Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Chương II. Đạo Phật Trong Lòng Dân Tộc

01/02/201112:23(Xem: 1996)
Chương II. Đạo Phật Trong Lòng Dân Tộc

CON ĐƯỜNG PHÁT TRIỂN TÂM LINH
Thích Trí Hoằng
Hải Ấn 2002

Chương II. Đạo Phật Trong Lòng Dân Tộc

Đạo Phật Trong Lòng Dân Tộc

Trong sự tăm tối cùng cực của đêm là thời điểm khởi đầu cho một ngày khác. Quê hương chúng ta đang trải qua những ngày đen tối, nhưng niềm tin chúng ta vào sức sống mãnh liệt của dân tộc không phai mờ. Sự tin tưởng này không phải là niềm tin hão huyền hay một an ủi trong sự tuyệt vọng. Suốt dòng sử mệnh, văn hóa Việt đã nhiều lần minh chứng sức sống mãnh liệt đó.

Sức sống đó chính là khả năng dung hợp cá biệt, hóa giải những đối nghịch, đãi lọc những tinh hoa để phong phú nền văn hóa cố hữu của mình trong truyền thống Tam Giáo Đồng Nguyên của dân tộc. Đây là nền văn hóa tiềm tàng nhưng hiếu động, là lực đẩy dân tộc Việt vượt qua mọi gian nguy, tiến về phía trước. Chính trong những lúc tuyệt vọng nhất là những lúc văn hóa Việt biểu lộ sức sống mãnh liệt nhất. Sức mạnh này đã giữ cho dân tộc Việt vẹn toàn trước những âm mưu xâm lăng ngoại lai trên các lãnh vực văn hóa cũng như chính trị.

Về phương diện hình thức, văn hóa Việt không có những công trình tráng lệ và phô trương. Chúng ta không có những đền đài hùng vĩ như Đế Thiên Đế Thích (Angkor Wat) của Cam Bô Chia, Vạn Lý Trường Thành của Trung Quốc, Kim Tự Tháp của Ai Cập v.v… Chúng ta không có những triết gia vĩ đại như Khổng Tử, Lão Tử, Socrate, Descartes… Vì thế có người cho rằng dân tộc chúng ta không có một nền văn hóa đặc thù. Đó là cái nhìn hời hợt, phiến diện bên ngoài, không thể nào nhìn thấy được sức sống mãnh liệt, tiềm ẩn trong lòng dân tộc của nền văn hóa Việt.

Văn Hóa Sự Sống

Văn hóa đó chính là văn hóa về Sự Sống. Sở dĩ chúng ta không có những đền đài cao chót vót vì hoàn cảnh thái bình không có mặt lâu dài trên quê hương. Do đó bao nhiêu tâm lực chúng ta đã sự dụng để bảo tồn cuộc sống và để xây dựng niềm tin cao ngất về sự sống đó. Cuộc tồn sinh thử lửa hàng bao ngàn năm qua với những cuộc chiến diệt chủng tàn khốc là minh chứng hùng hồn về sức sống mãnh liệt đó. Đất nước triền miên khói lửa nhưng giống nòi không bị hủy diệt. Dân tộc bị lệ thuộc hàng ngàn năm nhưng văn hóa không bị tiêu mất. Chúng ta không có những triết gia vĩ đại vì mỗi chúng ta một triết gia về sự sống của chính mình. Trong ca dao Việt Nam không thiếu những câu biểu hiện triết lý yêu thương nồng nàn sự sống đó:

“Còn người còn của.”

“Người sống hơn đống vàng.”

“Dầu xây chín bậc phù đồ

Sao bằng làm phúc cứu cho một người.”

Văn hóa của chúng ta là sự sống. Mầu nhiệm và sinh động. Chúng ta không thể hóa thạch sự sống trên những pho tượng, đền đài. Chúng ta cũng không thể đóng khung sự sống trong những chủ trương, triết thuyết hay giáo điều. Tất cả những điều đó chỉ là sự tẩn ướp của một thây ma được mệnh danh là “văn hóa.” Mọi nền văn hóa đóng khung trong triết thuyết, giáo điều chỉ là những nền văn hóa khô chết và phiến diện. Khi tìm đến một nền văn hóa toàn diện là một cuộc hành hương tìm về cội nguồn của sự sống. Rồi đắm mình trong dòng sống đó, chứ không phải đứng trên bờ để phân tích tìm hiểu dòng sống đó.

Yếu tính của nền văn hóa Việt chính là sự sống. Hoàn cảnh lịch sử chiến tranh liên tục của nước Việt đã khiến cho dân tộc ta có một tinh thần yêu sự sống nồng nàn. Những tang thương dâu bể giúp dân tộc ta ý thức sâu xa về sự đổi thay vô thường để thấy rằng những công trình kiến trúc cao vĩ cũng chỉ là công dã tràng trước sự phá hủy tàn khốc của chiến tranh và thời gian. Một khi sinh mệnh của dân tộc đã tuyệt chủng, thì những đền đài đó chỉ là những phế tích, vang bóng một thời như những Kim Tự Tháp của Ai Cập, vết tích của một dĩ vãng huy hoàng, hay những tháp Chàm khóc thương cho quá khứ.

Sự đau khổ dai dẳng trong chiến tranh đã làm cho dân tộc ta trưởng thành. Do đó chúng ta không cần những triết gia chỉ đạo về ý nghĩa của kiếp sống. Tất cả những nỗ lực tư tưởng chính yếu của văn hóa Việt đều dồn vào việc tu bồi cho sự sống thanh bình, tạo dựng một cuộc sống an lạc giải thoát về vật chất cũng như tinh thần trong lý tưởng “sanh thuận tử an” (sống an vui và chết không nuối tiếc.) Một triết lý sống bình dị, nhưng mạnh mẽ với sự tỉnh thức cùng độ trong từng giây phút để tận hưởng sự mầu nhiệm của cuộc sống.

Nền văn hóa này, cụ Nguyễn Đăng Thục gọi là Văn Hóa Chùa Một Cột, tiêu biểu sự vượt thoát khỏi những thống khổ của cuộc sống để đạt sự an lạc tự tại, như những đóa sen sinh trong bùn, vượt qua sình lầy để vươn mình lên tỏa hương thơm ngát dưới ánh mặt trời.

Mặt khác, sự trường kỳ phấn đấu đã vun bồi un đúc cho dân tộc ta một sức sống mãnh liệt, vượt qua mọi thử thách để tồn tại. Sự thành tựu đó nhờ vào tính phóng khoáng, tinh thần cởi mở của văn hóa dân tộc. Không bị ràng buộc hay đóng khung trong một hệ thống ý thức hay giáo điều nào. Từ đó chúng ta dễ dàng tiếp nhận những luồng văn hóa ngoại nhập, kể cả những ý thức hệ đối nghịch để dung hóa, tô bồi phong phú cho nền văn hóa sinh động của mình. Lịch sử văn hóa dân tộc đã cho chúng ta thấy rõ yếu tố đặc thù này trong sự thành tựu của đạo học “Tam Giáo Đồng Nguyen.”

Tinh Thần Dung Hóa

Ngay từ đầu kỷ nguyên, Việt Nam đã là một trạm giao thông nằm trên ngã tư quốc tế. Những thương gia Ấn Độ hoặc các nước khác muốn sang Trung Hoa đều dừng chân tại Việt Nam trước khi tiếp tục cuộc hành trình. Ngược lại, tàu bè từ Trung Hoa sang Ấn Độ, Ả Rập đều phải ghé lại Việt Nam. Chính vị trí giao thông đặc biệt này đã khiến dân tộc Việt có cơ hội tiếp xúc với những nền văn minh dị biệt, học hỏi nhiều nền văn hóa ngoại quốc rất sớm để từ đó dân tộc có tầm nhìn bao quát, rộng rãi và phóng khoáng hơn. Thêm vào đó bản tính bao dung, cởi mở cố hữu đã tạo nên một tinh thần đặc thù của văn hóa Việt. Tên cũ của nước ta là Giao Chỉ đã gói ghém những ý nghĩa của tinh thần giao lưu văn hóa đặc biệt này.

Theo giáo sư Nguyễn Đăng Thục, tinh thần giao lưu này chúng ta có thể nhìn thấy trong huyền thoại Lạc Long Quân và Âu Cơ, giải thích về nguồn gốc “Con Rồng Cháu Tiên” của dân tộc Việt, đã ngụ ý rất rõ ràng về sự kết giao giữa hai nền văn hóa đại dương của Ấn Độ và văn hóa lục địa của Trung Hoa. Lạc Long Quân dòng dõi Rồng ở biển và Âu Cơ dòng dõi Tiên ở non cao. Núi cao biển rộng trong một tao ngộ trùng phùng sản sinh ra một tinh hoa tổng hợp: bọc trứng trăm con. Tiêu biểu cho sức sống vô tận, trẻ trung, mạnh mẽ như sức sống của cả trăm dân tộc dồn lại. Đó là nguồn văn hóa sống động của dân tộc Việt.

Từ hoàn cảnh lịch sử, từ vị trí địa dư đã hun đúc cùng với tinh khí của dân tộc đã tạo ra một nền văn minh sáng hóa, phong phú và sinh động. Tinh thần đặc thù của nền văn hóa này là khai phóng, mở cửa với mọi tư tưởng dị biệt, với mọi văn minh ngoại lai, để rồi thâu hóa, bồi bổ, tô điểm cho nền văn hóa cố hữu của mình ngày thêm phong phú. Điển hình là sự thâu hóa hai nền văn hóa Ấn Độ và Trung Quốc trong những thế kỷ đầu lập quốc, cũng như sau này sự thâu hóa văn minh Âu Tây trong thế kỷ hai mươi.

Tam Giáo Đồng Nguyên

Văn hóa Ấn Độ truyền vào Việt Nam theo đường biển do các thương gia và các vị sư người Ấn. Đạo Phật được truyền vào Việt Nam rất sớm trước khi truyền sang miền Nam Trung Quốc. Trong một bút ký về cuộc đàm luận giữa quốc sư Đàm Thiên và Linh Từ Thái Hậu nhà Đường đã cho thấy rằng trong khi đạo Phật chưa truyền đến phía Nam Trung Quốc, thì tại Giao Châu (tên cũ của Việt Nam) đã dựng được mấy chục ngôi chùa và đã dịch được nhiều bộ kinh từ tiếng Phạn sang tiếng địa phương. Những thế kỷ sau, trong những cơn binh biến tại Hoa Lục, rất nhiều sĩ phu Trung Quốc không chấp nhận tân triều đã sang Giao Châu tỵ nạn. Trong số đó có Mâu Bác, một thiền sư nổi tiếng đã viết bộ “Lý Hoặc Luận” và bắt đầu khai sáng thiền học tại Việt Nam. Vào thế kỷ thứ tư, một thiền sư Việt Nam Khương Tăng Hội đã rời Luy Lâu (Hà Nội) để sang Nam Kinh hoằng dương Phật Pháp. Tại đây Ngài đã dịch rất nhiều bộ kinh từ tiếng Phạn sang tiếng Trung Quốc, ngày nay vẫn còn lưu truyền. Một trong những bộ kinh đó là Kinh An Bang Thủ Ý, cuốn kinh gối đầu cho những người tu thiền.

Khổng học và Lão học được truyền sang Việt Nam do các quan cai trị người Trung Hoa như Tích Quang, Nhâm Diên cũng như các trí thức tỵ nạn người Trung Quốc. Trong tư tưởng Trung Hoa, Khổng Giáo chủ trương hữu vi nhập thế (giúp đời bằng hành động,) Lão Giáo chủ trương vô vi xuất thế (không xen vào việc đời.) Hai hệ thống tư tưởng này đối nghịch nhau như nước với lửa. Chính Lão Tử đã từng kết tội Khổng Tử là kẻ đã làm loạn trật tự của vũ trụ khi ông đặt ra pháp luật, cương thường.

Trong khi đó Phật Giáo chủ trương vô ngã giải thoát (không chấp để giải thoát). Với chủ trương không chấp của Phật Giáo, tổ tiên chúng ta đã vượt qua những hạn hẹp của Khổng Lão, làm một cuộc dung hóa toàn diện, hình thành một nền tam giáo đồng nguyên (ba tư tưởng có cùng một nguồn). Vì Phật Giáo không chấp “hữu” lẫn “vô”, với tinh thần vô chấp đó đã dung hóa được cả hữu vi của Khổng Giáo lẫn vô vi của Lão Giáo. Một đạo lý sống toàn vẹn giải đáp được cả ba mặt: sinh lý, tâm lý, và tâm linh.

Trong tinh thần Tam Giáo đó, con người đi vào đời với tinh thần phụng sự của Khổng Giáo, nhưng không tham cầu danh lợi. Khi nhiệm vụ đã hoàn thành, bổn phận đã làm xong, rời bỏ danh lợi không chút luyến tiếc trong tinh thần tiêu dao của Lão Giáo, để di dưỡng tâm linh. Cho dầu nhập thế hay xuất thế lúc nào cũng giữ tâm thanh tịnh, tu trì giới đức. Thái độ nhập thế vô chấp này có thể tìm thấy qua hành tung của thiền sư Vạn Hạnh, người đã tạo dựng triều đại nhà Lý. Sau khi triều đình đã được thành lập, người ta không còn thấy bóng dáng của vị thiền sư này đâu nữa. Cũng như các vua triều Trần đã nhường ngôi cho con để vào núi tu thiền.

Tinh thần Tam Giáo Đồng Nguyên này là một hòa điệu nhịp nhàng của những đối nghịch trong cuộc sống. Trong muôn mặt của thực tế, có lúc chúng ta cần có thái độ “hữu”, có lúc “vô”, và có lúc phải bỏ cả “hữu” lẫn “vô”. Đó là thái độ không cực đoan quá khích.

Trong mỗi người Việt Nam đều sống với cả ba hệ thống tư tưởng trên, cư xử với nhau trong cương thường của Khổng Giáo, tiêu dao nhàn nhã trong tư tưởng vô vi của Lão Giáo, và tự tại giải thoát trong đạo lý giác ngộ của Phật Giáo. Do đó trong đạo lý truyền thống Việt Nam, thật khó phân biệt ai là người theo Khổng Giáo, Lão Giáo hay Phật Giáo. Sau này khi thực dân Pháp đô hộ đã gọi những người Việt theo tín ngưỡng truyền thống là “Lương” để phân biệt với “Giáo” (Thiên Chúa Giáo.)

Tinh thần Tam Giáo Đồng Nguyên này đã giúp dân tộc phát triển về mọi mặt. Các triều đại huy hoàng nhất tiêu biểu cho tinh thần này là các triều Lý và Trần, trong đó Phật Giáo là một nhân tố tích cực nhất đóng góp vào giai đoạn uy hùng cực thịnh của lịch sử dân tộc. Dưới các triều đại này chúng ta không những mạnh về chính trị (thoát khỏi sự đô hộ của Trung Quốc), về quân sự (phá Tống, bình Chiêm, ba lần đánh thắng quân Mông Cổ), mà còn mạnh về học thuật (chữ Nôm được sáng chế,thiền phái Trúc Lâm được thành lập). Đạo lý Tam Giáo Đồng Nguyên đã huân tập cho dân tộc tinh thần phóng khoáng, cởi mở để mở cửa đón nhận tinh hoa của các nền văn minh khác nhau, để sáng hóa và phong phú nền văn minh của chính mình.

Thân Hóa Văn Minh Tây Phương

Đến thế kỷ thứ mười sáu, đất nước chúng ta bắt đầu tiếp xúc với văn hóa Tây Phương do các giáo sĩ Thiên Chúa Giáo mang đến. Sự tiếp xúc này đã đưa đất nước vào vòng nô lệ nhục nhã gần một thế kỷ dưới sự đô hộ của người Pháp vào giữa thế kỷ thứ mười chín. Trong văn hóa của “súng đạn,” nhân nghĩa không giữ được thành trì, đất nước chúng ta bị bắt buộc phải canh tân. Sự hô hào sử dụng chữ quốc ngữ thay thế chữ Nho của các nhà ái quốc đầu thế kỷ hai mươi, mở ra một chiến lược canh tân mới: “Dùng chính vũ khí của Tây để đánh Tây” như học giải De Francis đã kết luận trong cuốn sách viết về chữ quốc ngữ của ông.

Chữ Quốc ngữ lúc đầu do các giáo sĩ Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Ý và Pháp phiên âm để dễ dàng cho họ trong việc học nói tiếng Việt cho mục đích truyền giáo mà không cần phải học chữ Nôm và chữ Nho. Do đó thứ chữ này suốt trong ba trăm năm chỉ được các giáo sĩ ngoại quốc sử dụng mà thôi, ngay cả giáo dân địa phương cũng không mấy người biết. Đến năm 1862, sau khi chiếm Nam Kỳ người Pháp bắt đầu áp đặt việc phổ biến chữ quốc ngữ để thay thế chữ Nho. Nhân dân trong vùng bị chiếm phản kháng mạnh mẽ. Điển hình là thái độ bất hợp tác của các sĩ phu như Phan Đình Phùng, Nguyễn Trung Trực, Nguyễn Đình Chiểu. Tuy dưới áp lực của người Pháp suốt mấy chục năm chữ quốc ngữ vẫn không phổ biến. Cho đến năm 1907, hai cụ Phan Bội Châu và Phan Chu Trinh hô hào canh tân đất nước và sử dụng chữ quốc ngữ để làm lợi khí đấu tranh giành độc lập. Trường Đông Kinh Nghĩa Thục được thành lập. Với chữ quốc ngữ dân chúng chỉ cần học vài tháng là có thể biết đọc biết viết truyền đơn cũng như sách cải cách. Từ đó chữ quốc ngữ mới phổ cập rộng rãi trong dân chúng. Chỉ trong vòng hơn mười năm chữ quốc ngữ đã đủ trưởng thành để thay thế chữ Nho, chữ Nôm và khoa thi Hán học cuối cùng được kết thúc vào năm 1919. Trong mục đích đó chữ quốc ngữ đã được tổ tiên chúng ta chấp nhận, bổ sung, cải thiện để thành chữ viết chính thức hiện nay. Tổ tiên chúng ta với chủ trương “mở mang dân trí, đấu tranh giành độc lập” do đó không ngần ngại trong việc tiếp nhận văn hóa mới trong các lãnh vực khoa học, văn hóa, nghệ thuật.

Qua những phân tích trên chúng ta thấy rằng dân tộc chúng ta với tinh thần phóng khoáng và uyển chuyển, sẵn sàng tiếp nhận tất cả những nền văn hóa dị biệt của người để làm phương tiện bồi dưỡng và cải thiện nền văn hóa của mình. Nhưng điều này không có nghĩa là một sự chấp nhận nô lệ văn hóa, chịu để cho một văn hóa nào thống trị. Lấy tinh thần dung hóa của Tam Giáo Đồng Nguyên làm nền tảng cho mọi sự kết hợp. Có như thế, chúng ta mới duy trì được bản chất của văn hóa Việt, nếu không chính là sự đánh mất mình để trở thành một loại cô hồn văn hóa.

Khi nhà cầm quyền hiểu rõ những tính chất đặc thù đó của văn hóa Việt thì đất nước hùng cường, nhân dân an lạc. Khi nhà cai trị đi vào con đường cực đoan, cố chấp thì đất nước loạn ly, nhân dân đói khổ. Dưới các triều đại Lý, Trần, tuy Phật Giáo là quốc giáo với các quốc sư tạo dựng nhà Lý như Vạn Hạnh, Lý Khánh Vân, triều Trần với những vị vua đạo đức sáng ngời như Thái Tông Hoàng Đế là tác giả cuốn Thiền Tông Chỉ Nam, Nhân Tông Hoàng Đế là tổ sư phái thiền Trúc Lâm Yên Tử, với những thiền sư tráng sĩ như thượng tướng Trần Quốc Tảng cũng là thiền sư Tuệ Trung Thượng Sĩ. Các vị này với tinh thần phóng khoáng, giác ngộ của nhà Phật, đã lập được thế chân vạc vững vàng trong chủ trương Tam Giáo Đồng Nguyên. Trong giai đoạn đó tuy thế lực Phật Giáo lớn, nhưng không độc tôn. Nho Giáo dưới thời Lý, Trần được trọng vọng, nhà vua đã mở các khoa thi, lập Văn Miếu thờ Khổng Tử, xây Quốc Tử Giám dạy kinh sử.

Sang đến nhà Lê, thế chân vạc này đã mất. Với tinh thần Nho Giáo độc tôn, các nho sĩ bắt đầu châm biếm, chống đối Phật Giáo và Lão Giáo. Trong lịch sử chúng ta chỉ thấy nhà Nho chống báng nhà Phật, chứ chưa bao giờ thấy nhà Phật chống báng nhà Nho. Tinh thần cố chập độc tôn này đã đưa đất nước vào vòng ly loạn suốt từ thế kỷ thứ mười sáu cho đến bây giờ. Bắt đầu với cuộc chiến Trịnh Nguyễn phân tranh kéo dài hàng trăm năm. Sau đó là cuộc xưng hùng tranh bá giữa nhà Tây Sơn và nhà Nguyễn. Thanh bình không bao lâu lại rơi vào vòng nô lệ của thực dân. Sau đó là cuộc chiến tranh ý thức hệ đã đưa dân tộc đến chỗ suy thoái cùng độ. Ngày nay tuy đất nước hòa bình nhưng lòng người vẫn ly tán, những khác biệt của dân tộc vẫn tồn tại, những hận thù của lịch sử vẫn còn âm ỉ.

Trong suốt thời kỳ Nho Giáo độc tôn cũng như thời kỳ súng đạn làm chủ, Phật Giáo đã rời bỏ triều đình để trở về tiềm ẩn trong thôn làng. Thăng trầm với dân tộc, đồng lao cộng khổ với nhân dân trong cuộc sống. Cho dầu tình huống đất nước thế nào, Phật Giáo vẫn là điểm tựa tinh thần vững chắc cho nhân dân cùng khổ, là nơi nhân dân đặt để niềm tin lẽ sống trong những khi bức bách cùng khốn, là tia hy vọng bám víu cuối cùng trong hoàn cảnh đọa đày tuyệt vọng. Phật Giáo và Dân Tộc đã quyện vào nhau. Dân Tộc đã bảo tồn Phật Giáo và Phật Giáo đã nuôi dưỡng niềm hy vọng cho Dân Tộc.

Kết Luận

Ôn lại lịch sử để nuôi dưỡng niềm tin vào sức mạnh văn hóa dân tộc. Với tinh thần không độc tôn, không cực đoan nhưng khoan hòa độ lượng, tổ tiên chúng ta đã thành công trong việc chuyển hóa mọi ý thức hệ đối nghịch, mọi tư tưởng dị biệt thành những phương tiện bồi bổ cho nền văn hóa Việt ngày càng quang rạng, làm cho nền văn hóa cố hữu của dân tộc thêm phong phú. Chúng ta chưa bao giờ tự hủy diệt nền văn hóa của mình để làm nô lệ cho các nền văn hóa ngoại lai. Bài học lịch sử chứng minh cho chúng ta thấy, khi chúng ta rời xa văn hóa dân tộc để đem văn hóa ngoại tộc về thống trị thì đất nước rơi vào thảm họa chinh chiến. Khi chúng ta từ bỏ con đường bao dung để đi vào độc tôn thì dân tộc chịu cảnh tương tàn, nhân dân lầm than. Cuộc chiến tranh chủ nghĩa không tưởng Tây phương vẫn còn là vết thương đau nhức cho đến ngày hôm nay.

Qua bao thăng trầm của lịch sử, vận mạng của Phật Giáo luôn luôn gắn liền với vận mạng của dân tộc. Khi dân tộc quang vinh, Phật Giáo hưng thịnh. Khi dân tộc bị nô lệ khổ nhục, Phật Giáo suy yếu. Dầu thịnh dầu suy, lúc nào Phật Giáo cũng sát cánh cùng dân tộc, đồng lao cộng khổ để đưa dân tộc đi lên, đưa đất nước đến chỗ phú cường. Trong thời đại hoàng kim của đất nước dưới triều đại Lý Trần, Phật Giáo là nhân tố tích cực để kết nối Khổng Lão trong chủ thuyết Tam Giáo Đồng Nguyên, thu thập nhân tâm về một mối. Trong tinh thần đó những hội nghị dân chủ đầu tiên của đất nước diễn ra trong ngày Hội Diên Hồng. Với quyết tâm của cả một dân tộc thì không một bạo lực nào có thể thắng được. Điều đó đã chứng minh trong ba lần chiến thắng quân Mông Cổ, một đội quân chưa bao giờ chiến bại trên toàn cầu. Dưới thời Lê khi Nho Giáo độc tôn, Phật Giáo trở về tiềm ẩn trong thôn làng, làm chỗ nương tựa tâm linh cho nhân dân cùng khổ để chờ ngày quang phục. Dưới thời Pháp thuộc trong tinh thần vô chấp của Phật Giáo tổ tiên chúng ta không ngần ngại thâu hóa văn minh của người để làm lợi khí đấu tranh giành độc lập. Trong văn hóa dân tộc Phật Giáo là huyết mạch, là cốt tủy, là thực thể bất khả phân. Do đó khi nói đến văn hóa Việt Nam không thể không nói đến văn hóa Phật Giáo.

Con đường cứu nguy cho đất nước chỉ còn một con đường duy nhất là trở về với văn hóa dân tộc! Mọi xung đột mâu thuẫn chỉ giải quyết được khi người Việt nhìn nhau trong tình tự dân tộc. Những khác biệt trong dân tộc, những hận thù trong lịch sử chỉ tiêu tan khi nghiệp dĩ của dân tộc được chuyển hóa. Điều đó chỉ thực hiện được khi người Việt nhận diện được “bản lai diện mục” (mặt mày xưa nay) của dân tộc mình. Khi hồn nước trong mình vững mạnh thì sống ở đâu cũng không bị mất gốc. Khi hồn nước không còn thì dân Việt dù ở tại quê hương hay hải ngoại cũng chỉ là những cô hồn vất vưởng.

Chúng ta vững tin vào sinh lực của dân tộc. Những hiện tượng về nguồn của người Việt hải ngoại, cũng như sự phục hồi các lễ hội trong nước là những dấu hiệu biểu lộ sức sống tiềm tàng của văn hóa dân tộc. Lũy tre xanh là hàng rào kiên cố để bảo tồn và phát huy văn hóa dân tộc. Ngày nào tre vẫn xanh, sinh lực dân tộc vẫn tiềm tàng.

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
14/02/2019(Xem: 7000)
Thuở xưa có một ông vua hiền đức, cai trị công bằng, dân chúng trong nước sống thanh bình. Một hôm, dưới sự đề nghị của cận thần tả hữu, vua triệu tập tất cả trưởng lão tôn túc của các tôn giáo trong nước. Khi tất cả có mặt đầy đủ, vua nói:
14/08/2018(Xem: 6768)
Kinh Vị Tằng Hữu của Bắc tông và Tăng Chi Bộ Kinhcủa Nam Tông đều có ghi rằng trong cuộc đời của một vị Phật CHÁNH ĐẲNG CHÁNH GIÁC có 4 lần sự kiện vi diệu này xảy ra. Mỗi lần như thế, có một hào quang vô lượng, thần diệu, thắng xa oai lực của chư Thiên hiện ra cùng khắp thế giới, gồm thế giới của chư Thiên, thế giới Ma vương và Phạm thiên, quần chúng Sa-môn, Bà-la-môn, chư Thiên và loài Người. Cho đến những thế giới ở chặng giữa bất hạnh không có nền tảng, tối tăm u ám, mà tại đấy, mặt trăng, mặt trời với đại thần lực, đại oai đức như vậy cũng không thể chiếu thấu ánh sáng. Trong những cảnh giới ấy, một hào quang vô lượng, thâm diệu thắng xa uy lực chư Thiên hiện ra. Và các chúng sanh, sanh tại đấy, nhờ hào quang ấy mới thấy nhau và nói: "Cũng có những chúng sanh khác sống ở đây".
03/02/2018(Xem: 14159)
Tương quan là có quan hệ qua lại với nhau, tương cận là mối tương quan gần gủi nhất. Vấn đề này, mang tính tương tác mà trong Phật giáo gọi là: “cái này có thì cái kia có, cái này sinh thi cái kia sinh, cái này diệt thì cái kia diệt…”
06/01/2018(Xem: 13533)
Vài suy nghĩ về việc học chữ Phạn trong các Học Viện Phật Giáo Việt Nam_ Lê Tự Hỷ
22/05/2017(Xem: 49503)
Trong bước đầu học Phật, chúng tôi thường gặp nhiều trở ngại lớn về vấn đề danh từ. Vì trong kinh sách tiếng Việt thường dùng lẫn lộn các chữ Việt, chữ Hán Việt, chữ Pali, chữ Sanscrit, khi thì phiên âm, khi thì dịch nghĩa. Các nhân danh và địa danh không được đồng nhứt. Về thời gian, nơi chốn và nhiều câu chuyện trong sự tích đức Phật cũng có nhiều thuyết khác nhau làm cho người học Phật khó ghi nhận được diễn tiến cuộc đời đức Phật. Do đó chúng tôi có phát nguyện sẽ cố gắng đóng góp phần nào để giúp người học Phật có được một tài liệu đầy đủ, chính xác, đáng tin cậy, dễ đọc, dễ hiểu, dễ nhớ và dễ tra cứu khi cần.
19/03/2017(Xem: 6667)
Là người mới bắt đầu học Phật hoặc đã học Phật nhưng chưa thấm nhuần Phật pháp chân chính, chúng tôi biên soạn quyển sách nhỏ này, nhằm hướng dẫn cho người cư sĩ tại gia tập sống cuộc đời thánh thiện, theo lời Phật dạy. Chúng tôi cố gắng trình bày các nguyên tắc này theo sự hiểu biết có giới hạn của mình, sau một thời gian ứng dụng tu học cảm thấy có chút an lạc. Để giúp cho người cư sĩ tại gia thực hiện đúng vai trò và trách nhiệm của mình đối với gia đình người thân và cộng đồng xã hội. Trước tiên, chúng ta cần phải có một niềm tin vững chắc sau khi học hỏi, có tư duy sâu sắc, có quán chiếu chiêm nghiệm như lời Phật dạy sau đây: Này các thiện nam, tín nữ, khi nghe một điều gì, các vị phải quan sát, suy tư và thể nghiệm. Chỉ khi nào, sau khi thể nghiệm, quý vị thực sự thấy lời dạy này là tốt, lành mạnh, đạo đức, có khả năng hướng thiện, chói sáng và được người trí tán thán; nếu sống và thực hiện theo lời dạy này sẽ đem đến hạnh phúc, an lạc thực sự ngay hiện tại và về lâu về dài,
19/03/2017(Xem: 6289)
Nói đến đạo Phật là nói đến tinh thần nhân quả, nói đến sự giác ngộ của một con người. Con người sinh ra đủ phước báo hay bất hạnh là do tích lũy nghiệp từ nhiều đời mà hiện tại cho ra kết quả khác nhau. Mọi việc đều có thể thay đổi và cải thiện tốt hơn nếu chúng ta có ý chí và quyết tâm cao độ. Tất cả mọi hiện tượng, sự vật trên thế gian này là một dòng chuyển biến liên tục từng phút giây, không có gì là cố định cả. Một gia đình nọ, hai cha con cùng dạo chơi trong khu vườn nhà của họ. Bổng nhiên đứa con hỏi bố: “Bố ơi bố, nhà chúng ta có giàu không ạ?” Ông bố nghe xong liền mỉm cười, xoa đầu cậu con trai, rồi nói: “Bố có tiền, nhưng con không có. Tiền của bố là do bố tự mình siêng năng tích cực làm ra bằng đôi bàn tay và khối óc, được tích lũy trong nhiều năm tháng. Sau này con muốn giàu có như bố, trước tiên con phải học và chọn cho mình một nghề nghiệp chân chính, con cũng có thể thông qua nghề nghiệp của mình mà kiếm được tiền.”
17/03/2017(Xem: 6094)
1-Người Phật tử, phải thắng sự lười biếng bởi thái độ ỷ lại hay dựa dẫm vào người khác mà cầu khẩn van xin để đánh mất chính mình. 2-Bất mãn là thái độ thiếu khôn ngoan và sáng suốt, người trí càng nổ lực tu học và dấn thân đóng góp nhiều hơn nữa khi mọi việc chưa được tốt đẹp để không bị rơi vào trạng thái tiêu cực. 3-Người Phật tử chân chính, cương quyết phải thắng sự thiếu quyết tâm khi muốn làm việc thiện vì đó là trách nhiệm và bổn phận của người có lòng từ bi hỷ xả.
16/03/2017(Xem: 6167)
1-Người Phật tử hãy nên nhớ, sở dĩ con người ta đau khổ chính vì mãi đeo đuổi những thứ sai lầm do không tin sâu nhân quả và tin chính mình là chủ nhân của bao điều họa phúc. 2-Nếu chúng ta không muốn rước phiền não vào mình, thì người khác cũng không thể làm cho ta phiền muộn khổ đau, vì ta đã có cây kiếm trí tuệ nhờ nghe và biết chiêm nghiệm để rồi tu sửa. 3-Người Phật tử dù thắng trăm vạn quân cũng không bằng chiến thắng những thói hư tật xấu của mình, đó là chiến công oanh liệt nhất mà người đời ít ai làm được. 4-Chúng ta hãy luôn cám ơn nghịch cảnh vì chính khó khăn đó đã giúp cho ta có cơ hội quay lại chính mình, nhờ vậy tâm ta an tĩnh, sáng suốt mà tìm ra phương hướng để khắc phục.
14/03/2017(Xem: 5335)
Ngài là Thái tử, tên Sĩ Đạt Ta Có mẹ có cha, giống như mọi người. Mẹ là hoàng hậu, Thánh mẫu Ma Da Đức vua Tịnh Phạn, là cha của Ngài. Ngày rằm tháng tư, Thái tử ra đời Sinh xong bảy ngày, hoàng hậu sanh thiên.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567