Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Khyentse - Từ bi và Trí tuệ

10/02/201316:32(Xem: 4027)
Khyentse - Từ bi và Trí tuệ
KHYENTSE – TỪ BI VÀ TRÍ TUỆ
Dzongsar Khyentse Rinpoche
Tuệ Tạng dịch

Dzongsar_Jamyang_Khyentse_Rinpoche-01Sau lễ đăng ngôi của vị tulku của ngài Pháp vương Dilgo Khyentse Rinpohe ở Nepal, tháng 12 năm 1997, Đức Dzongsar Khyentse Rinpoche đã ban một bài Pháp thoại về ý nghĩa của từ “Khyentse.”

Trong Kim Cương thừa, ý tưởng về một Guru [Đạo sư] rất đặc biệt. Và rất nhiều người trong số chúng ta là đệ tử của Pháp vương Dilgo Khyentse Rinpoche, và đây là buổi lễ đăng ngôi của hóa thân ngài. Một cách ngắn gọn, mọi hóa thân Khyentse được xem là hóa thân của Đức Vimalamitra và Vua Trisong Deutsen.

Ngài Jamyang Khyentse Wangpo vĩ đại là một trong các bậc tiên phong quan trọng nhất trong Phật giáo nói chung và Kim Cương thừa ở Tây Tạng nói riêng, không chỉ bởi ngài là một ông lớn với địa vị cao mà bởi sự chứng ngộ tâm linh của ngài. Cùng với Jamgon Kongtrul, Chogyur Lingpa và Jamyang Loter Wangpo, ngài thực sự đã bắt đầu phong trào Rime [Bất bộ phái]. Ngài không chỉ là một học giả, một vị thánh, mà còn được coi là một trong năm Đại Khai tạng mật vương. Ngài có năm hóa thân – [về] thân, khẩu, ý, phẩm tính và hoạt động. Và hóa thân về tâm là Pháp vương Dilgo Khyentse Rinpoche, người cũng có những phẩm tính tương tự như Jamyang Khyentse Wangpo vĩ đại.

Từ “khyentse” nghĩa là trí tuệ và từ bi: Và với những ai đã gặp Đức Pháp vương Dilgo Khyentse Rinpoche, hóa thân trước kia, tôi chắc chắn bạn sẽ nhớ ngài là hiện thân về trí tuệ và từ bi và ngài thực sự đại diện cho điều đó. Thật khó cho chúng ta, những kẻ ngu dốt, mặc dù có thể hiểu trí tuệ và từ bi một cách máy móc, thực sự nhận ra tấm gương của trí tuệ và từ bi này. Vô cùng hiếm có. Nhưng rất nhiều người trong số chúng ta đã có cơ hội gặp được hóa thân trước kia, và bây giờ chúng ta có cơ hội lớn lao gặp được bậc tái sinh của ngài, bởi các hành động nghiệp trong quá khứ. Và mặc dù tôi bị kéo vào buổi Pháp thoại này bởi Tulku Pema Wangyal, tôi đoán rằng mình nên coi bản thân là ai đó rất may mắn có được cơ hội tích lũy công đức bằng cách nói ra vài lời về Pháp.

Bởi vậy tôi quyết định rằng tôi sẽ nói vài lời về từ “khyen” và “tse” bởi vì chúng ta đều biết có rất nhiều các vị Khyentse và chúng ta cũng biết có rất nhiều quan niệm được gọi là trí tuệ và từ bi. Bây giờ, như tôi đã nói, từ “khyen” liên quan đến trí tuệ hay sự hiểu biết. Ở đây chúng ta không nói về kiểu trí tuệ thông thường hay cách hiểu bình phàm. Trí tuệ ở đây là tâm biết được chân lý tối thượng của mọi hiện tượng. Tôi sẽ đưa ra vài ví dụ tại sao trí tuệ lại cần thiết, nhìn chung các vấn đề của chúng ta xảy ra bởi vì chúng ta không biết thứ gì đó. Sự hiểu lầm nhỏ bé của ta xảy đến khi chúng ta không thấu hiểu hoàn toàn. Chúng ta có rất nhiều nhầm lẫn. Chúng ta có kiểu ngu dốt này bởi vì các thói quen trong quá khứ.

Mặc dù một vài người có thể hiểu chút ít về trí tuệ, thật khó để có trí tuệ bởi vì trong Đạo Phật, khi chúng ta nói về trí tuệ, chúng ta đang nói đến trí tuệ giải thoát bản thân khỏi mọi vô minh. Và rất nhiều lần, những điều mà chúng ta cho là trí tuệ, trên thực tế không phải trí tuệ. Trong Đại thừa, trí tuệ là tâm hiểu được vô ngã hay tâm hiểu được khía cạnh trống rỗng của ngã. Nhưng mặc dù cũng dễ dàng để nghiên cứu điều đó, thực sự rất khó để trải nghiệm nó. Điều này là bởi sự bám chấp nhiều đời vào ngã.

Trong Đạo Phật, chúng ta nói về luân hồi và niết bàn. Luân hồi là nơi có tất cả vô minh. Khi chúng ta nói về ngu dốt hay vô minh như là bám chấp vào ngã, chúng ta không nói đến một lỗi lầm thực sự tồn tại trong ta và rằng sau đó chúng ta phải tịnh hóa. Trên thực tế, mọi vô minh này, tất cả ngu dốt, đều không tồn tại. Nhưng bởi vì sự bất cẩn của ta, ta nghĩ chúng tồn tại. Chúng ta quá tham luyến với sự tồn tại của ngã và chúng ta bận rộn như là nô lệ của ngã. Nhưng như tôi đã nói nhiều lần, người ta có thể hiểu một cách không chính xác về trí tuệ thông qua nghiên cứu và thọ nhận giáo lý, nhưng để thực sự hiểu trí tuệ, họ cần rất nhiều công đức.

Điều này đúng với cả lòng sùng mộ. Khá dễ để hiểu lòng sùng mộ là gì, nhưng để có lòng sùng mộ, người ta cũng cần nhiều công đức. Một người không thể có lòng sùng mộ cho đến khi họ có công đức. Tôi nghĩ rằng không chỉ các phẩm tính giác ngộ, tâm linh như là trí tuệ, từ bi hay sùng mộ, mà thậm chí hạnh phúc đơn thuần mà chúng ta có trong đời sống hàng ngày cũng phụ thuộc vào công đức.

Ví dụ, … bây giờ tôi sẽ thoải mái một chút. Nếu ai đó như như người thông dịch của tôi nói với vị ni này, “Sư thật đẹp!,” nó phụ thuộc rất nhiều vào công đức mà vị ni này có. Nếu bà có công đức để có được một thời gian dù ngắn ngủi hạnh phúc, lời tán dương đó sẽ mang đến nhiều hạnh phúc. Nếu bà ấy không có hạnh phúc, lời đánh giá này của người thông dịch sẽ chỉ gây ra các vấn đề. Ví dụ như, nó có thể khơi lên sự mong chờ [nhưng] có thể anh ta [người thông dịch] chỉ lịch sự mà nói vậy. Nhưng bởi vì không có đủ công đức để hiểu lời đánh giá chính xác, vị ni có thể mong chờ và có thể theo anh ta đi bất cứ đâu! Và nếu anh ta là kiểu người kiên nhẫn hay khéo léo, nó có thể ổn thỏa. Nhưng tôi không nghĩ anh ta có thể nói rằng bà ấy đẹp mỗi ngày. Bởi vậy, công đức, Sonam trong tiếng Tạng, là một trong những phẩm tính quan trọng nhất, thực sự ảnh hưởng đến rất nhiều thứ. Tôi chắc rằng bạn đã trải qua trong cuộc đời một điều gì chắc chắn, khiến bạn không vui, và đó là bởi công đức.

Bạn có thể băn khoăn, “Làm sao người ta có được công đức?” Một cách kỳ lạ, để có được công đức, bạn cần có công đức. Công đức là nguồn gốc của công đức. Đây là phần khó khăn trong thực hành Đạo Phật. Một mặt, có một ý tưởng trọn vẹn về trí tuệ, vượt khỏi mọi quan niệm, vượt khỏi mọi tập khí. Nhưng để có được trí tuệ này, chúng ta nói về công đức đến cùng với những cảm xúc. Điều này cũng đúng với tánh không. Đó là thứ chúng ta phải chứng ngộ. Nhưng để chứng ngộ chúng ta cần công đức, như là hát hay và cúng dường lên bậc Đạo sư [điều mà những người bên ngoài đang làm] và như một vài người trong các bạn kiên nhẫn và cố gắng lắng nghe điều tôi nói và cùng lúc không bị xao lãng bởi những tiếng trống ngoài kia. Họ có thể tích lũy công đức theo cách này.

Có hai cách lớn để tích lũy công đức. Từ bi với hữu tình chúng sinh và sùng mộ với Phật, Pháp, Tăng và Đạo sư. Trên thực tế, chúng ta có thể cô đọng điều này thành một lòng từ bi bởi vì, khi chúng ta nói về Đại thừa, chúng ta nói đến lòng từ bi.

Và lòng từ bi như vậy cũng là sùng mộ trong Kim Cương thừa. Bởi vậy đây là khía cạnh của từ Khyentse, tsewa hay từ bi. Từ bi không chỉ là đồng cảm. Trên thực tế, nó là tâm hiểu được sự bình đẳng, bình đẳng giữa bản thân và người khác, giữa tốt và xấu, bình đẳng trong mọi hiện tượng nhị nguyên. Đó là từ bi. Nhưng với nhiều người trong số chúng ta thật khó để khởi lên từ bi. Có rất nhiều chướng ngại cho từ bi và những điều đối nghịch với nó, như là ích kỷ, bám chấp vào ngã lại rất mạnh mẽ. Và có rất nhiều thuận duyên cho bám chấp đó.

Tôi không thể nói về các bạn, mà nếu tôi nói về những kinh nghiệm của bản thân, thật khó để có lòng từ bi chân chính dù chỉ vài giây. Nhưng nếu tôi đọc giới nguyện, những lời cầu nguyện và khẩn nguyện Bồ đề tâm hay bất cứ thứ gì, và mặc dù tôi hiểu ý nghĩa, luôn ẩn đằng sau là sự ích kỷ. Bạn biết rằng, trong Kinh điển Đại thừa, có rất nhiều kiểu Bồ đề tâm khác nhau. Nhưng kiểu tối thượng nhất là bồ đề tâm, mong muốn giác ngộ cho tất thảy hữu tình chúng sinh, người mong muốn đạt đến giác ngộ sau khi tất thảy hữu tình đạt giác ngộ. Đó là kiểu bồ đề tâm rất khó chứng ngộ.

Tôi không biết liệu rằng bạn có như vậy không. Nhưng tôi thì có. Tôi không quan tâm nhiều đến người khác. Và tôi thường coi bản thân là tốt, thậm chí chỉ muốn đạt đến giác ngộ. Rất nhiều người thậm chí không muốn giác ngộ. Nhưng ít nhất tôi muốn giác ngộ. Mặc dù, chỉ với tôi! Nó cũng có thể xảy ra với bạn. Khi chúng ta cúng dường lên Phật, Pháp và Tăng, mặc dù chúng ta nói rằng điều này là vì hữu tình chúng sinh, tâm chúng ta luôn hướng đến một kết quả cho bản thân. Bởi vậy từ bi với hữu tình chúng sinh khá khó với tôi. Do đó tôi đoán đây là nguyên nhân tôi thích Kim Cương thừa, ở đó lòng sùng mộ được dạy là kiểu từ bi cao hơn.

Ít nhất là một người mới, một chúng sinh vô minh, khi bạn bắt đầu thực hành lòng sùng mộ, bạn có thể bắt đầu với một người như Đạo sư của bạn. Sẽ dễ hơn nhiều để ngưỡng mộ ai đó thay vì chịu trách nhiệm cho mọi người. Và tôi đoán tôi phải được tẩy não bởi mọi người như là ngài Jigme Lingpa. Tổ Jigme Lingpa nói rằng nhiều năm trì tụng thần chú và đọc các nghi quỹ cũng như làm lễ puja là rất tốt, nhưng không là gì so với một phút thiền định bởi thiền định hòa tâm chúng ta nhiều hơn. Sau đó ngài nói rằng nhiều năm thiền định không là gì với một giây nhớ đến Đạo sư. Và đây là lý do tôi nghĩ rằng thực hành lòng sùng mộ rất mạnh mẽ và tràn khắp.

Nhưng tôi hiểu rằng rất nhiều người gặp khó khăn với lòng sùng mộ. Với những người đã gặp các bậc đạo sư vĩ đại như Pháp vương Dilgo Khyentse Rinpoche (như chính tôi, đã may mắn gặp ngài), tôi đoán chúng ta ít khó khăn hơn trong việc có quan điểm linh thiêng này. Nhưng với những ai phải kết thúc với nhiều người như tôi, tôi hiểu tại sao lòng sùng mộ lại khó thế! Bởi vì trước hết ngày nay, bạn thậm chí không có sự tin tưởng nhiều vào Đạo sư.

Một lần nữa, tôi sẽ nói với bạn về vài trải nghiệm của tôi, nhưng tôi biết rất nhiều người ở đây là đệ tử Pháp lâu năm, bởi vậy bạn đã nghe những điều này nhiều lần. Tôi nói rằng, niềm tin tưởng trọn vẹn nơi Đạo sư là khá khó khăn. Ví dụ, gần đây khi tôi đang thực hành Đạo sư Du già [Guru Yoga], tôi thực hành Pháp này theo bản văn, quán tưởng Đạo sư phía trước mặt và nhiều điều khác, và lúc thỉnh cầu sự gia trì, cả gia trì thông thường và siêu việt, … Dĩ nhiên, với gia trì siêu việt, chúng ta thỉnh cầu sự giác ngộ, phát triển trí tuệ, xua tan ngu dốt, … Điều này là mục tiêu tối thượng của Đạo sư Du già. Và sau đó, để làm lợi lạc người khác, chúng ta cũng thỉnh cầu sự gia trì để họ có được sự trường thọ, không ốm đau và các gia trì thế tục khác.

Tôi nhận ra rằng tôi kiếm tìm sự gia trì xuất thế gian ít hơn nhiều so với thế gian. Tôi không thỉnh cầu thoát khỏi cái ngã nhiều như việc cầu mong trường thọ, thành công trong các đề án, và tương tự. Như thế, tôi nhận ra điều này – rằng tôi thực sự vẫn bám chấp vào cuộc đời tầm thường này. Trên thực tế, tôi sử dụng Đạo sư như một vị trời để thỉnh cầu ngài những món quà nhất định. Ngay khi tôi nhận ra đây không phải ý nghĩ vĩ đại, tôi nghĩ rằng việc nhận ra lỗi lầm đó cũng là sự gia trì của Đạo sư. Đôi lúc, khi tôi cố gắng nhận ra những lỗi lầm, từ đâu đó, kiêu mạn và ngã xuất hiện, nghĩ rằng, “Ồ, tôi đã nhận ra lỗi lầm, thật tốt!” Bởi vật mọi thứ tiếp tục như thế. Sau đó tôi lại đổ lỗi như thế, nói rằng, “Không, tôi không nên có kiểu ngã đó.”

Và sau đó một ngày … Bạn thấy, tôi đang thích thú trong việc viết các kịch bản và làm phim. Và một ngày, tôi thấy mình đang cầu nguyện Đạo sư, “Xin hãy gia trì để con viết được kịch bản hay, để dự án phim thành công.” Sau đó ngay lập tức tôi nghĩ, “Không, Pháp vương Dilgo Khyentse Rinpoche thậm chí không biết làm phim. Làm sao tôi có thể thỉnh cầu ngài như thế?” Lúc đó, tôi đang đọc tiểu sử của ngài Jamyang Khyentse Wangpo và Khyentse Chokyi Lodro. Và trong đó, các ngài đề cập nhiều đến lòng sùng mộ của ngài giành cho Đạo sư và thứ các ngài tìm kiếm từ bậc thầy như sự gia trì – giác ngộ, lợi ích cho hữu tình chúng sinh, đầy đủ các phẩm tính giác ngộ. Tôi thấy xấu hổ khi thỉnh cầu những thứ tầm thường như vậy. Nhưng sau đó bởi vì tôi đọc đủ sách Phật giáo, tôi có thể mang lại tất cả điều này… Tâm tôi, ngã của tôi, sự ích kỷ của tôi thông minh đến mức nó khéo léo nói ra những lời hối lỗi tốt lành. Kế đó, tôi nghĩ tôi có thể thỉnh cầu gia trì để viết kịch bản hay cho hữu tình chúng sinh!

Một lần nữa tôi tự nói với bản thân rằng, “Không. Bây giờ điều mình đang làm thực sự giúp đỡ cho ngã và sự ích kỷ, sử dụng mọi kiểu sám hối của Đại thừa.” Dẫu sao, quay trở lại với khi tôi khẩn cầu ngài, để ngài gia trì cho những bộ phim của tôi … Sau đó tôi nghĩ, “Không, không, ngài không biết viết kịch bản. Ngài không biết sử dụng máy quay. Ngài chẳng biết dùng mấy thứ đồ đó.” Và sau đó tôi nhận ra rằng, “Hãy xem này, tôi đang không tin tưởng ngài. Ngài là Phật. Ngài biết mọi thứ. Tôi đã coi ngài là người không biết một thứ đơn giản, tầm thường như là dùng máy quay, thứ chỉ cần hai ngày hay một tuần để học.” Và điều này cho thấy tôi vẫn phải phát triển lòng sùng mộ, phát triển sự tin tưởng.

Sau đó tôi cố gắng chắc chắn rằng tôi giành nhiều thời gian để cầu nguyện và khẩn nguyện hơn, để ngài gia trì cho trí tuệ của tôi phát triển và mọi phẩm tính giác ngộ tăng trưởng. Và tôi có thểm một chút niềm tin, bởi vậy những ngày này, tôi không thấy xấu hổ khi thỉnh cầu sự gia trì cho thứ gì, như là viết các kịch bản thành công. Tôi nghĩ nó ổn.

Đây là điều tôi đang cố gắng nói với các bạn. Chúng ta có vấn đề là không tập trung vào một điểm, như Đạo sư như một vị thầy, nhưng nếu bạn muốn trường thọ và bạn tình cờ biết Phật Amitayus, Phật trường thọ, thì bạn sẽ thỉnh cầu sự gia trì từ ngài. Hoặc nếu bạn muốn tăng trưởng trí tuệ, thì bạn thỉnh cầu sự gia trì từ ngài Văn Thù. Mọi thứ như thế. Điều này cũng cho thấy chúng ta thiếu đi sự hiểu rằng Đạo sư là hiện thân của mọi đối tượng quy y. Điều này cho thấy chúng ta vẫn còn rất nhiều tâm nhị nguyên. Chừng nào chúng ta còn sự yếu kém này, chúng ta sẽ không thể có lòng dũng cảm để đạt được trí tuệ.

Chúng ta gọi những người có bồ đề tâm là Bồ Tát. Và tên gọi Bồ Tát có ý ám chỉ đến người dũng cảm, không chỉ dũng cảm giúp đỡ hữu tình chúng sinh, mà dũng cảm đối mặt với chân lý, dũng cảm đối mặt với mặt ảo mộng của cuộc đời. Bởi vậy để có khyenhay trí tuệ, chúng ta cần có từ bi. Và không có từ bi, người ta không có trí tuệ. Con đường nhanh nhất để có hai sự chứng ngộ này, Khyentse hay trí tuệ và từ bi, tôi nghĩ, là nhờ sùng mộ, tinh túy của từ bi. Bởi vậy theo cách này, lòng sùng mộ có rất nhiều cấp độ. Chúng ta bắt đầu lòng sùng mộ đơn giản từ các cảm xúc như kính ngưỡng và khát khao. Và cuối cùng khi chúng ta có thể phát triển lòng sùng mộ này, lòng sùng mộ của chúng ta trở thành trí tuệ. Khi đó chúng ta không sợ hãi việc phải phụ thuộc vào ai đó mọi lúc. Bạn biết rằng, phụ thuộc vào ai đó là điều rất lạ. Tâm chúng ta muốn phụ thuộc lúc này, nhưng lúc khác, việc đó lại trở thành phiền hà lớn. Tôi nghĩ rằng đó là tất cả.

Nguồn: http://www.siddharthasintent.org/gentle/GVMay98.htm

Việt dịch: Tuệ Tạng.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
01/10/2023(Xem: 776)
Rồi tôi đi sâu vào vườn trầm, đi mãi vào ...rừng trầm để mong tìm những cây trầm đại thụ, và tôi đã gặp bao cao Tăng tu hành tại đây, không chỉ các sư tại Âu Châu mà còn từ Hoa Kỳ, Úc, Canada ...nữa cơ. Các vị đã trao cho tôi bao trầm hương qua lời giảng của quí Sư dựa theo lời dạy của Đức Phật. Những thỏi trầm quí mang tên: Lăng Nghiêm, Pháp Hoa, Bát Nhã, Phổ Môn, Chú Đại Bi, Thập Chú, Thần Chú..v.v..và.v.v.Ôi, nhiều lắm, rồi với thời gian, nếu thành tâm trân quí và nắm giữ những thỏi trầm, thì hương trầm của nó cũng ít nhiều tỏa hương thơm ngát đánh bạt những sú uế mà bụi đời đã phủ lên người chúng ta.
15/03/2023(Xem: 3932)
Từ khi con người bắt đầu quy tụ sống thành nhóm, thành đoàn, và sau này phát triển đông đảo thành cộng đồng, xã hội, quốc gia, người ta đã biết tổ chức phân quyền, đưa ra những nguyên tắc luật lệ chung để mọi người dân sống trong cộng đồng quốc gia phải tuân theo. Những ai phạm tội phá rối trị an sẽ bị đem ra xét xử và trừng phạt theo nội quy luật lệ của quốc gia nơi họ cư ngụ. Có như thế thì mọi sinh hoạt trong cộng đồng xã hội mới giữ được trật tự, đời sống cá nhân mới được bảo đảm an toàn.
23/09/2022(Xem: 2217)
Giáo lý Bốn thánh đế là giáo pháp quan trọng nhất của những người học và tu tập theo lời dạy của Đức Phật. Cho dù chúng ta thuộc truyền thống Nguyên Thuỷ hay truyền thống Đại Thừa cũng đều tu học từ nền tảng giáo pháp này. Trong Bốn thánh đế thì đạo thánh đế gồm 37 pháp và thường được gọi là 37 phẩm trợ đạo. Trong đó thì Bát chánh đạo là căn bản nhất vì “Bát chánh đạo gồm có hữu lậu và vô lậu” (Trong Tạp A-hàm, Kinh Quảng Thuyết Bát Thánh Đạo, số 785 và Trong kinh Trung Bộ III, Đại Kinh bốn mươi, do Hòa thượng Minh Châu dịch).
17/11/2021(Xem: 20105)
Nghiệp, phổ thông được hiểu là quy luật nhân quả. Nhân quả cũng chỉ là mối quan hệ về tồn tại và tác dụng của các hiện tượng tâm và vật trong phạm vi thường nghiệm. Lý tính của tất cả mọi tồn tại được Phật chỉ điểm là lý tính duyên khởi.266F[1] Lý tính duyên khởi được nhận thức trên hai trình độ khác nhau. Trong trình độ thông tục của nhận thức thường nghiệm, quan hệ duyên khởi là quan hệ nhân quả. Chân lý của thực tại trong trình độ này được gọi là tục đế, nó có tính quy ước, lệ thuộc mô hình cấu trúc của các căn hay quan năng nhận thức. Nhận thức về sự vật và môi trường chung quanh chắc chắn loài người không giống loài vật. Trong loài người, bối cảnh thiên nhiên và xã hội tạo thành những truyền thống tư duy khác nhau, rồi những dị biệt này dẫn đến chiến tranh tôn giáo.
13/11/2021(Xem: 10488)
“Bát Thánh Đạo” là phương pháp tu hành chơn chánh cao thượng đúng theo qui tắc Phật giáo mà đức Thế Tôn đã có lời ngợi khen là quí trọng hơn tất cả con đường tu hành, là con đường không thẳng cũng không dùn, không tham vui cũng không khắc khổ, vừa thành tựu các điều lợi ích đầy đủ đến hành giả, hiệp theo trình độ của mọi người. Cho nên cũng gọi là “TRUNG ĐẠO” (Majjhimapaṭipadā) là con đường giữa. Ví như đàn mà người lên dây vừa thẳng, khải nghe tiếng thanh tao, làm cho thính giả nghe đều thỏa thích. Vì thế, khi hành giả đã thực hành đầy đủ theo “pháp trung đạo” thì sẽ đạt đến bậc tối thượng hoặc chứng đạo quả trong Phật pháp không sai. Nếu duyên phần chưa đến kỳ, cũng được điều lợi ích là sự yên vui xác thật trong thân tâm, từ kiếp hiện tại và kết được duyên lành trong các kiếp vị lai. Tôi soạn, dịch pháp “Bát Thánh Đạo” này để giúp ích cho hàng Phật tử nương nhờ trau dồi trí nhớ và sự biết mình. Những hành giả đã có lòng chán nản trong sự luân hồi, muốn dứt trừ phiền não, để
03/09/2021(Xem: 5710)
Có những người làm gì cũng hay, viết gì cũng hay. Tôi luôn luôn kinh ngạc về những người như vậy. Họ như dường lúc nào cũng chỉ ra một thế giới rất mới, mà người đời thường như tôi có ngó hoài cũng không dễ thấy ra. Đỗ Hồng Ngọc là một người như thế.
08/10/2020(Xem: 7924)
1- Hãy khoan hồng tha thứ, biết thiện thì làm, tới đâu thì tới. 2- Sống trong cuộc đời, muốn được thong thả rảnh rang thì đừng dính đến quyền lợi. 3- Làm việc hễ thuận duyên thì làm, không thuận thì phải khéo léo nhẫn nhịn để vượt qua. 4- Ăn chay, thương người, thương vật, tụng kinh. 5- Việc ác chớ để phạm, điều lành phải nên làm. 6- Thương người cùng thương vật, niệm Phật và tham thiền. 7- Chánh niệm đứng đầu là 3 niệm : Niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng. 8- "Hằng ngày ăn thịt chúng sanh mà mong giải thoát, điều đó không bao giờ có điều đó được". 9- Mót thời gian để tu, đừng bỏ qua, gặp việc thì làm; rảnh việc thì nhiếp tâm: Niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng. 10- Thông minh hiểu biết nhiều, coi chừng không bằng ông già bà lão ăn chay niệm Phật.
01/03/2020(Xem: 11800)
Kinh Viên Giác là kinh đại thừa đốn giáo được Phật cho đó là “Con mắt của 12 bộ kinh”. “Con mắt” ở đây theo thiển ý có nghĩa là Viên Giác soi sáng nghĩa lý, là điểm tựa, là ngọn hải đăng cho các bộ kinh để đi đúng “chánh pháp nhãn tạng”, không lạc vào đường tà và tu thành Phật. Khi nghe kinh này, đại chúng kể cả chư Phật và chư Bồ Tát đều phải vào chánh định/tam muội, không bình thường như những pháp hội khác.
28/11/2019(Xem: 7254)
Ấn độ là một trong những quốc gia nổi tiếng trên thế giới vì đất rộng, người đông, có dãi Hy mã lạp sơn cao nhất thế giới, có một nền văn minh khá cao và lâu đời, con số 0, số Pi (3,1416...) do người Ấn sử dụng đầu tiên trong toán học, Kinh Vệ Đà đã được người Ấn sáng tạo từ 1800 đến 500 năm trước công nguyên, Ấn Độ là quê hương của đức Phật, hay nói khác hơn đó là nơi đạo Phật phát sinh, ngày nay đã lan tràn khắp thế giới vì sự hành trì và triết thuyết của đạo Phật thích ứng với thời đại. Do đó việcTime New Roman tìm hiểu về Ấn Độ là một điều cần thiết.
17/04/2019(Xem: 5057)
Những pháp thoại của Lama Yeshe là độc nhất vô nhị. Không ai thuyết giảng được như đức Lama. Tự nhiên lưu xuất trong tâm, trực tiếp ngay bây giờ; mỗi lời nói của ngài là một cẩm nang hướng dẫn để thực tập. Tiếng anh của đức Lama rất tốt. Khó có người sử dụng nhuần nhuyễn như ngài. Với tính sáng tạo cao, đức Lama đã biểu hiện chính mình không chỉ qua lời nói, mà còn thể hiện tự thân và trên khuôn mặt. Làm sao để chuyển tải hết sự truyền trao huyền diệu này trên trang giấy? Như đã đề cập ở chỗ khác, chúng tôi trình bày với yêu cầu này cách tốt nhất có thể.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567