Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Đọc Ngô Thì Nhậm: Không Phật, Không Người, Không Ta

28/05/202510:54(Xem: 1721)
Đọc Ngô Thì Nhậm: Không Phật, Không Người, Không Ta

Đọc Ngô Thì Nhậm: Không Phật, Không Người, Không Ta

Nguyên Giác

 lotus_painting 3

Bài viết này sẽ phân tích lời dạy của sách Trúc Lâm Tông Chỉ Nguyên Thanh về ý chỉ Thiền Tông: qua sông, bỏ bè, thấy thường trực không Phật, không ta, không người. Sách Trúc Lâm Tông Chỉ Nguyên Thanh là một tác phẩm về Thiền Tông Việt Nam xuất bản lần đầu vào năm 1796. Tác phẩm này được in trong Ngô Thì Nhậm Toàn Tập - Tập V, ấn hành năm 2006 tại Hà Nội, do nhiều tác giả trong Viện Nghiên Cứu Hán Nôm biên dịch.

Những lời dạy trong sách này mang phong cách Thiền Tông Việt Nam, vì ngài Ngô Thì Nhậm (1746-1803) khi rời quan trường đã xuất gia, trở thành vị sư có tên là Hải Lượng Thiền Sư, và được nhiều vị sư tôn vinh là vị Tổ Thứ Tư của Dòng Thiền Trúc Lâm. Tất cả các vị sư khác trong sách đều nói trong tông phong này.

Nơi đây, chúng ta ghi lại từ hai trang 331, 332 trong Trúc Lâm Tông Chỉ Nguyên Thanh (Ngô Thì Nhậm Toàn Tập - Tập V). Nguyên văn chép lại như sau, trích:

Hoà thượng Hải Âu nói: Cái nơm cái đó dùng để bắt con cá con thỏ, đã bắt được con cá con thỏ rồi thì hãy quên cái nơm cái đó ấy đi. Cái thuyền cái mảng dùng để qua sông, đã qua sông đến bờ rồi thì hãy quên cái thuyền cái mảng đó.

Cái Đạo của Phật là "hư vô tịch diệt," là "minh tâm kiến tính." Biết được Phật thì mình đã đạt đến cái Đạo ấy, đạt đến rồi thì quên người quên ta. Ân oán thù hận là bình đẳng, đến ta còn không biết thì hâm mộ ở chỗ nào? Kẻ đã không biết Phật, dù có đàm kinh thuyết kệ, gắng sức kiếm tìm cũng không thể biết được. Tịnh Thổ, Liên Đài,* chỉ là chăm chỉ ở chỗ không có gì, chép một chữ "mộ" không thôi, thì càng tỏ ra không biết Phật. Cho nên Thiền gia nói 'tuyệt học," Huyền môn nói "tuyệt thánh," đều có cái nghĩa không mộ Phật vậy. Phật không tự mộ, há cầu chúng sinh mộ? Chúng sinh muốn thành Phật, cho nên phải mộ Phật. Kẻ nào mộ Phật tức không phải là Phật. Xương Lê nói: "Bắt tăng nhân trở lại làm dân, gieo sách Phật vào đống lửa, biến chùa chiền thành nhà tranh," đó là sự thể hiện không kính mộ Phật. So với bọn tăng ni chạy trên đàn, hay ngồi lì thiền định thì Xương Lê lại giải thoát được "Kiến trọc."

Nhưng Phật không có người, không có sách, cũng không có chỗ trú, vậy thì nói "người của Phật, sách của Phật, nhà của Phật" là còn mang nặng một tầng chướng ngại. Thế thì mộ Phật cố nhiên là không biết Phật, còn bài Phật cũng sao có thể biết được Phật? Cho nên Thầy bảo Hàn Xương Lê còn ở dưới bậc ba, bậc bốn. Hoặc có người hỏi: Thế nào gọi là Phù đồ bậc nhất? Xin có bài kệ rằng:

Quan Âm là Quan Âm,

Hòà thượng là hòa thượng.

Ta, ngươi đều dửng dưng,

Đều không người biết ta.” (hết trích)

Bất kỳ ai ngộ nhập được ý chỉ Thiền Tông nêu trên, sẽ tự biết cách an tâm. Trước tiên là chuyện qua sông, thì không cần vác cái bè nữa. Có nghĩa là, nếu tâm mình tự khế hiệp được, tự tương ưng được, không còn khởi dậy tham sân si nữa, thì không cần tới các phương tiện để làm lắng đọng mặt hồ tâm để không còn dậy bọt sóng. Bởi vì, khi mặt hồ đã tĩnh lặng, mà còn khởi tâm làm gì nữa, thì chỉ tự mình gây ra các đợt sóng mới.

Trong Kinh MN 22, Đức Phật dạy rằng bè là để qua sông, lên bờ rồi thì không cần bè, và Chánh pháp còn phải bỏ đi, huống là phi pháp, trích bản dịch của Thầy Minh Châu:

Chư Tỷ-kheo, người đó phải làm thế nào cho đúng sở dụng của chiếc bè? Ở đây, chư Tỷ-kheo, người đó sau khi vượt qua bờ bên kia, có thể suy nghĩ: “Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta. Nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân đã vượt qua bờ bên kia một cách an toàn. Nay ta hãy kéo chiếc bè này lên trên bờ đất khô, hay nhận chìm xuống nước, và đi đến chỗ nào ta muốn”. Chư Tỷ-kheo, làm như vậy, người đó làm đúng sở dụng chiếc bè ấy. Cũng vậy, này chư Tỷ-kheo, Ta thuyết pháp như chiếc bè để vượt qua, không phải để nắm giữ lấy. Chư Tỷ-kheo, các Ông cần hiểu ví dụ cái bè. Chánh pháp còn phải bỏ đi, huống nữa là phi pháp.”

Trong đoạn tiếp theo, sách Tông Chỉ viết rằng Đạo của Phật là "hư vô tịch diệt," là "minh tâm kiến tính"... Chúng ta ghi rõ rằng ý chỉ ở đây rất minh bạch, khi tóm tắt cho dễ hiểu thì: hư vô tịch diệt là nói mặt của Không, minh tâm kiến tính là nói mặt của Có. Người nào sống mà không dính vào Có, không dính vào Không, thì đó là bất nhị, và lìa được nghiệp lực của cõi này.

Thiền Tông Việt Nam có bài kệ của Thiền sư Tông Diễn (1640-1711), trích: “Hữu vô câu bất lập, nhật cảnh bổn đương bô” (có và không đều không lập, mặt trời trí tuệ sẽ lên cao).

Chúng ta có thể lấy hình ảnh này: mặt gương của tâm vì là Không, nên mới hiện vô lượng ảnh của Có. Nếu khởi tâm chụp lấy Có, thì sẽ làm bể gương; nếu chụp lấy Không, thì vô vọng.

Tương tự, chúng ta lấy hình ảnh mặt hồ tĩnh lặng cho tâm: khi tâm bình lặng, thì hồ nước hiện ra ánh trăng. Thò tay chụp cái Có trăng thì tâm sẽ loạn, nếu nghĩ rằng chụp cái Không trăng thì sẽ mất dụng của hồ tâm bình lặng.

Tiếp theo, sách Tông Chỉ nói rằng "đạt đến rồi thì quên người quên ta. Ân oán thù hận là bình đẳng, đến ta còn không biết thì hâm mộ ở chỗ nào?" Điều này chỉ đơn giản là thấy được Đạo rồi, tức là, thấy được Pháp rồi, thì quên người, quên ta. Chỗ này nên nhớ rằng các cụ sử dụng văn phong xưa, nên ý chỉ là đã thấy người là vô ngã, đã thấy ta là vô ngã, thì không còn dính vào các  cái nhìn chấp là có ngã, chấp ta với người nữa. Vì thấy vô ngã như thế, nên hiểu được tất cả các pháp đều bình đẳng.

Kinh Phật ghi rằng, ai thấy được Pháp, tức là thấy Như Lai. Kinh Kim Cang ghi lời Phật dạy rằng: Nếu lấy sắc mà thấy ta, Lấy âm thanh mà cầu ta, Người đó theo đạo tà, Không thể thấy Như-lai.

Chỗ này có thể giải thích nhiều cách để nhận ra pháp ấn vô ngã. Và thấy vô ngã, là sẽ thấy không Phật, thấy không ta, thấy không người. Thấy thường trực như thế là chứng tuệ giải thoát, không cần ngồi tu gì khác (Kinh SN 12.70).

Có thể nhìn từ pháp ấn vô thường để nhận ra vô ngã: từ nhỏ tới lớn, chúng ta có vô lượng thân và vô lượng tâm, do vậy y hệt như gương sáng hiện ra vô lượng thân tâm đó, và do vậy là vô ngã, vì nếu có cái ngã nào thì không còn vô thường và gương không còn là gương.

Trước tiên, nói về những gì chúng ta nghe (âm thanh) đêu là vô ngã. Kinh SN 35.246 nói rằng sắc, thọ, tưởng, hành, thức đều là vô ngã, thí dụ như tiếng đàn do nhiều duyên, nên cái được nghe là Không, và là vô ngã. Kinh SN 35.246, theo bản dịch Thầy Minh Châu, trích:

"Ví như, này các Tỷ-kheo, một vị vua hay đại thần của vua từ trước chưa từng được nghe tiếng đàn tỳ bà, nay được nghe tiếng đàn tỳ bà, vị ấy nói: “Này Bạn, tiếng ấy là tiếng gì, khả ái như vậy, khả lạc như vậy, mê ly như vậy, say đắm như vậy, hấp dẫn như vậy?” Họ nói với vị ấy: “Thưa Tôn giả, đây là đàn tỳ bà, với tiếng khả ái như vậy, mê ly như vậy, khả lạc như vậy, say đắm như vậy, hấp dẫn như vậy”. Vị ấy nói như sau: “Hãy đi và đem đàn tỳ bà ấy về cho ta”. Họ đem đàn tỳ bà về cho vị ấy, và nói như sau: “Thưa Tôn giả, đàn tỳ bà này với tiếng khả ái như vậy, khả lạc như vậy, mê ly như vậy, say đắm như vậy, hấp dẫn như vậy”. Vị ấy bèn nói: “Thôi vừa rồi đối với ta về đàn tỳ bà này. Hãy đem tiếng lại cho ta”. Họ thưa với vị ấy: “Thưa Tôn giả, cái này được gọi là đàn tỳ bà, gồm có nhiều thành phần, gồm có số lớn thành phần. Nhờ nhiều thành phần này nên đàn phát âm. Như duyên cái bầu, duyên cái da, duyên cái cán, duyên cái đầu, duyên cái dây, duyên cái cung, duyên nỗ lực thích nghi của người. Như vậy, thưa Tôn giả, cái này gọi là đàn tỳ bà, gồm có nhiều thành phần, gồm có số lớn thành phần. Nhờ gồm nhiều thành phần này nên đàn phát âm”. Rồi vua ấy đập đàn tỳ bà ấy ra thành 10 mảnh, 100 mảnh; sau khi đập bể đàn tỳ bà ấy ra thành 10 mảnh, 100 mảnh, vị ấy chẻ thành từng miếng nhỏ; sau khi chẻ thành từng miếng nhỏ, vị ấy lấy lửa đốt; sau khi lấy lửa đốt, vị ấy vun lại thành đống tro; sau khi vun lại thành đống tro, vị ấy đem quạt đống tro lớn ấy trước làn gió mạnh, hay để chúng trôi theo dòng nước sông chảy mạnh." (hết trích)

Tiếp theo, chúng ta nói về những cái được thấy cũng chính là Không, và là vô ngã. Thí dụ, cỗ xe là cái được thấy, thực sự cũng là Không, và là vô ngã. Kinh Na Tiên Tỳ Kheo ghi rằng, thân tâm người cũng như cỗ xe, không chỉ ra được cái gì là ta, cũng vậy, không chỉ ra được chỗ nào trên xe là xe: gọng xe, trục xe, bánh xe, thùng xe, thanh chống xe, ách xe, dây cương xe, gậy thúc xe đều không gọi là cỗ xe. Do vậy, cỗ xe không phải là cỗ xe.

Cái được nghe, cái được thấy đều thấy là vô ngã như thế, tự nhiên tâm sẽ không còn lưu luyến gì, và cũng không có tà kiến nào lôi kéo được người tu nữa. Đó là thấy không Phật, thấy không ta, thấy không người. Thấy trong Tánh Không như thế, là sẽ thấy vạn pháp bình đẳng. Ngay cả ngôi chùa trước mắt, ngọn núi trước mắt... đều hiển lộ trong cái Không mà Có như thế, thì chỗ nào cho tham sân si khởi dậy.

Đoạn trên có nói về Tịnh Thổ, chữ bây giờ chúng ta thường gọi là Tịnh Độ, tức là cõi trong sạch, thanh tịnh. Chữ Liên Đài là đài sen, nói ý chỉ là nơi những người tu Tịnh Độ sinh ra nơi đài sen. Nơi đây, quý ngài trong sách Tông Chỉ Nguyên Thanh nói rõ rằng pháp tu Tịnh Độ là "chỉ là chăm chỉ ở chỗ không có gì, chép một chữ "mộ" không thôi, thì càng tỏ ra không biết Phật."

Do vậy, ý chỉ Thiền Tông là thấy vô ngã, thấy không Phật, thấy không ta, thấy không người, và vì vậy nên mới là không còn gì để học. Do vậy, người thấu suốt ý chỉ Thiền Tông thì thấy thường trực không có Phật, không có người, không có sách (kinh vô tự), cũng không có chỗ trú (ưng vô sở trụ nhi sinh kỳ tâm).

Trong đoạn văn dẫn trên có nói về Hàn Xương Lê, tức Hàn Dũ (768 - 824) người đời Đường, có chủ trương bài đạo Phật. Nơi đây, chúng ta chỉ bàn về ý chỉ Thiền Tông, không bàn về cuộc tranh luận khi các nhà Nho bài bác Phật giáo.

Cón bốn dòng kệ "Quan Âm là Quan Âm / Hòà thượng là hòa thượng / Ta, ngươi đều dửng dưng / Đều không người biết ta" chỉ đơn giản là: Phật là Phật, sư là sư, ta và người đều không thấy có chỗ bận tâm, và người tu chân chính là người sống thường trực với tâm không biết. Vì bất kỳ cái biết nào cũng là có cái được biết, và là những dựng lập về một quá khứ của tôi, ta, người.

Do vậy, ngài Bồ Đề Đạt Ma mới nói là "Không biết" và đó là thường trực gương sáng.

Hãy đọc lại chỗ Vua Lương Vũ Đế hỏi Bồ Đề Đạt Ma:

- Nghĩa tối cao của thánh đế là gì?

- Một khi tỉnh rõ, thông suốt rồi thì không có gì là thánh.

- Ai đang đối diện với trẫm đây?

- Không biết.

Do vậy, ý chỉ Thiền Tông là tỉnh thức thường trực với tâm không biết, và tâm tỉnh thức thường trực với không biết chính là gương sáng không bụi. Nơi đó sẽ thấy không ta, không người.

THAM KHẢO:

. Kinh MN 22: Ví dụ cái bè, chánh pháp còn phải bỏ, huống nữa là phi pháp.

https://suttacentral.net/mn22/vi/minh_chau

. Kinh SN 12.70: chỉ cần chứng ngộ vô ngã, không cần tu gì khác.

https://suttacentral.net/sn12.70/vi/minh_chau

. Kinh SN 35.246: tiếng đàn do nhiều duyên, nên là vô ngã.

https://suttacentral.net/sn35.246/vi/minh_chau

 

.NGUYEN THANH trang 331 trang 332

PHOTO:
Hình một phần của các trang 331-332.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
12/07/2025(Xem: 285)
Mùa hè năm nay tôi được mời dự lễ Vu Lan ở chùa Quán Âm, Kansas City, tiểu bang Missouri. Khi đến nơi tôi thấy trên bàn của phòng có quyển sách The Art of Living. Ngoài những thời gian thăm viếng các chùa như Phổ Hiền, Pháp Hoa, ...và một vài nơi ở thành phố Kansas như Country Plaza cùng Limestone Kansas City, và thăm một số nhà Phật tử, thời gian còn lại tôi đã dịch ngay chương đầu của quyển sách này (12/08/2011), ngay trong thời gian ở chùa Quán Âm. Sau ba ngày ở Kansas City tôi chia tay với thành phố này và anh Quảng Tịnh Đạt, hội trưởng chùa Quán Âm đã tặng tôi quyển sách này. Thế là tôi mang theo và dịch luôn trọn quyển sách.
12/07/2025(Xem: 302)
“Nghệ thuật sống hạnh phúc trong thế giới phiền não” được bác sĩ Howard C. Cutter tổng hợp và viết lại từ những lời dạy của đức Dalai Lama tại nhiều bối cảnh thuyết giảng khác nhau. Tác phẩm được trình bày theo một hệ thống gồm bốn phần, ba phần đầu là một tác phẩm độc lập mang cùng tựa đề tác phẩm này và phần 4 cũng là một tác phẩm bỏ túi độc lập, vì có cùng nội dung nên được gộp vào phần cuối của tác phẩm, để độc giả có thể thưởng thức hai tác phẩm trong một của đức Đạt Lai Lạt Ma.
12/07/2025(Xem: 264)
ĐẠO PHẬT ĐÃ HƯỚNG ĐẠO con đường phát triển của Đức Đạt Lai Lạt Ma – cả nội tại lẫn ngoại tại – và vẫn là một sự hướng dẫn cho cội nguồn thích đáng của nhân loại. Những bài diễn thuyết bao hàm trong sự sưu tập này không đối diện trực tiếp với mục tiêu Giác Ngộ hay Quả Phật. Đúng hơn, chúng soi sáng những chủ đề phổ thông về từ bi; bất bạo động và hòa bình; chủ nghĩa thế tục; một thân thể, tâm thức, cá nhân, và xã hội lành mạnh; và tiềm năng của con người cho hạnh phúc qua sự thực chứng nội tại. Loài người trên thế giới hiện hữu đã sẵn sàng để tiếp nhận tuệ giác xuất phát từ Phật giáo và về Phật giáo vốn trực tiếp che chở chúng ta khỏi khổ đau của chúng ta.
12/07/2025(Xem: 333)
Nguyên bản: Advice on Dying and Living a Better Life Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma Anh dịch và hiệu đính: Jeffrey Hopkins, Ph. D. Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
12/07/2025(Xem: 267)
Tại sao con người tìm đến tôn giáo? Bởi vì con người cần những ý tưởng cực lạc, thiên đàng, hay niết bàn. Tại sao con người cần những ý tưởng cực lạc, thiên đàng, và niết bàn?
12/07/2025(Xem: 263)
Đức Đạt Lai Lạt Ma thường nói rằng có lẻ nhân loại là một gia đình loài người duy nhất trong vũ trụ này, và trái đất là ngôi nhà duy nhất của loài người chúng ta. Trong thực tế, chúng ta thấy khi một con chó, mèo hay bất cứ một con thú nào sắp chết thì tất cả những con bò chét, con ve vội vả chạy ra khỏi con thú ấy đề tìm thân thể một con thú khác để sinh sống, còn con người chúng ta nếu trái đất này có mệnh hệ gì thì chúng ta sẽ chạy đi chốn nào. Người ta nói rằng số lượng vũ khí hạt nhân hiện có trên thế giới có thể phá hủy cả chục trái đất mà chúng ta đang ở. Người ta cũng nói rằng hơn nửa tài nguyên thiên nhiên hay có thể là hai phần ba tài nguyên thiên nhiên là đang dùng vào việc chế tạo vũ khí.
10/07/2025(Xem: 979)
SỐNG TỐT ĐẸP HƠN Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma Sưu tập: Renuka Singh Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
10/07/2025(Xem: 979)
ĐƯỜNG ĐẾN AN BÌNH THẬT SỰ Nguyên tác: Many Ways to Nirvana Nhà xuất bản: Penguin Compass - 2005 Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma Sưu tập và hiệu đính: Renuka Singh Chuyển ngữ: Tuệ Uyển – 23/02/2011
10/07/2025(Xem: 993)
SỐNG TRỌN VẸN NHƯ THẾ NÀO Nguyên bản: How to practice the way to a meaningful life Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma Anh dịch: Jeffrey Hopkins, Ph. D. Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
10/07/2025(Xem: 871)
BỪNG SÁNG CON ĐƯỜNG GIÁC NGỘ Nguyên bản: Illuminating the Path to Enlightenment - Tác giả: His Holiness the Dalai Lama Chuyển ngữ: Tuệ Uyển Dịch kệ: Hồng Nhu ***
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com