Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Cách tiếp cận của Phật giáo về sự lãnh đạo bằng Chánh niệm giúpngày ngày anvui

07/07/201915:41(Xem: 4900)
Cách tiếp cận của Phật giáo về sự lãnh đạo bằng Chánh niệm giúpngày ngày anvui

Phat_Thich_Ca_14
Cách tiếp cận của Phật giáo về sự lãnh đạo bằng
Chánh niệm giúpngày ngày anvui
                                                                                                           
Bhikkhuni Thích Tịnh Vân


            Triết lý hay mục đích sống là lý tưởng, giá trị cốt lõi của mỗi người, chính vì thế mà ngày nay,hầu hết trong chúng ta, ai cũng có khuynh hướngtìm về sự thật, mộtgiải pháp cứu cánh, rốt ráo, an toànvì ‘hòa bình bền vững’, xã hội trật tự vàngày ngày an lành ... Hòa chungtrách nhiệm, bản hoài, thông điệp : ‘Chân lý chỉ có một’,[1]đồng nghĩa với ‘Sự lãnh đạo bằng chánh niệm’ qua cách tiếp cận của Phật giáo, mang vạn niềm vui đến với muôn loài. Thật vậy, Phật giáo với trọng trách mang ‘an vui lâu dài’, là nội dung cốt lõi của xã hội nhân loại, cũng là tiền đề cho một xã hội bền vững;trong đó mỗi cá thể cần củng cố,xây dựngnội tâmkiên cố dựa trên phương cách lãnh đạo bằng‘chánh niệm’, đểcùng nhìn lại, quán chiếu và cùng dẫn đến trách nhiệm sẻ chia …

Khicon người cùng chung trách nhiệm bổn phậnvới nhau,thì môn học về sự tự rèn, tự hiểu,ý thức … dành cho mỗi người, nhờ cách tiếp cận của Phật giáo, dựa trên nền tảng đạo đức Giới Định Tuệ (Ti-sikkhā) /Tam Vô Lậu Học,được con ngườiquyết tâm khai thác,thực hiện. Bởi vì:

Quá khứ không truy tìm, Tương lai không ước vọng
Quá khứ đã đoạn tận, trong khi Tương lai lại chưa đến’.[2] 

 

Một cá thể sẽ trở thànhcông dân tốt/ Phật tử tín thành/ bậc trượng phu/ người có trí…nếu vị đó có hiểu biết đúng, có tự chủcao và biết phấn đấu làm điều thiện lành. Từ những việc đã bàn, vị này nhất định sẽ hết lòng cống hiến cho đời,cộng đồng, xã hội,nhân loại những giá trị,phúc lợi của sự tử tế (karuṇā), lòng cảm thông (samasukhadukkhatā) và tâmthiện chí (hitakāmatā)… Ngang qua sự đóng góp thiết thực của mình,bài viết có tựa đề:‘Cách tiếp cận của Phật giáo về sự lãnh đạo bằng chánh niệm giúpngày ngày anvui’, với mong muốn tái tạo ‘hiện tại lạc trú’ (diṭṭhadhamma-hitasukha), nhờkhéo sống trong hiện tại:

Chỉ có pháp hiện tại 
Tuệ quán chính ở đây.
 
Không động, không rung chuyển
 
Biết vậy, nên tu tập’
[3]
 
Đúng như:‘Hiện tại là một sự thật, không có sự thật thứ hai,’ thời chúng ta cần khắc ghi trong tâm trí:

‘Evaṃ kho purisa jānāhi, pāpadhammā asaññatā.

Mā taṃ lobho adhamma ca, ciraṃ dukkhāya randhayuṃ’.

               Vậy ngươi hãy nên biết – Không chế ngự là ác
               Chớ để tham phi pháp – Làm ngươi đau khổ dài.              
                                                                                                                           (Dhp. 248)

Sự việc ở đờidùthế nào đi nữa, thì lời dạy của đức Phật muôn thuởvẫn không thay đổi, nghĩa là: ‘con người nên‘chú tâm cảnh giác, chánh niệm tỉnh giác’.Con người cần trau dồi tâm trí, khiý thức ‘quá khứ và vị lai - sống và chết’ … chỉ là sựtiếp nốicủa các chuỗinhân duyên:chúng vừa là nhân cũng là quảcủa một giai đoạn (Paṭiccasamuppāda); vì thế chúngkhông phải một mà cũng chẳng phải khác (na ca so na ca añño). Điểmnhấn, quan trọng, căn bản, cốt lõi … nhắc nhởchúng ta: ‘hiện tại cần nên, tu tập, tuệ quán…dựa trên nền tảng đạo đức’.

Thế nên có bốn hạng người[4] ở đời minh chứng, xác thực cho dẫn chứng ‘Bồi công dưỡng đức’ vừa nêu:

Hạng 1: Ngay đời này (hiện tại), một người làm 10 ác nghiệp (akusala) về thân khẩu ý là do kiếp trước (quá khứ) đã quen làm các pháp ác, bất thiện;đến giờ phút chót cuộc đời, gần khi lâm chung vị này còn bị vô minh che phủ;thamđắm, ái nhiễm, chấp chặt quan điểm (micchādiṭṭhi) của mình. Có thể nói(tương lai)về sau, nhất địnhvị này cũng sẽ lập lại thói quen,vết đổ cuộc đời (akusala). Kết quả chính xác cho thấy, sau khi thân hoại mạng chung, người nàyphải bị đọacõi dữ (duggati), ác thú, đọa xứ, địa ngục, chịu nhiều cảm giác đau đớn, thống khổ.

Hạng 2: Ngay tại đời này (hiện tại), một người làm 10 ác nghiệp (akusala) về thân khẩu ý, nhưng vì kiếp trước (quá khứ) đã trồng các pháp thiện; đến giờ phút chót gần lúc lâm chung, vị này tỏ ra hối hận, ăn năn, một lòng muốn quy hướng Tam Bảo (sammādiṭṭhi);lại phát nguyện đời đời nhất tâm nỗ lực, tinh cần, tinh tấn đitrên con đường thiện/ làm lành (kusala) lánh dữ ... Với nội tâm đã gột cấu uế,[5]chắc chắn (tương lai) về sau vị này chấm dứt, đoạn tuyệtđiều ác. Kết quả cho thấy rõ ràng, sau khi thân hoại mạng chung, người này được sanh cõilành (sugati)/ thiện thú: cõi người hoặc trời, thọlãnh cảm giác an vui.

Hạng 3: Ngay tại đời này (hiện tại), một người không làm 10 ác nghiệp (kusala) về thân khẩu ý, do kiếp trước (quá khứ) đã trồng các pháp lành (kusala); đến giờ phút chót cuộc đời, gần lúc lâm chung vị này suy nghĩ những gì cần làm tốt cho đời, ta đã hoàn xong trách nhiệm (sammādiṭṭhi). Tâm vị này do đã thanh lọc, tẩy trừcác cấu uế, phiền não, lậu hoặc;lại một lòng quy hướng về Ba ngôi Báu, nhất định trong giây phút tương lai gần kề, vị này ‘sanh phùng trung quốc, trưởng ngộ minh sư’... Kết quả tròn đầy cho thấy, sau khi thân hoại mạng chung, người này được sanh cõi thiện (sugati)/ cõi lành: hoặc làm người hoặc sanh cõi trời, nhận lãnh cảm giác bình an, vắng lặng, tịch tịnh, mát mẻ.

Hạng 4: Ngay tại đời này (hiện tại), một người không tạo 10 ác nghiệp (kusala) về thân khẩu ý, nhưng trong kiếp trước (quá khứ) đã quen làm các pháp ác (akusala), bất thiện; đến giờ phút chót cuộc đời, lúc gần lâm chung, tập khí ác làm chủ;tâm ái nhiễm, ham thích những việc bất lương; chấp trì,nắm giữ cácviệc tạo tội (micchādiṭṭhi) của mình đã gây. Nhất định (tương lai) về sau, dotâm uế trược dẫn đầu,lôi kéo,phán quyết, sai xử, ra lệnh… , nên sau khi thân hoại mạng chung, người này phải bị sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục, hứng chịu cảm giác hạ liệt, đau đớn, thống khổ (duggati).

Nói đơn giản/ vắn tắt như sau:

 


 Loại người     Quá khứ     Hiện tạiVị Lai      Lâm chung      Sanh vào                                

 

  1. akusala      akusala            akusala            micchā        duggati

                                                                                                                                                                                                                                                            diṭṭhi  

 

            2.         kusala              akusala            kusala              sammā         sugati                                                 

                                    diṭṭhi

 

3.         kusala              kusala              kusala              sammā sugati

 

                                    diṭṭhi  

 

    4.         akusala            kusala              akusala            micchā          duggati                                                                                                                                                                                                                                                        diṭṭhi              

 


               Bản tóm tắt trên nhắn nhủ: Nếu con người thiếu hiểu biết,thiếu nhận thức đúng (sammādiṭṭhi)về sự việc, con người có thể bị dẫn đến những nhận thức sai lầm (micchādiṭṭhi). Thế nên, cần lưu ý:

               - Nghiệp là hành động có cố ý/ tác ý, cần được hiểu biết, lưu tâmđúng chỗ – Do vì có cố ý, tác ý,định ý, chủ ý … người ta mới thực hiện việc làm đóqua thân (kāya-kamma), lời nói (vacī-kamma) và suy nghĩ (mano-kamma).[6]

               - Chính xúc (phassa) là nguyên nhân mà nghiệp lực phát huy tác dụng của nó.[7]

               - Sự khác biệt về nghiệp lực chín muồi gồm: 1/cõi xấu/ cảnh giới khổ đau (duggati) nhưđịa ngục; động vật; ma đói, tu la2/ cõi lành/ cảnh giới an vui (sugati) nhưthế giới loài người, cõi trời.[8]

       - Kết quả của nghiệp bao gồm ba loại: 1 / chín muồi ngay trong kiếp sống này (diṭṭha-dhamma-vedanīya kamma) 2 / chín muồi trong kiếp sau (upapajja-vedanīya kamma) 3 / chín muồi trong những kiếp sau nữa (aparāpariya-vedanīya kamma).[9]
       - Vậyhãy chấm dứt nguyên nhân tạo nghiệp bằng cách dứt khoát không liên hệ/ không tiếp xúc / không phát huy tác dụng của nghiệp lực… 
       - Con đường thực hành để chấm dứt nghiệp lực: duy chỉcó cáchchú tâm tu học, tư duy lời Phật dạy, tin sâu Nhân Quả,hành trì Bát Chánh …   
       Nói chung, người có trí (paṇḍita), nên biết hành động nào nên làm một cáchnhiệt tâm, tinh cần, tỉnh giác … bởi vì‘tâm tại thời điểm cận tử nghiệp’ (āsanna-kamma) vô cùng quan trọng; nó sẽ quyết định cảnh giới (sammā-diṭṭhi)mà con người hướng đến, tái sanh, đầu thaiđược hạnh phúc (cõi trời/ cõi người) và hành động nào thuộc micchā-diṭṭhidẫn đếnđọa lạc tam đồ khổ(địa ngục/ ngạ quỷ/ súc sanh)…

                                                   

‘Manopubbaṅgamā dhammā, manoseṭṭhā manomayā,

            Manasā ce paduṭṭhena, bhāsati vā karoti vā

Tato naṃ dukkhamanveti, cakkaṃ’ va vahato padaṃ’.

Ý dẫn đầu các pháp – Ý làm chủ ý tạo

Nếu với ý ô nhiễm – Nói lên hay hành động

Khổ não bước theo sau – Như xe chân vật kéo         

(Dhp. 1)

‘Manopubbaṅgamā dhammā, manoseṭṭhā manomayā,

            Manasā ce pasannena, bhāsati vā karoti vā

            Tato naṃ sukhamanveti, chāyā’va anapāyinī’

Ý dẫn đầu các pháp – Ý làm chủ ý tạo

Nếu với ý thanh tịnh – Nói lên hay hành động

An lạc bước theo sau – Như bóng không rời hình     (Dhp. 2)           

            Nếumuốn kiếp sau/ tương lai được an vui (samparāyika-hitasukha), thì ngay giây phút hiện tại này, con người cần khắc ghi:

‘Sududdasaṃ sunipuṇaṃ, yatthakāmanipātinaṃ

Cittaṃ rakkhetha medhāvī, cittaṃ guttaṃ sukhāvahaṃ’

Tâm khó thấy tế nhị - Theo các dục quay cuồng

            Người trí phòng hộ tâm – Tâm hộ an lạc đến                       

(Dhp. 36)

Sự thật minh chứng‘biết phòng hộ tâm’, tứckhông đắm say: 1/ sắc đẹp 2/ tiếng hay 3/ hương thơm 4/ vị ngon 5/ cảm xúc êm dịu[10] nên không bị lôi cuốn bởi các ham muốn (dục) thấp hèn (kāmaguṅā), làm trì trệ phẩm chất, giá trị con người; cũngđược gọi là người trí/ paññā-cakkhu/  ariyapuggala:‘Không có sợ hãi, nguy hiểm, thảm họa đến với người trí’.[11] Bởi vì người trí là người ‘ở trong sanh (jāti)… già(jarā)…bệnh(vyādhi)... chết(maraṇa)… sầu(soka)… bi(parideva)... khổ (dukkha)… ưu (domanassa)… não (upāyāsā)’, biết tỉnh thức, chế ngự, rèn luyện các căn để đạt pháp cao thượngcủa sự an lạc: ‘không sanh, không già…không bệnh... không chết… không sầu… không bi… không khổ … không ưu … không não’.[12]

Trái với người trí (puthujjana) là người chưa hiểu rốt ráo, cốt lõi, sự thật cuộc đời, vị này sống buông thả, hưởng thụ, đam mê, đắm nhiễm, không biết tiết chế, nên khi các căn tiếp xúc với trần, họ liền bám víu, cột chặt, bảo thủ, sa vào năm dục thấp hèn (kāmaguṅā). Nguyên nhân vì  không được chánh kiến soi đường, dẫn đầu … vị này đãtự mất phương hướng, định hướng cuộc đời do bởi phóng dật, thiếu kiểm soát/ rèn luyện các căn môn; nên các ác bất thiện như tham đắm, ái chấp, cố thủ… gặp dịp liên kết, xâm nhập vào tâm. Người như vậy, chính mình bị sanh… già…bệnh... chết… sầu… bi… khổ … ưu … não…, lại tự mình đi tìm hạnh phúc trong sanh… già…bệnh... chết… sầu… bi.. khổ … ưu … não…[13]

‘Puttā m'atthi dhanaṁ m'atthi iti bālo vihaññati

Attā hi attano natthi kuto puttā kuto dhanaṁ’                      

 

Con tôi, tài sản tôi - Người ngu sanh ưu não,
Tự ta, ta không có - Con đâu, tài sản đâu ?   

(Dhp. 62)

 

            Cuộc sống sẽtrở nên có nghĩa, giá trị … phải là cuộc sống vì an lạc và hạnh phúc lâu dài/ bền vữngkhông những cho tự thân/ cá nhânmà còn tha nhân, mọi loài,chúng sanh, hữu tình một cách bình đẳng/ không phân biệt. Chính vì lẽ này, lời dạy đầu tiên của đức Phật luôn hướng vào ‘tâm’ conngười: ‘thành tựu các việc lành (kusalassa upasampadā)’ - Một sự thật rất người, rõ ràng và dễ hiểu. Vậy nên, con người/loài hữu tình nên chú trọng đến ‘nhân/ hành động’mình gây, tạo, gieo, trồng: ‘Cetanāhaṃ bhikkhave kammaṃ vadāmi’[14]/ nghiệp là hành động có cố ý/ tác ý qua việc làm (kāya-kamma), lời nói (vacī-kamma) và ý nghĩ (mano-kamma), vì: ‘các loài hữu tình là chủ nhân của nghiệp (kammassako), là thừa tự của nghiệp (kammadāyāda). Nghiệp là thai tạng, nghiệp là quyến thuộc, nghiệp là điểm tựa, nghiệp phân chia các loài hữu tình; có liệt, có ưu’.[15]

               Triết lý nền tảng về nghiệp, cũng dạy con người: ‘cái gì thuộc bản chất sanh, cái đó ắt thuộc bản chất diệt/ Yaṃ kiñci samudayadhammaṃ sabbaṃ taṃnirodhadhammaṃ’.[16] Như vậy chính ‘thanh lọc tâm ý(Sacittapariyodapanaṃ)’,giúpcon người tự tại, thản nhiên vượt qua vòng đối đãi, lẩn quẩn của các ngọn gió (bát phong):tốt xấu - sanh diệt - vui buồn - được mất, trong đời này.

 

Attanā’va kataṃ pāpaṃ, attanā saṃkilissati.

Attanā akataṃ pāpaṃ, attanā’va visujjhati.

Suddhi asuddhi paccattaṃ, n’āñño annaṃ visodhaye.

‘Tự mình điều ác làm – Tự mình làm nhiễm ô
Tự mình ác không làm – Tự mình làm thanh tịnh
Tịnh, không tịnh tự mình – Không ai thanh tịnh ai’
                                                                                            (Dhp. 165)
 
Thế thì, người biết phân biệt(paṇḍita)/ nhận định/ thông hiểu định luật ‘gieo nhângặt quả’áp dụng cho tất cả:‘Không trên trời giữa biển - Không lánh vào động núi (Na antalikkhe na samuddamajjhe - na pabbatānaṃ vivaraṃ pavissa)’, tại mọi thời, mọi lúc,mọi nơi ‘không chỗ nào trên đời – trốn được quả ác nghiệp (Na vijjatī so jagatippadeso - yatthaṭṭhito mucceyya pāpakammā)’[17] thìnên cầntự điều chỉnh thái độ không làm, tránh xa,cấm tuyệt … những điềubị xem là tội lỗi,bị kết làphản lương tâm/ đạo đức, như vi phạm/ làm sứt mẻ năm giới cấmcăn bảncủa con người: 

 

Yo pāṇaṃ atipāteti, musāvādaṃ ca bhāsati

Loke adinnaṃ ādiyati, paradāraṃ ca gacchati

Surāmerayapānaṃ ca,  yo naro anuyuṃjati

Idh’evaṃ eso lokasmiṃ, mūlaṃ khaṇati attano

               
 
               ‘Ai ở đời sát sanh – Nói láo không chơn thật
               Ở đời lấy không cho – Qua lại với vợ người
               Uống rượu men rượu nấu – Người sống đam mê vậy
               Chính ngay tại đời này – Tự đào bới gốc mình
 
                                                                                           (Dhp. 246 – 247)

                  Nếu những ác bất thiện, tội lỗi, xấu xa (Pāpa) lâu ngày, bị xem làphiền não, triền cái, lậu hoặc, kiết sử… mà một thời tưởng chừng đãbám rễ, không thể thay đổi … nhưng vì nhân duyên tiếp cận với chánh pháp/ minh sư …vị này được dạy học cách phản tỉnh,suy ngẫm, quán chiếu … các uế nhiễm nơi tâm dần được gột rửa, tẩy trừ… vị nàytrở nênnhàm chán/ ghê sợ/ bỏliền ác bất thiện. Tiếp đến, vị này chuyên chú, tinh cần huân tập, làm phát sanh những chi phần thiện, hỗ trợ sự tỉnh thứcbằng cách từ tốn, thong dongbước trên con đường Trung đạo (majjhimā paṭipadā)/ tôi luyện pháphành trong tu tập,xua tan những ám ảnh (amanussagāha) do đắm say các dục (rāga; kāma; āsava) thấp hèn.Nhờthâm nhậpnhững chi phần đưa đến giải thoát (bojjhaṅga), vị ấy chính thức bước trên đạo lộ Bát chánh (Aṭṭhaṅgiko Maggo).[18]

 
Với những gì đã trình bày, tâm người trí luôn được chánh pháp dẫn đầu;khihướng vềcội nguồn giải thoát, tâm vị này đạt được hân hoan liên hệ đến pháp: ‘Trong hân hoan, hỷ sanh. Trong hỷ, thân được nhẹ nhàng. Khi thân nhẹ nhàng, tâm thư thái, dễ đạt định’.[19]
Một cách dễ hiểu, chỉ có ‘Tỉnh giác và chánh niệm’, là điều kiện tiên quyết trong cuộc sốngvà là nhân để con người tìm rađích đến,hướng đi:

 

Hôm nay nhiệt tâm làm - Ai biết chết ngày mai?’[20]

Như một quy luật tất yếu, con người nhiệt tâm chấm dứt đau khổ (dukkha)nhờ biếttinh cần đối với bốn nỗ lực đúng đắn, có tên gọi‘tứ chánh cần’ (sammā-vāyāma), nằm trong hai điều cơ bản sau:

               1 / Tránh (saṃvara-vāyāma) và vượt qua (pahāna-vāyāma) các ác bất thiện (akusala dhamma) thuộc hạ liệt, tội lỗi,thấp hèn,không xứng bậc Thánh.

               2 / Tu tập (bhāvanā-vāyāma) và duy trì (anurakkhaṇa-vāyāma) những hành động lành mạnh, công đức,thiết thực,mang lại lợi ích, xứng gọi bậc Thánh.

 

Có thể nói, Tứ Đế (cattāri ariya-saccāni), tóm thâu toàn bộ lời đức Phật dạy:

Maggānaṭṭhaṅgiko seṭṭho, saccānaṃ caturo padā;

Virāgo seṭṭho dhammānaṃ, dvipadānañca cakkhumā

Tám chánhđường thù thắng - Bốn câu, lý thù thắng - Ly tham, pháp thù thắng

Giữa các loài hai chân - Pháp nhãn, người thù thắng                        (Dhp. 273)

Khi con người (vị đa văn Thánh đệ tử) hành trì con đường Bát chánh (Ariya Aṭṭhaṅgika Magga), thì đồng bộsáu chi phần giác ngộ (Pháp nhãn) tiếp theonhư: 1/ Bốn niệm xứ (sati-upaṭṭhāna) 2/ Bốn chánh cần (sammappadhāna)3/ Bốn như ý túc (iddhi-pāda) 4/ Năm căn (indriya) 5/ Năm lực (bala) 6/ Thất bồ đề phần (bojjhaṅga) … trong Ba mươi bảy phẩm trợ đạo (bodhi-pakkhiya-dhammā) cũng được thực hiện. 

 

‘Uṭṭhānavato satimato - sucikammassa nisammakārino

Saññatassa ca dhammajīvino appamattassa yaso' bhivaḍḍhati’.

‘Nỗ lực, giữ chánh niệm - Tịnh hạnh, hành thận trọng

Tự điều, sống theo pháp – Ai sống không phóng dật

Tiếng lành ngày tăng trưởng’                                    

(Dhp. 24)

Với phương châm‘tự thân an lạc, xã hội bền vững’,con người dùng phương pháptựchủ, tự điều sống theo Pháp, cũng là cách lãnh đạo thân tâm bằng chánh niệm. Do khéo tiếp cận, vận dụng lời đức Phật dạy:sự phản tỉnh,ý thức,nhận thức trong việc sử dụng các giác quan thông thường của bản thân, con người đãchuyển hóa khổ đau, như ‘người bị mũi tên tẩm thuốc độc bắn vào, phải tự nhổ và tự băng vết thương’.[21]
Đối với ai dũng cảm/ nhiệt tâm đi tìm chân lý, mục đích tối hậu của Pháp, sống theo Pháp… người đó chắc chắn lấy Pháp làm nơi nương tựa; vị đó sẽ thừa tự ‘Pháp bảo’, vị đó cũng là người tìm ra ‘lõi cây’, cốt lõi cuộc đời. Nhất định vị này, sẽ có ‘Pháp’ làm hướng đi, ốc đảo tự than và sở hữu ‘Niệm Chơn Chánh’. 
Bởi vì: ‘Pháp được Thế Tôn khéo thuyết giảng (Svākkhāto Bhagavatā dhammo), thiết thực hiện tại (sandiṭṭhiko), không có thời gian (akāliko), đến để mà thấy (ehipassiko), có khả năng hướng thượng (opanāyiko), được người có trí chứng hiểu (paccattaṃ veditabbo viññūhī’ti)’.[22]
 
Thật vậy, Pháp Phật gắn liền đức tánh ‘chân thiện mỹ’, giúp người đạt được nghĩa tín thọ (attha-veda), pháp tín thọ (dhamma-veda) và chứng được hân hoan liên hệ đến pháp (dhammūpasaṃhitaṃ).[23]Nhờ vậy, người học Phật biết vận dụng/ tự điều mình sống theo Pháp,quanhững biểu hiện của hoạt động, nói năng, tư duy một cách phù hợp khi giao tiếp, ứng xử, xã giao với mọi người trong những tình huống khác nhau.

Muốn có xã hội bền vững, thìcách tiếp cận của Phật giáo về sự truyền đạt toàn cầu và chia sẻ trách nhiệm, luôn dành cho người biết duy trì, kế thừa Pháp bảo. Người giữ lửa Phật Pháp là người biết giữ ‘Chánh niệm’ cho tự thân và tha nhân, người xứng đáng được cung kính, tôn trọng, cúng dường, chắp tay, là phước điền vô thượng ở đời. Những ngôn từ dành cho vị này như: đệ tử đức Thế Tôn: ‘Diệu hạnh (su-paṭipanno) - Trực hạnh (uju-paṭipanno) - Như lý hạnh (ñāya-paṭipanno) - Chánh hạnh (sāmīci-paṭipanno)’[24]...

Với lý do này, giáo pháp của đức Phật cần được phổ biến, truyền bá khắp nơi: ‘Mỗi người nên đi một phương để truyền bá chánh Phápvà khi hoằng truyền Phật Pháp, nên tùy thời, căn cơ, địa phương…từ lúc bắt đầu, khoảng giữa cho đến kết thúc,đều nên tốt đẹp,có thiện chí,không chống trái… nghĩa làPháp được nói ra nên y nghĩa lý trong Kinh’.[25]

 

Nắm được sự vận hànhcơ bản của Pháp, người hành Pháp thấu triệt‘Không ai điều đình được - Với đại quân thần chết’,[26]chính là trọng tâm giáo lý Tứ Đế (Cattāri Ariyasaccāni): ‘Này các Tỳ Kheo, xưa cũng như nay, Ta chỉ tuyên bố về Khổ và sự Diệt khổ’.[27]

Trong Kinh Chuyển Pháp Luân (Dhammacakkappavattana Sutta), bài pháp đầu tiên được đức Phật giảng cho năm anh em Kiều Trần Như (Koṇḍañña), trong vườn Lộc Uyển (Migadāye), tại Isipatana, gần Bārāṇasi–như sau:

‘Đế thứ nhất, Khổ (dukkha), cần phải hiểu biết (taṃ kho panidaṃ dukkhaṃ ariya-saccaṃ pariññeyyan’ti) - Đế thứ hai, nhân khổ (dukkhasamudaya) là ái (taṇhā), cần phải từ bỏ (taṃ kho panidaṃ dukkha-samudayaṃ ariya-saccaṃ pahātabban’ti) - Đế thứ ba, diệt khổ (dukkha-nirodha) tức Niết Bàn (Nibbāna), cần được chứng ngộ (taṃ kho panidaṃ dukkha-nirodhaṃ ariya-saccaṃ sacchī-kātabban’ti) - Đế thứ tư, con đường đưa đến diệt khổ (dukkha-nirodha-gāminī-paṭipadā), cần phải tu tập (taṃ kho panidaṃ dukkha-nirodha-gāminī-paṭipadā-ariya-saccaṃ bhāvetabban’ti).[28]

Cuối cùng, con người cùng hướng về nguồn cội:

Trú như vậy nhiệt tâm - Đêm ngày không mệt mỏi

Xứng gọi Nhứt dạ Hiền - Bậc an tịnh, trầm lặng’.[29]

            Có thể nói, ‘Bậc an tịnh trầm lặng’ (Santo Muni)là thành quả xứng gọi, dành cho vị biết ‘Bồi công dưỡng đức’ để sở hữu ‘Vị trí làm chủ bằng Chánh Niệm vì hòa bình bền vững, vì ngày ngày an vui’ ... Với việc làm như vậy, bài viết mang tên:‘Cách tiếp cận của Phật giáo về sự lãnh đạo bằng chánh niệm giúpngày ngày anvui’ được đúc kết qua câukệ tụng:

‘Appamādo amatapadaṁ -pamādo maccuno padaṁ      

Appamattā na mīyanti - ye pamattā yathā matā’.

Không phóng dật, đường sống, - Phóng dật là đường chết.

Không phóng dật, không chết - Phóng dật như chết rồi             (Dhp. 21)



[1]Sn. 884

[2] M. III, 131

[3] Sđd

[4] M. III., No 136 (Mahākammavibhaṅga sutta)

[5] M. I, 7 (Vatthūpama sutta ) 1. Tham dục và tà tham (abhijjhā-visamalobha) 2. Nóng giận (vyāpāda) 3. Phẫn nộ (kodha), 4. Hiềm hận (upanāha) 5. Giả dối (makkha) 6. Não hại (palāsa) 7. Tật đố (issā) 8. Xan tham (macchariya) 9. Man trá (māyā) 10. Phản bội (sātheyya) 11. Ngoan cố (thambha) 12. Bồng bột (sārambha) 13. Ngã mạn (māna) 14. Tăng thượng mạn (atimāna) 15. Kiêu căng (mada) 16. Phóng dật (pamāda).

[7]Sđd

[8]Sđd

[9]Sđd

[10] M. III, 105

[11] A. III, 1

[12] M. I, 26

[13]Sđd

[14] A. III., p. 415

[15] M. III, 135 (Cūlakammavibhaṅga)

[16] M. III, p. 280

[17]Dhp. 127

[20] M. III, 131

[21] M. II, 63 (Māluṅkyāputta)

[22] M. I, 7

[23]Sđd

[24] Sđd

[25] S. 4.453

[26] M. III, 131

[28]S. V, 420

[29] M. III, 131

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
31/08/2010(Xem: 5530)
"Niệm Phật, niệm Pháp niệm tăng, nhằm tự nhắc nhở mình, không làm các việc ác, siêng làm các việc lành, tâm luân hướng thượng. Khi nhớ nghĩ đến ba điều cao thượng trên, các tâm lý bất thiện như tham, sân, si không có cơ hội phát sinh,các ý niệm thuần thiện sanh khởi,hiện tại sống an lành, chân chánh." (Kinh Trung Bộ).
28/08/2010(Xem: 4883)
Ngay cả trong thời đại văn minh khoa học, xã hội phát triển theo xu hướng hội nhập toàn cầu, thì định hướng trung tâm của tính cách con người vẫn có phần thuộc đời sống hướng nội và phần thuộc đời sống hướng ngoại mà Phật giáo Thiền gọi là nội quán và ngoại quán, bao gồm trong Tứ niệm xứ với các đề tài thiền quán về thân, thọ, tâm, và pháp, theo đó, thân thì bất tịnh, thọ mang lại khổ đau, tâm thì vô thường, và pháp vốn vô ngã. Từ các pháp quán, con người có thể đứng về mặt nhận thức luận để biết bản chất cuộc đời, rồi từ đó, đứng về mặt đạo đức học, con người có những hành động phù hợp với nhận thức.
27/08/2010(Xem: 9331)
Theo quan kiến của các luận sư Phật học, kinh điển của Phật giáo Đại thừa, thì phần văn lý hàm chứa nhiều ý nghĩa sâu xa và linh hoạt như: các bộ Kinh Hoa Nghiêm, Duy Ma, Pháp Hoa… được xây dựng trên tinh thần phát triển nội dung nên giáo lý được phân định theo hai phần: Phương tiện môn và Chân thật môn. Về phương tiện môn, như có lần đức Phật ví pháp đó như nắm lá trong tay đã rời khỏi sự sống, còn sự hiểu biết và diệu dụng của Ngài như lá trong rừng luôn luôn xanh tươi, vận hành theo bốn mùa.
24/07/2010(Xem: 3488)
Khổ đau hay hạnh phúc đều là những hậu quả tất yếu mà những hành động trước đó chúng ta đã tạo ra; dù là đồng thời hay dị thời đi nữa, thì chúng cũng bị lệ thuộc vào sự chi phối của luật tắt Nhân quả đứng về mặt hiện tượng.
22/07/2010(Xem: 11973)
Tôi phải thú nhận rằng hình như có điều gì không ổn khi một người suốt đời sống trong thế tục như tôi lại viết lời giới thiệu cho một quyển sách về giáo lý của Đức Phật về sự thành đạt, trí tuệ và bình an nội tâm. Quan điểm của tôi về tôn giáo đã bị chỉ trích nhiều, vì tôi tin rằng hầu hết các tôn giáo đều là một hình thức tâm bị nhiễm vi-rút (virus) làm lây nhiễm chúng sanh bình thường mạnh khỏe –và thường là có tri thức. Chỉ có Phật giáo dường như tách biệt với các tôn giáo khác vì tính chất cởi mở, uyển chuyển và thực dụng. Do đã sống hơn nữa thể kỷ ở Sri Lanka, tôi đã nhìn thấy giáo lý của Đức Phật đã được áp dụng như thế nào bởi nhiều thành phần xã hội, bằng nhiều phương cách khác nhau. Dầu nghe có vẻ lạ, nhưng những người hoàn toàn có lý trí và những kẻ bảo thủ một cách điên cuống đều cho rằng niềm tin và thái độ củ
11/07/2010(Xem: 9852)
Có nhiều bài báo, nhiều công trình khảo cứu công phu viết về con số 0 cả từ thế kỷ trước sang đến thế kỷ này. Quả tình, đó là con số kì diệu. Có những câu hỏi tưởng chừng ngớ ngẩn, chẳng hạn, “số không có phải là con số?”, nhưng đó lại là câu hỏi gây nên những trả lời dị biệt, và ở mỗi khuynh hướng tiếp cận khác nhau, những câu trả lời khẳng hoặc phủ định đều có những hợp lý riêng của chúng. Thế nhưng, hầu như ngoài những nhà toán học thì chẳng mấy ai quan tâm đến con số không; có thể nói người ta đã không cần đến nó từ các nhu cầu bình nhật như cân đo đong đếm.
02/07/2010(Xem: 4783)
Sự hiện hữu của mỗi chúng ta hiện giờ và ở đây là do, từ, bởi nhiều nguyên nhân và điều kiện. Tôi có mặt ở đây là nhờ cha mẹ tôi đã lấy nhau, nhờ gia đình nuôi dưỡng
01/07/2010(Xem: 5188)
Vô thường, phụ thuộc vào sự biến đổi, là tính chất của các pháp hữu vi. Hãy tinh tấn”. Đó chính là lời nhắc nhở cuối cùng của Đức Phật Cồ-đàm đối với hàng đệ tử của Ngài. Và khi Đức Phật đã nhập Niết-bàn, Trời Đế Thích than rằng:
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567