Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Vươn tay vun xới phước điền...

29/08/201310:08(Xem: 2881)
Vươn tay vun xới phước điền...

01ducp04
VƯƠN TAY VUN XỚI PHƯỚC ĐIỀN

GIEO MẦM TUỆ GIÁC LƯU TRUYỀN ĐẠO TÂM

TỊNH MINH


Đệ tử Đức Phật Thích Ca được phân thành bảy chúng: Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Sa-di, Sa-di-ni, Thức-xoa-ma-ma (giai đoạn 2 năm thử thách, phấn đấu dành cho Sa-di-ni trườc khi thọ giới cụ túc), Ưu-ba-tắc (Phật tử nam tại gia), Ưu-bà-di (Phật tử nữ tại gia). Riêng chúng Ưu-ba-di là giới Phật tử thân cận thiền môn, chăm sóc và giúp đỡ Tăng, Ni về nhiều phương diện: y phục, phòng xá, thực phẩm, thuốc thang v.v…, không những trong thời đại văn minh hiện nay, mà ngay cả từ thời Thế Tôn còn tại thế. Các bà, các cô, nhất là các cụ Phật tử lớn tuổi, mỗi khi đến chùa là mang cả suối nguồn tâm linh của mình dâng lên Tam bảo. Cứ nhìn vào những dịp lễ lạc hay ma chay diễn ra tại bất cứ chùa nào, ở thành thị phồn vinh hay nông thôn đạm bạc, đều bắt gặp những cánh tay vươn dài, thoăn thoắt phục vụ hậu cần với ánh mắt hồn nhiên, tâm tư rỗng lặng, quả thật các bà các cô bấy giờ là lúc đang chung sức chung lòng, cảm thông hoan hỷ, chia sẻ đạo tâm tình cảm cho nhau theo lời nguyện: “Phụng sự chúng sanh tức là cúng dường chư Phật”.

Trong kinh văn Phật giáo, ta thấy rất nhiều hình bóng Phật tử Ưu-ba-di âm thầm nuôi dưỡng đạo tâm, phát huy tuệ giác qua những việc làm hằng ngày tại các thiền môn như quét sân, nấu cơm, rửa chén, lau nhà, rồi thì tụng kinh, bái sám v.v…, những việc tưởng chừng như đơn điệu nhưng kỳ thực đòi hỏi một công năng hàm tàng, một tín tâm vững mạnh, một túc duyên, thiện nghiệp lâu đời mới kham nổi.

Truyện kể rằng một hôm, tại vương quốc Kô-xa-la, mẹ của Ma-ti-ka (Matika), một cụ bà chánh tín Tam bảo, đứng nhìn sững sờ đoàn Sa-môn 60 vị đang chánh niệm theo từng bước thiền hành. Sau đó bà ngỏ lời phát tâm cúng dường vật thực và tạo cơ duyên lưu trú cho các sư an cư ba tháng tại bản làng. Bà được các sư hướng dẫn tu theo pháp môn quán Tứ niệm xứ, tức là: Quán thân bất tịnh, thọ thị khổ, tâm vô thường, pháp vô ngã. Và chỉ sau vài tháng công phu quán niệm, bà chứng một lúc ba thánh quả: Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, và bốn phép thần thông: thần túc thông, tha tâm thông, thiên nhãn thông và thiên nhĩ thông. Bấy giờ, bằng cái nhìn liễu ngộ siêu việt với niềm hỷ lạc đạt đạo, bà tự nhủ: “Không biết đến bao giờ các sư mới đạt thánh qủa! Các sư còn nhiều bận bịu, còn nhiều vướng kẹt trong quan niệm, đối đãi! Các sư quán chiếu nhiều mà chưa nếm được hương vị thiền duyệt!”

Nhưng rồi bà thấy ngay khả năng nội quán thanh lương của các sư, chỉ thiếu chút duyên cho tìm lực được thăng hoa, thànhh tựu. Bà thiết lễ trai tăng tại nhà với nhiều lễ vật đặc biệt, rồi thỉnh chúng Tăng thọ thực. Trong lúc chứng trai, các sư, không ai bảo ai, tự nhiên nỗ lực chú tâm vào năm phép quán về tự thân: 1. Xem xét khả năng thiền định. 2. Đánh giá đức hạnh tu hành. 3. Hàng phục tham tâm vọng tưởng. 4. Nghĩ thực phẩm là thuốc hay. 5. Vì đạo nghiệp mà thọ thực. Trong lúc nhứt tâm quán chiếu, các Sa-môn bỗng thấy thân tâm khinh an, thanh tịnh và chứng quả A-la-hán. Họ cùng nhau tán thán: “Cao quý thay công đức hộ trì Tam bảo. Nếu không có trai lễ hôm nay, chúng ta biết đến bao giờ mới chứng thành đạo qua!”

Sau đó Tăng chúng quyết định về thăm Đức Bổn Sư, và cũng để báo cáo thành tích tu tập. Họ cùng nhau đến thăm và ngỏ lời tạm biệt vị ân nhân cao quý được xem như mẹ hiền:

- Kính bạch tôn thân, hôm nay chúng con về thăm Đức Từ Phụ. Xin cảm ơn đôi tay từ ái của mẹ. Chúc mẹ ở lại mạnh khỏe trong ánh hào quang của chư Phật.

- Lành thay! Chúc các Sư lên đường bình an. Và cho đệ tử kính lời hầu thăm Đức Thế Tôn.

Họ cùng nhau chắp tay xá chào tạm biệt với lòng lâng lâng hạnh phúc.

* * *

Còn Minh Nguyệt (Visàkhà) là một nữ đại thí chủ đối với Đức Thế Tôn và Tăng đoàn. Bà thâm tín chư Phật, suốt đời toàn tâm tận lực vun xới phước điền bằng cách chăm lo tứ sự cúng dường cho Tăng chúng. Bà phụng sư Tam bảo bằng tâm hồn rỗng rang, vô ngại. Một đêm rằng tháng tư, nhân lúc dự lễ khánh thành một tu viện, thấy công đức xây dựng của mình được thành tựu viên mãn, nhất là niềm vui được thể hiện qua từng bước thiền hành của Đức Thế Tôn và đại chúng vòng quanh chánh điện, bà cùng các cháu chắp tay chánh niệm theo sau chúng Tăng, bỗng dưng bà cất lời luyến láy với ngữ điệu ngọt ngào, tán thán:

Bao năm tứ sự cúng dường,

Hộ trì Tam bảo tuyên dương pháp mầu,

Thiền môn lộng ánh trăng sao,

Nghe trong cây cò dạt dào tình quê.

Nghe âm thanh mượt ma của bàø, các sư lấy làm ngạc hiên, hỏi Phật:

- Bạch Đức Thế tôn, chúng con chưa bao giờ nghe Minh Nguyệt hát. Thế mà hôm nay bà cùng các cháu hân hoan ca khúc khải hoàn vòng quanh chánh điện. Bà ấy lên cơn tâm thần hay có điều uẩn khúc trong lòng?

- Bà ấy đâu có hát. Thế Tôn mỉm cười, đáp. Chỉ vì tâm nguyện xây chùa được thành tựu nên phấn khởi reo lên thành lời đấy thôi.

- Nhưng … bạch Thế Tôn, Minh Nguyệt phát nguyện xây chùa hồi nào?

- Vậy thì hãy lắng nghe, này các thầy Tỳ-kheo.

Sau đó Thế Tôn kể chuyện rằng trong quá khứ xa xưa có một Đức Phật hiệu là Pa-đu-mút-ta-ra (Padumuttara) xuất hiện tại thành Ham-xa-va-ti (Hamsavati). Bấy giờ có một tín nữ tận tâm chăm sóc, cúng dường cho Đạo sư. Bà có người bạn thân thường cùng nhau đến chùa tụng kinh, nghe pháp. Thấy thầy trò thường thân cận quý mến, bà bạn sanh tâm nghi ngờ, hỏi:

- Bạch Đạo Sư, con có chút vướng kẹt, xin Đạo Sư từ bi hỷ xả tháo gỡ cho. Thú thiệt, người phụ nữ này quan hệ thế nào với Ngài?

- Cô ấy là ân nhân, là đại thí chủ của ta.

- Đạo Sư, vì sao phụ nữ thường là ân nhân của chư Phật?

- Vì nguyện lực thiết tha của họ.

- Đạo Sư, liệu một phụ nữ có thể trở thành ân nhân bằng nguyện lực như thế ngay trong lúc này?

- Dĩ nhiên!

- Thế thì, bạch Đạo Sư, con xin cúng dường vật thực cho hàng ngàn Sa-môn trong bảy ngày.

- Lành thay!… Lành thay!…

Suốt bảy ngày, bà tịnh tâm cúng dường thức ăn, nước uống cho Tăng đoàn. Đến ngày thứ bảy, bà đảnh lễ Đạo Sư, tỏ lời thiết tha phát nguyện:

- Kính bạch Đạo Sư, con cúng dường lễ vật không phải vì phước báo chư thiên, mà chỉ vì ước nguyện mai sau con là mẫu thân của một vị Phật. Con là tín nữ trung kiên hàng đầu, trải lòng cung hiến y phục, vật thực, phòng xá, thuốc thang cho Đức Phật đó.

Chỉ trong tích tắc, vị Đạo Sư thấy rõ chuỗi thiệân duyên nhân quả kia hiện ra trước mắt. Ngài mỉm cười, nói:

- Ngàn vạn kiếp sau sẽ có Đức Phật hiệu Gô-ta-ma (Gotama) ra đời. Lúc đó cô là một Ưu-bà-di trung kiên, tên là Minh Nguyệt. Cô sẽ có dịp trang trải công đức, thiết lập phước điền nơi tay Đức Bổn Sư của cô.

Thế đó!… Thế Tôn tiếp lời. Minh Nguyệt đâu có hát. Chỉ vì thấy chùa chiền trang nhã, ý nguyện viên thành nên lòng mừng mà reo lên đấy thôi.

* * *

Còn rất nhiều gương điển hình hộ trì Tam bảo như thế. Như trong Đại tạng Cao Ly, tập 11, phẩm A-xà-thế vương thọ quyết kinh, có chuyện bà cụ ăn xin, thấy quốc vương A-xà-thế cúng dường dầu, đèn cho Thế Tôn và Tăng chúng, bà cũng phát tâm nhịn ăn một ngày, dành hai cắc bạc mua dầu. Người bán hàng thấy vậy, quay mặt nói mỉa:

- Già nua khốn khó, xin ăn qua ngày mà còn bày đặt cúng dường.

- Có khốn khó gì cũng không bằng cái khó gặp Phật ra đời. Bà biết hôn, dầu đèn là tượng trưng cho hai năng lực từ bi và trí tuệ của đạo Phật đấy. Tôi nguyện nhịn ăn một ngày cũng không sao.

Bà chủ quán nghe nói cảm động, cho thêm dầu vào đầy đèn, và bớt hai xu để bà lão có được cái bánh tiêu hôm đó. Đúng là: “Bần cùng bố thí nan”.

(Tịnh Minh, đã đăng trong tuần báo Giác Ngộ, số 289, đặc san Vu Lan PL. 2549-2005 (11/8/2005 – 7/7/Ất Dậu)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
19/02/2011(Xem: 2009)
Luận điểm cho rằng Đức Phật là người tích hợp tư tưởng triết học Ấn Độ bắt đầu với các triết gia Bà-la-môn giáo nhằm hạ thấp triết học Phật giáo xuống mức bình thường, không có gì sáng tạo như Gaudapada, Dinnaga, Shankara…(Vì không có phần mềm gõ chữ Sanskrit và Pali nên các thuật ngữ này chúng tôi viết theo dạng La-tinh hóa). Tiếp đến là những giáo sĩ và tín đồ Bà-la-môn muốn xóa sổ Phật giáo ở Ấn Độ bằng cách tuyên truyền rằng, Đức Phật là hóa thân thứ chín của thần Visnu! Và cho rằng những học thuyết như luân hồi, nghiệp… là của đạo Bà-la-môn, chỉ vì chúng giống nhau về tên gọi (nhưng lại hoàn toàn khác nhau về mặt nội dung).[1] Sai lầm này, đến ngày nay, vẫn còn ăn sâu trong tâm trí những người Bà-la-môn.
04/02/2011(Xem: 2901)
Many, many years ago, in a small kingdom in the north of India, something was happening that would change the whole world.
02/02/2011(Xem: 4745)
Nhân nói về mùa XuânDi-lặc và vị Phật tương lai – Ngài Bồ-tát Di-lặc, có lẽ cũng cần tìm hiểu thêmvề một vị Di-lặc khác: Luận sư Di-lặc, thầy của Luận sư Vô Trước. Theo Wikipedia, mộtsố các nhà Phật học như các vị giáo sư Erich Frauwallner, Giuseppe Tucci, vàHakiju Ui cho rằng Luận sư Di-lặc (Maitreya-nātha– khoảng 270-350 TL)là tên một nhân vật lịch sử trong 3 vị luận sư khai sáng Du-già hành tông (Yogācāra)hay Duy thức tông (Vijñānavāda)...
01/02/2011(Xem: 2230)
Người ta luôn hỏi câu này, Phật đã đi đâu và hiện nay ngài đang ở đâu? Đây là một câu hỏi rất khó trả lời cho những ai không có một sự tu tập về đời sống tâm linh.
13/01/2011(Xem: 18941)
Trong Đường Xưa Mây Trắng chúng ta khám phá ra Bụt là một con người chứ không phải là một vị thần linh. Đó là chủ tâm của tác giả...
05/01/2011(Xem: 3320)
Sau khi Đức Phật nhập niết-bàn, xá lợi của Ngài được chia thành tám phần cho tám lãnh thổ như Vương Xá (Rājagaha), Vesāli,, thành Ca-tì-la-vệ (Kapilavatthu), Allakappa, Rāmagāma, Vethadīpa, Pāvā và Câu-thi-na (Kusinārā). Để có nơi tôn kính thờ xá lợi của các bậc thánh, kiến trúc của các ngôi tháp bắt đầu phát sanh và tiến hóa. Nhiều thế kỉ trôi qua, Phật giáo theo thời thế mà thăng trầm lên xuống và xá lợi hầu hết cũng bị thất lạc. Vào thế kỉ XX, các nhà khảo cổ trong khi khai quật vùng Taxila và ngọn đồi Long Thọ (Nāgārjunakondā) đã tìm thấy các viên xá lợi thật của của Đức Phật và hiện nay được thờ tại Sārnātha. Tác giả Tham Weng Yew đã viết về lịch sử và ý nghĩa của việc thờ xá lợi, tiến trình thăng hóa các đền tháp thờ cùng các hình ảnh minh họa. Tỳ-kheo-ni Giới Hương đã phát tâm dịch ra tiếng Việt và đây là lần xuất bản thứ 2.
05/01/2011(Xem: 2265)
Trong Việt Nam Phật Giáo sử luận, tập một, khi bàn về sự liên hệ giữa thiền và thi ca, giáo sư Nguyễn Lang viết: "Thi ca không có hình ảnh thì không còn thi ca nữa, cũng như đi vào lý luận siêu hình thì thiền không còn có thể là thiền nữa" Nhưng thế nào là hình ảnh, giáo sư Nguyễn Lang giải thích:
04/01/2011(Xem: 42257)
QUYỂN 5 MÙA AN CƯ THỨ MƯỜI BỐN (Năm 574 trước TL) 91 CÁC LOẠI CỎ Đầu Xuân, khi trời mát mẻ, đức Phật tính chuyện lên đường trở về Sāvatthi. Thấy hội chúng quá đông, đức Phật bảo chư vị trưởng lão mỗi vị dẫn mỗi nhóm, mỗi chúng phân phối theo nhiều lộ trình, qua nhiều thôn làng để tiện việc khất thực. Hôm kia, trời chiều, cạnh một khu rừng, với đại chúng vây quanh, đức Phật ngắm nhìn một bọn trẻ đang quây quần vui chơi bên một đám bò đang ăn cỏ; và xa xa bên kia, lại có một đám trẻ khác dường như đang lựa tìm để cắt những đám cỏ xanh non hơn; ngài chợt mỉm cười cất tiếng gọi:
21/12/2010(Xem: 1709)
Năm đầu tiên (528 TTL): Sau khi thành đạo vào đêm rằm tháng Vesakha (tức tháng Tư âm lịch), Đức Phật đến ngụ tại khu vườn nai (Lộc uyển), vùng Chư thiên đọa xứ (Isipatana) tức Sa-nặc (Sarnath) ngày nay, gần thành Ba-na-lại (Benares). Tại đó, Ngài giảng bài kinh đầu tiên, kinh Chuyển Pháp Luân, hóa độ năm anh em đạo sĩ Kiều-trần-như (Kodañña) và cư sĩ Da-xá (Yasa).
24/11/2010(Xem: 10374)
Bộ Ảnh về Cuộc Đời Đức Phật, Bộ hình phác họa về lịch sử, cuộc đời đức Phật do một họa sĩ người Thái Jamnuon Jhanando thực hiện. Những lời giải thích do cá nhân chúng tôi chú thích, nếu có sai sót xin nhờ quý vị chỉnh sửa dùm cho đúng. Kính tri ân…
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567