Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Sống chết kiếp nhân sinh do không biết lối đi

29/03/201207:34(Xem: 2610)
Sống chết kiếp nhân sinh do không biết lối đi



ducphatthichca-2

SỐNG CHẾT
 
KIẾP NHÂN SINH
 
DO KHÔNG BIẾT LỐI ĐI





Chúng ta đến với nhau

Bằng tình yêu luyến ái

Là tự mình ràng buộc

Trong nhiều kiếp mai sau.

Muốn chấm dứt sống chết

Hãy diệt trừ tham ái

Chuyển hóa sự vô minh

Để sống đời hạnh phúc.


Sự có mặt của một chúng sinh hay con người là do nhiều nguyên nhân kết hợp lại mới hình thành. Khi nhân duyên đầy đủ, qua sự kết hợp của tình yêu thương nam và nữ, chất ái của tinh cha huyết mẹ, cùng với thần thức chờ tái sinh, cộng với sự mong mỏi tìm sự sống mà ta có nên hình hài này. Như khi ta uống một ly nước, nước ở trong ly được đưa vào cơ thể, tuy nước trong ly không còn nhưng không bị mất hẳn mà đang được thấm nhuần trong cơ thể chúng ta. Ta có mặt trong cuộc đời là sự biểu hiện của ý thức được tích tụ trong hiện tại mà biến hóa để được tồn tại theo nguyên lý nhân quả duyên sinh.

    Cũng giống như nước khi được đun sôi đã chuyển từ thể lỏng qua dạng bốc hơi rồi thành mây, khi gặp khí lạnh nó sẽ rơi xuống thành mưa và thấm nhuần vào cây cỏ, đất cát. Tình yêu thương nam nữ là sự kết hợp nhịp nhàng của con tim và khối óc hòa quyện cùng nhau tạo nên sự hưng phấn bằng chất ái của tình và nghĩa.

     Con người và muôn loài vật khác phải nương nhờ lẫn nhau trong đời sống cộng đồng. Thế giới này là một chuỗi dài nhân duyên nương tựa vào nhau mới bảo tồn sự sống. Con người khi còn nhỏ phải nương tựa cha mẹ và gia đình, người thân. Ai khi còn nhỏ đã mất cha mất mẹ thì cảm thấy mồ côi, sống trong cô đơn, không có điểm tựa khi phải tự bươn chải một mình. Khái niệm cô đơn vì không có tổ tiên ông bà, cha mẹ người thân. Chúng ta khi ấy cảm thấy buồn tủi với cảm giác trống trải, không có ai bên cạnh để động viên, an ủi, vỗ về.

     Khi con người lớn lên, nhu cầu chia sẻ và sự nương tựa vào nhau càng mạnh mẽ hơn. Chúng ta có thể tự vươn lên nhờ ý niệm ham sống sợ chết, sợ cô đơn mà luôn giữ mối quan hệ tương giao với mọi người. Chúng ta cần bạn bè, người thân, cần sự ăn uống, cần quần áo che thân và cần có tình yêu thương nhân loại. Trong cái vòng lẩn quẩn của cuộc đời, nguyên nhân chính yếu của sống chết-luân hồi là từ sự yêu thương, luyến ái mà ra. Một tác nhân khác là sự nhận thức mê lầm do vô minh hoặc nghiệp trong quá khứ dẫn khởi đến tái sinh thọ quả hiện tại. Nhân duyên không hẳn đơn thuần biểu hiện trong hiện tại mà có thể đã được tạo ra trong quá khứ và hằng hà sa số kiếp về trước. 

     Nếu xét qua liên hệ nhân duyên quả sinh khởi mật thiết trong hiện tại thì chúng ta cũng có thể biết được kiếp trước ta và người đã làm gì, ở đâu và đã tạo những nghiệp nhân nào trong quá khứ. Do đó, trong hiện tại chúng ta cũng có thể biết mình sau khi chết sẽ đi về đâu qua việc làm nơi hiện tại trong một thời gian dài, chính chúng sẽ quyết định đời sống kế tiếp của ta tốt hay xấu. Chính vì vậy, chúng ta muốn biết nhân đời trước của mình ra sao thì cứ nhìn vào Chánh báo trong hiện tại; muốn biết quả báo trong tương lai thế nào thì cứ nhìn vào việc làm hiện tại chúng ta đang tạo tác và thực hiện. Chính vì thế, việc tạo nhân trong hiện tại sẽ quyết định quả khổ đau hay hạnh phúc ở tương lai khi hội đủ nhân duyên.

     Tự lập hay làm chủ bản thân là một khả năng kỳ diệu có thể có trong những người sống có hiểu biết chân chính, tự tin chính mình mà biết cách làm lành tránh dữ bằng trái tim hiểu biết. Yêu thương trong luyến ái là nguyên nhân chủ yếu thúc đẩy con người đi sâu vào đời sống cộng đồng, hình thành và phát triển, xây dựng, bảo vệ giống nòi nhân loại. Nương tựa vào nhau để được tồn tại và phát triển là nhu cầu cần thiết không thể thiếu trong đời sống nhân loại dù rằng mọi thứ đều mang tính vô thường. Ham muốn là điều kiện tạo ra nhân duyên để hình thành một chúng sinh hay một con người. Ham muốn vì lợi ích cộng động, xã hội sẽ đưa chúng ta đến 3 cõi trên như người, trời, A tu la. Ham muốn trong ích kỷ thấp hèn sẽ đưa ta đi vào 3 đường dữ là địa ngục, quỷ đói và súc sinh.

    Nhân duyên của luân hồi sống chết là một dây chuyền liên tục chuyền từ khâu này đến khâu khác trong một kiếp cũng như trong nhiều đời. Chẳng hạn, người muốn làm nghề luật sư và có ham muốn làm nghề luật sư nên cố gắng học hỏi, tham gia cộng đồng sinh viên các trường luật. Chúng ta muốn làm quen với cô gái kia vì thấy cô ấy dễ thương nên sinh lòng yêu thích mà tìm cách tạo đủ thứ nhân duyên để được gặp gỡ rồi từ đó hẹn hò, tiếp xúc mới phát sinh tình cảm và dẫn đến yêu thương, muốn chiếm hữu cho riêng mình.

     Vì con người muốn phát triển và tồn tại nên tìm cách chứng minh mình không cô đơn do đó chúng ta muốn có bạn bè, muốn có gia đình người thân, muốn có tình yêu thương chân thật; tức là muốn có sự kết nối yêu thương để biết ta vẫn còn sống và đang tồn tại. Xã hội ngày nay rất cần sự nương tựa giữa con người với nhau hơn xã hội ngày xưa. Cha mẹ nương tựa con cái, anh em nương tựa nhau, vợ chồng nương tựa nhau, hàng xóm nương tựa nhau, ngành công nghiệp này hợp tác nương tựa với ngành công nghiệp kia, quốc gia này hợp tác nương tựa với quốc gia kia. Cho nên, con người không bao giờ cô đơn vì chúng ta đã có tình yêu thương nhân loại bằng trái tim hiểu biết. Con người chúng ta có những nhu cầu để giúp lẫn nhau trong cuộc sống. Cái gọi là cần nhau này không chỉ đơn thuần là người này cần người kia như con cái cần cha mẹ và cha mẹ chăm sóc, giúp đỡ con cái.

     Vì thấy biết sai lầm nên chúng ta không hiểu sự vật trong bầu vũ trụ bao la này từ đâu mà có. Có người nghĩ vũ trụ do tự nhiên, khi không ngẫu nhiên sanh. Một số người lại cho rằng vũ trụ do một đấng thần linh thượng đế tạo ra. Theo đạo Phật thì bầu vũ trụ bao la này là vô thỉ, vô chung nghĩa là không có điểm khởi đầu và điểm kết thúc, tất cả mọi hiện tượng sự vật phải nương nhờ nhau mà thành. Hay nói cách khác, từ con người cho đến muôn loài vật đều do nhân duyên mà có.

     Vì sao gọi là "nhân duyên"? “Nhân” là nguyên nhân, chỉ cho những sự vật chính nó là nhân trực tiếp sinh ra một vật khác, như hạt lúa làm nhân sinh ra cây lúa. “Duyên” là trợ duyên, chỉ cho những vật có tính cách trợ giúp trực tiếp hay gián tiếp cho vật khác được hình thành; như phân, nước, ánh sáng, con người… là trợ duyên giúp cho hạt lúa phát triển thành cây lúa. Các vật đều là nhân, các nhân đó "duyên" với nhau mà thành ra các vật khác; như xi măng, cát, đá, gạch, ngói, gỗ, sắt, người… là nhân, các nhân này duyên vào nhau mà thành ra cái nhà. Vì các pháp trùng trùng duyên khởi nhiều lớp làm duyên cho nhau nên thành ra có nhiều hình tướng sai khác.

     “Vô minh” là không sáng suốt, là mề lầm, không nhận được bản tính duyên khởi chân thật. Do vô minh nên chúng ta không biết tất cả mọi hiện tượng sự vật đều do nhân duyên hội hợp giả có sinh ra, và mất đi do nhân duyên tan rã nên không có thực thể cố định. Chính vì chúng ta không biết rõ ràng như thế nên lầm nhận thân này là thật có “cái ta”, cho đến hoàn cảnh ta cũng cho là thật có, từ đó sinh ra chấp trước, luyến ái, bảo thủ.

     Với cái vòng lẩn quẩn của cuộc đời, nguyên nhân chính yếu của sống chết-luân hồi là từ sự yêu thương, luyến ái mà ra. Một đàng qua tác nhân nhận thức mê lầm do vô minh hoặc nghiệp trong quá khứ dẫn khởi đến tái sinh thọ quả hiện tại. Nhân duyên không hẳn đơn thuần biểu hiện trong hiện tại mà có thể đã được gây tạo trong quá khứ và vô lượng kiếp trước. Chính vì thế, nếu muốn biết nhân đời trước của mình ra sao thì cứ nhìn vào Chánh báo trong hiện tại, muốn biết quả báo mai sau thế nào thì cứ nhìn vào việc làm trong hiện tại. Vì lẽ đó, việc tạo nhân trong hiện tại sẽ quyết định quả khổ đau hay hạnh phúc trong đời sống kế tiếp.      

     Nhân duyên cuộc đời là một sự kết nối liên tục, cái này có thì cái kia có, cái này sinh thì cái kia sinh, cái này diệt thì cái kia diệt, chuyền nối nhau từ sự đan xen chằng chịt của nhân duyên trong nhiều đời. Do có vô minh dẫn đến những tạo tác hành động (Hành) ở các đời quá khứ nên duyên khởi ra tâm thức (Thức) của đời này. Tâm thức ấy theo nghiệp báo mà duyên sinh ra danh sắc (hình hài). Danh sắc duyên sinh ra lục nhập (mắt-tai-mũi-lưỡi-thân-ý). Lục nhập duyên sinh ra xúc (xúc chạm, tiếp xúc). Xúc duyên sinh ra Thọ (cảm nhận). Thức, danh sắc, lục nhập, xúc và thọ đều là quả báo của các nghiệp nhân đã gây ra từ nhiều đời trước. Khi tâm chúng sanh thọ nhận các quả báo đó thì do sự đối đãi giữa thân và cảnh lại sinh ra những điều ưa-ghét; ưa thì thích thú, bám víu; ghét thì muốn phá bỏ; rồi sinh ra luyến ái. Do có ưa-ghét mà gắn bó ta-người và hoàn cảnh. Vì chấp là thật có do không biết thân tâm và cảnh giới đều duyên khởi như huyễn (không thật) nên mới có thủ (chấp trước, dính mắc, bám víu).

    Do có chấp trước nên mọi sự vật vốn là huyễn hóa lại biến thành thật có. Thân cũng có, cảnh cũng có, ý thức phân biệt cũng có, mình cũng có, người cũng có; rồi từ đó sinh ra có gây nghiệp và có chịu quả báo. Đã có gây nghiệp và đã có chịu báo thì khi hết thân này, nghiệp báo sẽ dẫn dắt vào một thân khác trong tương lai.

    Đó là sanh, mà đã có sanh thì nhất định dẫn đến già-bệnh-chết; nhưng xét cho cùng thì chẳng những trong nhiều đời mà trong từng niệm ưa-ghét cũng đã tạo ra nhân duyên liên tục không gián đoạn. Trong cuộc sống, chúng ta do vô minh nên không nhận thấy đạo lý duyên khởi như huyễn hóa, không thật có nên tâm mới khởi vọng niệm phát sinh tạo ra thói quen đời này, đời sau tiếp nối nhau.

    Chúng ta có mặt trong cõi đời này là do niệm luyến ái mà tìm đến nhau, yêu thương nhau và gá nghĩa vợ chồng cùng nhau. Đối với cuộc đời, tình yêu thương nam nữ để bảo vệ giống nòi nhân loại có thể đẹp như trong mơ và đáng được ôm ấp trong vòng tay thân yêu, nhưng đối với người xuất gia vì phải đi ngược lại với dòng đời, nên không thể sống như người thế gian bằng tình yêu thương nam nữ.

     Một cô gái nọ là một tiếp viên nhà hàng, lần đầu tiên cô gặp một chàng trai và con tim đã thổn thức, rung động. Niệm thương chàng trai đó khởi lên trong lòng cô rất mãnh liệt dù chỉ lần đầu tiên họ gặp nhau và từ đó họ bắt đầu quen nhau rồi yêu nhau. Tuy nhiên, chàng trai sau đó lại thay đổi tính tình, kết bạn với thành phần xấu và đi vào thế giới ảo của xì ke ma tuý. Cô gái bây giờ không dứt ra được vì thương chàng quá mãnh liệt dù biết có nhiều nguy hiểm nếu tiếp tục duy trì tình yêu thương ấy. Chàng trai thì dính mắc vào việc ăn chơi sa đọa, cô gái thì luyến ái yêu thương nên không thể rời xa được. Cả hai đang tự hành hạ lẫn nhau vì đã trót yêu thương trong dại khờ, mê muội. Yêu thương không đúng cách có thể dẫn đến đổ vỡ rất mau và kết nên oan trái làm đau khổ cho nhau.

    Tương tự như vậy. Một người mẹ có đứa con trai duy nhất đã đến tuổi trưởng thành, hai mẹ con từ xưa nay thương nhau hết mực không gì có thể sánh bằng. Tình mẹ thương con như biển hồ lai láng nên hai mẹ con nương tựa nhau giống như cây cau và dây trầu, chàng trai mỗi ngày đi làm về luôn ân cần chăm sóc mẹ chu đáo. Rồi thời gian trôi qua, một hôm đứa con đi nhậu về nói năng lạng quạng, không còn giữ được phong cách như ngày nào. Người mẹ lên tiếng quở trách thì không ngờ trong men say vật vờ, đứa con không làm chủ được bản thân khi nghe những âm thanh nặng nề, khó chịu mà từ xưa nay chẳng bao giờ có nên mất bình tĩnh đánh mẹ một cái như trời giáng. Người mẹ té ngã và bị gãy chân. 

     Vô minh là sự không sáng suốt, thấy biết sai lầm hay nhìn nhận sai lệch về sự thật giả của cuộc đời. Thế gian này khi hai người thương nhau và quyết định thành chồng vợ, bắt đầu làm tờ giấy kết hôn và làm đám cưới ra mắt gia đình, họ hàng hai họ thì từ đó sợi dây tơ hồng đã ràng buộc hai người vui khổ cùng có nhau.

    Chúng ta vì bị vô minh che lấp nên có ảo giác cái gì cũng thực có bền bỉ, lâu dài nên sinh ra luyến ái và tham đắm. Ta ảo giác về sắc thân là thật có nên ham thích và muốn chiếm hữu cho riêng mình. Chiếm hữu ở đây có thể hiểu là muốn nắm giữ nó mãi mãi. Thực ra, tâm luyến ái vẫn không thể thỏa mãn được vì nó chỉ là cảm giác nhất thời rất ngắn ngủi và mau chóng trôi qua.

    Tất cả cũng chỉ vì mình thương “cái ta” riêng mình nên mới yêu thương người khác để được người thương yêu lại. Sỡ dĩ người đàn ông hay ngoại tình hoặc có nhiều thê thiếp là vì lòng ham muốn mạnh mẽ và háo sắc. Đam mê, dính mắc, tham đắm vào sắc đẹp rồi sinh luyến ái muốn chiếm giữ là điều kiện tạo duyên cho sự tái sinh của đời sau.

Chúng ta đến với nhau

Bằng tình yêu luyến ái

Là tự mình ràng buộc

Trong nhiều kiếp mai sau.

Muốn chấm dứt sống chết

Hãy diệt trừ tham ái

Chuyển hóa sự vô minh

Để sống đời hạnh phúc.

     Mười hai nhân duyên này liên quan mật thiết với nhau, vừa làm quả cho nhân trước, vừa làm nhân cho quả sau, nối tiếp không dứt và làm cho chúng sinh phải mãi mãi xoay tròn trong vòng luân hồi sống chết. 


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
16/09/2020(Xem: 4936)
Một Phật tử tại gia như tôi không biết gặp duyên phước nào để có thể được ghi lại vài cảm nghĩ về một bài viết mà cốt lõi chính yếu nằm trong Duy Thức Học , một bộ môn khó nhất cho những ai đã theo Đại Thừa Phật Giáo chỉ đứng hàng thứ hai sau Bộ kinh Đại Bát Nhã và hơn thế nữa những lời dẫn chứng lại trích từ quý Cao Tăng Thạc Đức rất uyên bác trác tuyệt về giáo lý Phật Đà như Đệ lục Tăng Thống HT Thích Tuệ Sỹ và Cố Thiền Sư Nhật Bản Daisetz Teitaro Suzuki.
12/09/2020(Xem: 6209)
Cây danh mộc gumtree là đặc sản của Úc có nhiều loại như ta thường biết qua cây khuynh diệp, vì giống cây này đã được biến chế thành, dầu khuynh diệp trị cảm mạo hiệu quả. Chúng thường mọc tự nhiên thành rừng thiên nhiên, thân to cao, có loại vạm vỡ oai phong như lực sỹ trên võ đài, cho bóng mát cùng nhiều công dụng khác như xay thành bột chế tạo giấy các loại đa dụng, cũng như dùng làm cột trụ giăng dây điện trong nhiều thập niên qua, và đồng thời cũng là thức ăn ưa thích của loài mối (termites) nên con người hơi ngán mấy “ông thần nước mặn” này lắm. Từ này tự chế ám chỉ loài côn trùng bé nhỏ hay cắn phá làm hại hoa màu của giới nhà nông dãi dầu một nắng hai sương như chuột, chim, châu chấu, sâu rầy… cũng để gán cho những kẻ ngang bướng đều bị dán nhãn hiệu đó.
17/06/2020(Xem: 6871)
Tuy được duyên may tham dự khoá tu học Phật Pháp Úc Châu kỳ 19 tổ chức tại thủ đô Canberra và Ngài Ôn Hội Chủ thường xuyên hiện diện với hội chúng, nhưng tôi chưa bao giờ có dịp đảnh lễ Ngài dù đã nhiều lần làm thơ xưng tán hoặc bày tỏ cảm nghĩ của mình khi đọc được tác phẩm được in thành sách hoặc trên các trang mạng Phật Giáo .
08/05/2020(Xem: 4048)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni là một con người có thật trong lịch sử văn minh nhân loại. Ngài tên là Tất Đạt Đa, dòng họ Thích Ca, sinh vào ngày trăng tròn tháng Năm, năm 624 trước dương lịch, tại vườn Lâm Tỳ Ni thành Ca Tỳ La Vệ miền trung Ấn Độ, bây giờ là nước Nepal. Thân phụ là Vua Tịnh Phạn trị vì vương quốc Thích Ca, Thân mẫu là Hoàng Hậu Ma Gia. Thân mẫu Ngài qua đời sớm, Ngài được Vương Phi Kế mẫu là em ruột của Mẹ, Dì Ma Ha Ba Xà Ba Đề thương yêu và nuôi dưỡng như con ruột.
15/03/2020(Xem: 4115)
Những điều nhận thức sai lầm theo thường thức phổ thông đều cho là sự thật; những điều nhận thức sai lầm như thế nào qua câu chuyện Điên và Không Điên mà tôi nhớ mường tượng như trong Kinh Bách Dụ có kể. Câu chuyện Điên và Không Điên như thế này: Ở vùng Thiên Sơn và Thông Lãnh, có một quốc gia nhỏ, trong đó tất cả thần dân uống nhằm nước suối có chất độc nên bị bệnh điên; ông vua hợp với quần thần thảo luận cách cứu chữa cho thần dân; nhóm thần dân bị bệnh điên cùng nhau tâu với vua của họ rằng, họ không có điên và ngược lại họ bảo ông vua mới bị bệnh điên; khi họ được vua trị hết bệnh thì họ mới biết họ bị bệnh điên. Câu chuyện này dụng ý cho chúng ta biết, có một số người nhận thức sai lầm mà không biết lại bảo người khác nhận thức sai lầm, không khác nào mình bị bệnh điên mà lại chụp mũ bảo người khác bị bệnh điên. Những điều nhận thức sai lầm, đại khái được trình bày như sau:
01/03/2020(Xem: 11576)
Kinh Viên Giác là kinh đại thừa đốn giáo được Phật cho đó là “Con mắt của 12 bộ kinh”. “Con mắt” ở đây theo thiển ý có nghĩa là Viên Giác soi sáng nghĩa lý, là điểm tựa, là ngọn hải đăng cho các bộ kinh để đi đúng “chánh pháp nhãn tạng”, không lạc vào đường tà và tu thành Phật. Khi nghe kinh này, đại chúng kể cả chư Phật và chư Bồ Tát đều phải vào chánh định/tam muội, không bình thường như những pháp hội khác.
28/11/2019(Xem: 7139)
Ấn độ là một trong những quốc gia nổi tiếng trên thế giới vì đất rộng, người đông, có dãi Hy mã lạp sơn cao nhất thế giới, có một nền văn minh khá cao và lâu đời, con số 0, số Pi (3,1416...) do người Ấn sử dụng đầu tiên trong toán học, Kinh Vệ Đà đã được người Ấn sáng tạo từ 1800 đến 500 năm trước công nguyên, Ấn Độ là quê hương của đức Phật, hay nói khác hơn đó là nơi đạo Phật phát sinh, ngày nay đã lan tràn khắp thế giới vì sự hành trì và triết thuyết của đạo Phật thích ứng với thời đại. Do đó việcTime New Roman tìm hiểu về Ấn Độ là một điều cần thiết.
29/08/2019(Xem: 10371)
Trong thời Đức Bổn Sư Thích Ca còn tại thế, nhất là thời giới luật chưa được chế định, 12 năm đầu tiên sau khi Ngài thành đạo, có nhiều tỷ kheo hay cư sĩ đã liễu ngộ, giải thoát, niết bàn chỉ ngay sau một thời thuyết pháp hay một bài kệ của Tôn Sư. Tại sao họ đặt gánh nặng xuống một cách dễ dàng như vậy? Bởi vì họ đã thấu hiếu tận gốc rễ (liễu ngộ) chân đế, tự tại giải thoát, tịch lặng thường trụ, chẳng động, chẳng khởi, chẳng sanh, chẳng diệt, không đến cũng không đi mà thường sáng soi. Khi họ thấu hiểu được vậy. Kể từ lúc đó, họ tín thọ và sống theo sự hiểu biết chơn chánh này. Họ luôn tuệ tri tất cả các pháp đều huyễn hoặc, vô tự tánh cho nên, họ không chấp thủ một pháp nào và thong dong tự tại trong tất cả các pháp.
26/08/2019(Xem: 4720)
Trong Kinh Hoa Nghiêm Đức Phật từng dạy rằng: Tín là nguồn của Đạo, là mẹ của công đức. Và nuôi dưỡng tất cả mọi căn lành. (Tín vi Đạo nguyên công đức mẫu,. Trưởng dưỡng nhất thiết chư thiện căn.).Đạo Phật là đạo Giác Ngộ, muốn đạt được giác ngộ hành giả phải có niềm tin chân chính, mà niềm tin chân chánh ấy phải có cơ sở thực tế và trí tuệ đúng như thật. Trên tinh thần đó, đối với hệ thống Kinh Điển do Đức Phật truyền dạy trong 45 năm, người học Phật phải có cơ sở để chứng tín rằng đó là lời Phật dạy, cơ sở đó chư Tổ Đức gọi là Tam Pháp Ấn: 1/Chư Hành Vô Thường 2/Chư Pháp Vô Ngã 3/Niết Bàn Tịch Tĩnh Bất cứ giáo lý nào không dựng lập trên quan điểm này, thì Phật giáo xem là tà thuyết, và Tam Pháp Ấn này được xem là những nguyên lý căn bản của Phật Giáo.
07/07/2019(Xem: 5400)
Phật giáo không phải là tôn giáo để các tín đồ đến tham gia hay phát động như một phong trào, mà tự thân con người sau quá trình học hỏi, tư duy, nhận thức cốt lõi lời dạy của đấng Từ phụ, từ đó phát tâm tìm đến, thân cận và quy y Tam Bảo: ‘Hôm nay mong giác ngộ hồi đầu - Tịnh tâm ý quy y Tam Bảo’. Với lòng tịnh tín bất động, con người đầu thành vâng giữ mạng mạch giáo pháp, dốc lòng phụng hành đạo lý mình chọn, con người nhờ vậy được chân lý, chánh pháp che chở, thành tựu ‘Phép Phật nhiệm màu – Để mau ra khỏi luân hồi’.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567