho chúng ta bởi vì chúng ta chẳng cần hành thiền gì cả. Chúng ta chỉ cần đến gặp vị thầy và để cho vị ấy lấy đi phiền não ra khỏi tâm chúng ta.

Điều này không thể nào có được; bởi vậy, Đức Phật mới nói rằng: Ta không thể cứu các ngươi, các ngươi phải tự cứu mình. Bởi vì chính chúng ta mới có thể cứu chúng ta thôi. Chỉ có chúng ta mới có thể loại trừ phiền não trong tâm mình. Không ai có thể đi vào trong tâm chúng ta để loại trừ tham, sân, si cho chúng ta. Không ai có thể loại trừ phiền não trong tâm chúng ta được.

 Có nhiều người chỉ trích Phật Giáo, và nói rằng: "Tại sao Đức Phật không thể cứu chúng ta nếu Ngài có tâm bi mẫn với tất cả chúng sinh?" Đức Phật là người có tâm đại bi. Điều này có nghĩa là Đức Phật có tâm bi mẫn đối với tất cả chúng sinh không trừ một ai. Đức Phật không thể cứu chúng sinh, đơn giản bởi vì không thể nào cứu chúng sinh khác được, không ai có thể cứu vớt chúng sinh khác được, mọi người đều có nghiệp riêng của mình;

 Đức Phật chỉ hướng dẫn phương pháp và để chúng sinh tự cứu. Nếu Đức Phật có thể cứu chúng sinh thì Đức Phật đã cứu hết rồi. Mục đích của người muốn thành Phật là để cứu chúng sinh, nhưng cứu chúng sinh ở đây có nghĩa là giúp chúng sinh tự cứu.

Cũng thật trùng hợp khi học về những bài Trung Bộ kinh nhất là khi đến bài thứ 11” Tiểu Sư Tử Hống “, tôi lại biết thêm rằng: Muốn tự xem mình có đủ sức nương tựa chính mình không? Mình  cũng cần phải kiểm soát xem đã có chút chánh kiến chưa, đừng tự rống tiếng chó tru thay cho tiếng sư tử (phẩm Chó và Sư Tử trong Tương Ưng bộ kinh  ). Và thế nào là Chánh Kiến và  đạt được sự hiểu biết từ sự hướng dẫn của bậc Đạo sư ?.

Kính xin ghi lại từ bài pháp thoại đã được giảng từ 2015 với Sư Sán Nhiên như sau:

Một người gọi là có Chánh Kiến khi:

1-Đặt niềm tin trọn vẹn  vào Đức Phật hay vị Bổn sư của mình (vị Thầy tế độ ).

2-Phải có niềm tin vào Giáo Pháp (lời dạy của Đức Phật).

3-Phải thành tựu viên mãn về giới luật thanh tịnh và trong sạch.

4-Phải có tâm từ và không cống cao ngã mạn với các bạn đạo của mình.

Và cuối cùng nhận ra 4 tinh hoa của Giáo Pháp Phật đó là ( VÔ THƯỜNG-KHỔ-VÔ NGÃ- NIẾT BÀN ) và sẽ kiên trì tu tập.

 

Muốn như thế, phải chăng....  

 

Lý giải dù có đúng

Nhưng Sự cần phải thông

Nếu như còn vướng mắc

Kiến giải cũng như không

Khi Sự, Lý dung thông

Đến di đều vô ngại

Ngã, Pháp cũng hoàn không

Liền thong dong tự tại .

(HT Viên Minh)

 

 

Nhân ngày lễ Đại Viên Tịch Niết Bàn của Đức Phật, thiết nghĩ cũng nên tìm hiểu định nghĩa rốt ráo nhất của Niết Bàn là gì, kính trích đoạn trong những bài sưu tầm trên Internet như sau:

Niết Bàn của đạo Phật có nghĩa là sự trống vắng của phiền não. Khi ta không tham, sân si, hận, ghét... tức là ta không có não phiền, tự nó là niềm vui, tự nó là hằng sa nhịn nhục, là giác ngộ. Tỉ như khi ta không đau bịnh đó là cảm giác của an lành của thanh tịnh, là Niết Bàn vậy. Đừng nghỉ rằng không đau bịnh là sự trống vắng khơi khơi hoặc trung tính mà nên coi đó là sự trống vắng của não phiền, là Niết Bàn.

Niết Bàn được thực hiện khi nào lửa phiền não đã diệt hết, nghiệp chướng đã tiêu trừ. Niết bàn là rốt ráo, là cảnh giới giải thoát, không sanh, không diệt, bất biến.

Trước nhất, Niết bàn diễn tả trạng thái tâm chứng, hoàn toàn thanh thản, an vui, không bị ngoại cảnh chi phối. Kinh thường gọi là Hữu dư y Niết bàn, thể hiện qua cuộc sống thanh tịnh, giải thoát của Đức Phật và Thánh chúng khi Ngài tại thế. Tiến cao hơn nữa, theo tinh thần kinh Pháp Hoa, Đức Phật cho biết Niết bàn chỉ là phương tiện thị hiện nhằm mục tiêu giới thiệu sự sống thường trú vĩnh hằng của Ngài.

Thật vậy, sau khi trải qua quá trình hành Bồ tát đạo, làm lợi ích cho số đông, mang an lạc cho chư Thiên và loài người, Đức Phật đã hoàn tất mọi việc, việc đáng làm đã làm, điều đáng nói đã nói, Ngài thanh thản vào Niết Bàn

Có mấy loại Niết Bàn? Thực sự, Niết Bàn chỉ có một, nhưng Phật nói có bốn thứ để cho chúng sanh được hiểu rõ về Niết Bàn.

- Bổn lai tự tánh Thanh tịnh Niết bàn nghĩa là căn bản của các pháp vốn thanh tịnh, không sanh không diệt mà vắng lặng trong hư không.

- Hữu dư y Niết Bàn nghĩa là đã ra khỏi phiền não chướng, dù còn ít khổ chưa đoạn hết, nhưng nghiệp chướng đã nhẹ nhàng.

- Vô dư y Niết Bàn nghĩa là đã ra khỏi phiền não, dứt sanh tử, dư báo cũng diệt, các khổ não hằng dứt.

- Vô trụ xứ Niết Bàn nghĩa là không còn sở tri chướng, lòng đại từ, trí Bát nhã xuất hiện hoàn toàn không còn trụ sanh tử.

Đức Thế Tôn đã khẳng định khi nào ta còn vướng mắc tham ái và dục lạc là ta không thể chứng nghiệm được Niết Bàn. 

 

Lời kết:

Đây chỉ là những nhận định của một hành giả còn đang tu tập  với một niềm tin tịnh tín bất động, muốn nương tựa vào chính mình trộm nghĩ ...phải thấy cho được Sự thật Vì một Đức Phật ra đời chỉ là để dẫn dắt chúng sanh thấy ra Sự Thực ( Chân Lý).

 

Nhân ngày tưởng niệm Đức Phật đã thoát khỏi vòng sanh tử luân hồi, kính trích đoạn lời  HT Thích Chơn Thiện trong Phật Giáo Sử Luận cho rằng : “chúng ta cần phải rất cẩn trọng và tỉnh giác một khi nói đến Niết Bàn. Nó không phải là một xứ sở, nó không liên hệ đến thời gian. Bởi thế, thật là dễ ngộ nhận khi nói "Đức Phật nhập Niết Bàn" hay "Nhập Vô dư Niết Bàn.” Nguy hiểm là ở chữ Nhập. Nghĩa là chữ nhập ở đây là không có chủ thểvà đối tượng của nhập thì mới gọi là "nhập.”

Nhưng nếu diễn đạt như thế này thì người nghe do thiếu tỉnh giác có thể cho rằng Niết Bàn chỉ là trống không. 

 

Dù Thế Tôn được định nghĩa dưới hình thức nào, nội dung vẫn được giữ nguyên ý nghĩa: Thế Tôn là bậc đã giác ngộ hoàn toàn, thấy rõ thực tướng của hết thảy các pháp, đã an ổn thoát khỏi mọi khổ ách sanh tử.

 

Chúng ta cũng có thể hiểu Thế Tôn như là một đấng Toàn giác, hay Thực tại Như thực, như Bắc và Nam tạng ghi nhận: "Thấy Duyên khởi là thấy Pháp, thấy Pháp là thấy Phật"

Chứng ngộ quả vị Phật là chứng ngộ Niết Bàn.

Bây giờ chúng ta đi vào ý nghĩa của Niết Bàn. Qua các định nghĩa gián tiếp về Như Lai, thì Niết Bàn mà Thế Tôn chứng ngộ, chứng nhập là kết quả của sự đoạn diệt Mười hai nhân duyên, hay đoạn diệt khổ.

Do đó, Niết Bàn có thể gián tiếp được định nghĩa như là "Khổ diệt", "Ái diệt", "Thủ diệt", "Vô minh diệt", hay bằng các tên gọi tương đương khác như "Vô vi", "Vượt qua bộc lưu", "Qua bờ bên kia.” "Loại hết sanh y" v.v.... mà chúng ta có ngót ba mươi từ tương đương với Niết bàn, ở Nikàya và A Hàm.

Chỉ có thể tạm thời đề cập đến Niết Bàn bằng thái độ phủ định, gián tiếp bằng các định nghĩa được trích dẫn ở trên, hoặc bằng các từ tương đương, không thực sự cắt nghĩa gì cả như từ "Tuyệt đối", "Bất tử", "Vô sinh.

 

Đi vào các ý nghĩa Niết Bàn của Bắc tạng, chúng ta sẽ lý thú làm quen với lối diễn đạt đầy biểu tượng và thi vị.

Bát Nhã cho rằng cứu cánh Niết Bàn là vượt qua hết mọi khổ ách. Khổ ách là do chấp thủ nhân ngã và pháp ngã. Nếu nhờ trí tuệ thấy rõ Năm uẩn là vô ngã thì sẽ cắt lìa chấp thủ và đi ra hết mọi khổ ách. Như thế, vượt qua khổ ách, hay đắc Niết Bàn, chính là sự chứng ngộ, chứng nhập đương thể vô ngã của các pháp. Đương thể ấy thì vô sinh (hay không sanh không diệt). Cho nên đắc Niết Bàn có nghĩa là đắc cái vô sanh. Mà đã là vô sanh thì vô đắc. Do đó, đắc Niết Bàn là không thấy có người đắc và pháp đắc. Khi hoàn toàn vô đắc thì gọi là Niết Bàn hay đắc Niết Bàn.

Tất cả chấp thủ là nội dung ngăn ngại việc chứng đắc Niết Bàn. Cho nên, nội dung của chứng đắc ấy là nội dung của đoạn diệt chấp thủ, đoạn diệt vọng tưởng. Tại đây, Niết Bàn có thể được trình bày gián tiếp như là sự hàng phục vọng tưởng.”

 

Kính trân trọng,


Kính tưởng niệm Đức Từ Phụ, ngày đại viên tịch.

Lời phó chúc di giáo cho mọi chúng sinh

Hãy làm ngọn đuốc...soi rọi chính mình

Từ nguồn Pháp Bảo xuyên suốt....

 45 năm  Đức Đạo Sư dẫn dắt.

 

Kính nguyện hứa với Ngài...

....Buông bỏ mọi vướng mắc,

Biết trùng trùng duyên nghiệp...vạn vật chuyển thay

Ẩn náu bên trong ...nhân quả an bày

Nương tựa chính mình ...Bảo trì tâm tánh lương thiện!

 

Lời dạy...Tứ Niệm Xứ con đường duy nhất ..thực hiện

Thời thời khắc khắc thu thúc lục căn

Quán sát Vô thường, Khổ,...hết những băn khoăn

Mỗi mỗi người ...duy nhất, cá nhân độc lập!

Tự chủ bản thân...tự tịnh hóa, tu tập

Hạ thủ công phu, diệt tham ái vô minh

Dũng khí, quyết chí... vẫn giữ ân tình

Không quên gốc rễ con người...Lòng Thành Tín !

 

Kính đảnh lễ Đấng Toàn Giác ...

...nguyện nương tựa chính mình....khôn khéo ứng biến!

 Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.

 

( thơ Huệ Hương)

 

Melbourne 16/3/2022

Huệ Hương

 

-------------------------------------------------------------

(1)

Nghị quyết LHQ khẳng định 3 điều chính:

1. Công nhận Lễ Vesak là ngày Đại lễ của thế giới, là Lễ Hòa bình LHQ;

2. Công nhận Lễ Vesak là ngày Lễ thiêng liêng nhất của thế giới;

3. Công nhận sự đóng góp của Phật giáo là những đóng góp thiết thực cho thế giới như: Đạo đức, Hòa Bình, Tâm linh, Bình đẳng, bảo vệ môi trường, v.v…,

LHQ yêu cầu sự hổ trợ tổ chức Đại lễ Vesak hằng năm, không những tại trụ sở chính thành phố New York, nước Mỹ mà các trụ sở tại các nước thành viên cũng đều tổ chức bắt đầu từ năm 2000 trở đi. Vào năm 2000, lần đầu tiên Đại lễ Vesak Liên Hiệp Quốc đã được long trọng tổ chức tại Trụ sở chính LHQ New York, Hoa Kỳ với sự tham dự của các truyền thống tông môn pháp phái Phật giáo thuộc 34 quốc gia. Kể từ đó đến nay Đại lễ Vesak đã được tổ chức nhiều năm liền ở trụ sở chính Liên hợp quốc, New York, Hoa Kỳ và ở các nước có Phật giáo đăng cai.




facebook

youtube

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
16/10/2010(Xem: 6806)
Đây là bài thuyết giảng về "Đức Phật của chúng ta" một đề tài dễ làm cho Phật tử ngạc nhiên, vì Đức Phật của chúng ta là Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật rồi còn gì mà phải đặt vấn đề. Nhưng vấn đề sở dĩ được đặt ra là nhiều khi chúng ta chưa có được một cái nhìn thấu triệt tất cả tinh tường, đức tướng, hạnh đức, tin đức của đức Phật chúng ta. Do vậy, bài này, một phần giúp chúng ta trả lời những thiếu sót như vậy... Chính thái độ hóa thần thông để giáo hóa chúng sanh đã làm nổi bật giá trị tâm lý hoằng pháp mà Đức Phật của chúng ta đã dùng để hoằng hóa độ sanh.
16/10/2010(Xem: 6213)
Đức Thích Ca Mâu Ni đã vì một đại nguyện lớn lao, một lòng từ vô lượng mà khước từ mọi hạnh phúc, quyền uy, tiện nghi vật chất để cầu đạo giài thoát.
12/10/2010(Xem: 4609)
Lời người dịch: bài này được trích dịch từ một tập sách nhỏ có tựa đề “ 101 điều về Giáo Lý” (Dharma 101) là những câu hỏi thường xuất hiện trong quá trình tu học của người Tây Phương. Những câu hỏi (Đức Phật là ai ? Đức Phật ở đâu ?, niềm tin quan trọng ra sao ?, tại sao chúng ta phải cúi chào ? bạn là ai ? nghiệp là gì ?) có thể nghe quen thuộc đối với nhiều người nhưng câu trả lời có thể không quen thuộc. Điều này có thể do có sự khác biệt về quan điểm hay về sự hiểu biết giữa các vị Thầy, hoặc sự khác biệt giữa các truyền thống. Ba Thừa chính yếu của Phật Giáo tại Á Châu (Tiểu Thừa, Đại Thừa và Kim Cang Thừa) có sự khác nhau về lý tưởng, pháp tu và cách trình bày. Ví dụ những câu hỏi về sự giác ngộ có thể có câu trả lời của một vị Thầy Đại Thừa ở Đông Á khác với câu trả lời của một đạo sư Kim Cang Thừa của Tây Tạng. Một câu hỏi về ý niệm của tánh không Phật Giáo sẽ có hai câu giải đáp khác nhau bởi một vị Sư Nam Tông ở Đông Nam Á và một vi Thầy bên Đại Thừa. Nhưng ở Tây Phương, nơi
08/10/2010(Xem: 5783)
Người ta luôn hỏi câu này, Phật đã đi đâu và hiện nay ngài đang ở đâu? Đây là một câu hỏi rất khó trả lời cho những ai không có một sự tu tập về đời sống tâm linh. Bởi vì người đời thường nghĩ về cuộc sống theo cách của thế gian. Họ khó có thể hiểu được khái niệm một vị Phật. Vài nhà truyền giáo nào đó tiếp cận các Phật tử và nói rằng Phật không phải là một vị thần mà chỉ là một con người. Ngài đã chết và không còn nữa. Vậy thì làm sao người ta có thể tôn sùng một người cũng đã chết? Những chúng ta phải hiểu rằng, Đức Phật được tôn xưng là Thiên Nhân Sư, vị thầy của chư thiên và loài người. Bất cứ khi nào chư thiên có gặp khó khăn, họ đều gặp ngài để xin lời khuyên. Thế rồi họ nói rằng vị chúa tể của họ vẫn hằng sống, và đó là lý do tại sao người người cầu nguyện với Ngài.
06/10/2010(Xem: 2358)
Đức Phật tướng hảo trang nghiêm, kim dung từ bi, hàng sơ học chỉ có thể dựa vào thánh tượng mới có thể nhận thức được Phật. Chủng loại thánh tượng của Đức Phật rất nhiều...
03/10/2010(Xem: 1962)
Ngài luôn luôn cổ súy tinh thần tự lực của mỗi người để tìm lấy sự giải thoát cho chính mình và điều này như là một sợi chỉ xuyên suốt trong toàn bộ hệ thống giáo lý của Phật...
30/09/2010(Xem: 2648)
Tiếng Phạn Sarìra, PàliSarìra có nghĩa làtử thi, di cốt:dịch ý là thể, thân, thân cốt, di thân.Thông thường xá lợi dùng để chỉ cho di cốt của Phật, nên gọi là Phật cốthay Phật xá lợi.Chữ này về sau cũng dùng để chỉ cho phần xương đầu của các bậc cao tăng sau khi viên tịch hỏa thiêu còn lại. Hơn nữa, bảo tháp dùng để tôn trí xá lợi của Phật gọi làTháp xá lợi; nơi an tri bình xá lợi của Phật gọi là Bình xá lợi; Pháp hội cúng dường xá lợi Phật gọi làHội xá lợi.
29/09/2010(Xem: 5262)
Ngoài việc nói pháp đúng đối tượng nghe, Thế Tôn còn nói pháp đúng thời và đúng chỗ, khiến cho tác dụng của thời pháp được tăng thêm hiệu quả.
25/09/2010(Xem: 9579)
Theo lời đức Bổn Sư Thích-Ca Mâu-Ni Phật chỉ dạy trong kinh A Di Đà, cách thế giới Ta-Bà của chúng ta 10 muôn ức cõi Phật về hướng Tây rất xa, có một thế giới tên là Cực Lạc, Đức Phật giáo chủ cõi đó làPhật A-Di-Đà hiện đang thuyết pháp độ sanh. Đức Phật A Di Đà là một ngôi giáo chủ trên cõi LạcBang, oai đức không cùng, thệ nguyện rất lớn, mở môn phương tiện, độ kẻchúng sanh ra khỏi Ta bà đem về Tịnh độ.
22/09/2010(Xem: 9599)
Cuộchành trình miên viễn của kiếp sống trầm luân sáu nẻo luân hồi đã thôithúc rất nhiều người đi tìm những phương pháp để thoát ly khổ não. Hạnh phúc và khổ đau là hai thực trạng của cuộc sống mà con người luôn đề cập tới. Nhưng để biết được hạnh phúc là gì thì con người phải trực nhận ra được bản chất của khổ đau như thế nào rồi mới bàn tới phương pháp giải quyết khổ đau... Sau khi nhận lời thỉnh cầu của Phạm thiên, đức Phật dùng tri kiến thanh tịnh quan sát khắp cả thế giới. Bằng tuệ nhãn, Ngài thấy chúng sanh có nhiều căn tánh bất đồng...
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567