Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Nhìn Lại Thế Kỷ 20

09/07/201808:51(Xem: 4719)
Nhìn Lại Thế Kỷ 20

nhin lai the ky 20 - dao van binh


Nhìn Lại Thế Kỷ 20


Chúng ta đang ở vào năm thứ 18 của Thế Kỷ 21 và chỉ còn 82 năm nữa nhân loại sẽ bước vào Thế Kỷ 22.  Có rất nhiều biến động của thế kỷ trước mà chúng ta đã quên mất rồi. Nhân dịp về hưu rảnh rỗi tôi lục lại cuốn Biên Niên Sử Thế Kỷ 20 (Chronicle of the 20th Century) để xem nhân loại phát minh ra những gì, chịu những thống khổ, những vui buồn như thế nào và có bao nhiêu cuộc chiến tranh giữa các đế quốc.

Sự thực phũ phàng của 118 năm qua là, một quốc gia tuy nhỏ bé nhưng có vũ khí tối tân và bộ máy quân sự khổng lồ vẫn có thể bá chủ thế giới và biến các quốc gia to rộng gấp mười lần mình thành nô lệ. Do đó muốn tồn tại trong độc lập, ngoài phát triển kinh tế, văn hóa, khoa học, lúc nào cũng phải tăng cường binh bị, vũ khí cho kịp đà tiến triển của nhân loại. Sách lược ngoại giao cũng là một vũ khí nhưng sức mạnh quân sự của một quốc gia là loại vũ khí vững chắc nhất.

Và lịch sử cũng cho thấy khi một chế độ, một chính phủ thua trận trước quân ngoại bang, thường bị lật đổ, thay thế bởi một chính phủ khác hay một thể chế khác ngoại trừ trường hợp duy nhất là Nhật Bản. Trong cuộc tranh chấp thành lập một chính quyền mới hay một thể chế mới, nếu một phe nào đó không đủ mạnh, đất nước sẽ lao vào một cuộc nội chiến thảm khốc và có thể chia cắt lãnh thổ. Chẳng hạn như sau khi Nga Hoàng thua trận, chế độ quân chủ bị lật đổ và đưa tới cuộc nội chiến giữa Hồng Quân và Bạch Quân khiến từ 7-12 triệu người chết. Trường hợp của Đức cũng vậy.

 Tổng kết của Thế Kỷ 20: Thế Chiến I mười triệu người chết, Thế Chiến II 55 triệu người chết! Chiến thuật được các vị tướng của cả hai bên ưa chuộng là “chiến thuật biển người” tràn lên với quân số áp đảo, cho nên số thương vong của cả hai bên rất cao.
 
Lịch sử cũng cho thấy chiến thuật đánh bom khủng bố do người Ái Nhĩ Lan sáng tạo ra rồi người Do Thái bắt chước để chống lại người Anh sau Đệ II Thế Chiến, rồi người Hồi Giáo bắt chước theo.

Có hai thời điểm cần ghi nhớ liên quan đến vận mệnh Đông Dương: Ngày 22/6/1940 Pháp ký thỏa ước đầu hàng Đức, cho nên ngày 27/7/1941 khi cả chục ngàn quân Nhật đổ bộ lên Sài Gòn mà Pháp không dám đề kháng. Vậy thì kể từ ngày này (27/7/1941) Pháp không còn làm chủ các thuộc địa Việt-Mên-Lào nữa mà đặt dưới quyền cai trị của Quân Phiệt Nhật.

Thế rồi khi Thế Chiến II chấm dứt, vào ngày 13/9/1945,  “Theo Thỏa Hiệp Potsdam sau khi Thế Chiến II chấm dứt, 5000 quân Anh thuộc Sư Đoàn 20 Ấn Độ do Tướng Douglas Gracey tiến vào nam Đông Dương (Sài Gòn) để giải giới quân Nhật đầu hàng. Vào Tháng Tám Hồ Chí Minh đã nắm được chính quyền ở Hà nội và tuyên bố thành lập nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa độc lập khỏi Thực Dân Pháp. Tuy nhiên Gracey (thay vì giải giới quân đội Nhật, giao chính quyền cho Việt Minh) lại căm ghét Việt Minh, tái vũ trang cho khoảng 1400 lính Pháp đã bị quân Nhật bắt làm tù binh. Hậu quả của việc này là bước đầu tái lập chế độ thuộc địa, tạo ra cuộc xung đột giữa Pháp và Việt Minh, đưa tới cuộc chiến đẫm máu kéo dài 9 năm với cuộc đầu hàng ô nhục của Pháp tại Điện Biên Phủ năm 1954.” 
Trong thời kỳ Chiến Tranh Lạnh, tinh thần chống Cộng và chụp mũ Cộng Sản cuồng nhiệt ở nước Mỹ. Vào ngày 9/2/1950: Thượng Nghĩ Sĩ McCathy tung chiến dịch gọi là cộng sản xâm nhập vào chính quyền liên bang. McCathy nói rằng ông có trong tay danh sách 205 đảng viên Đảng Cộng Sản đang làm việc tại Bộ Ngoại Giao để nhào nặn chính sách của Hoa Kỳ nhưng không đưa ra được bằng chứng và cũng không công bố tên những ai trong danh sách. Từ đó chủ nghĩa chống Cộng và chụp mũ Cộng Sản ở Mỹ còn được gọi là Chủ Nghĩa McCathy. Thậm chí tài tử kiêm đạo diễn lừng danh thế giới Charlie Chaplin (Việt Nam quen gọi là Charlot) cũng bị coi là người ngoại quốc nguy hiểm vì nghi ngờ là Cộng Sản và bị trục xuất. Thế mới hay khi chiến tranh hay thù hận nổ ra, rất nhiều tư tưởng, hành động cực đoan, quá khích ra đời và thường được chấp nhận chẳng hạn như Đức Quốc Xã, Fascist Ý và Quân Phiệt Nhật.
Để cứu nước Anh trước nguy cơ tan rã trước sức tấn công của Đức Quốc Xã, Thủ Tướng Churchill đã đề nghị Anh-Mỹ thống nhất thành một quốc gia với một quốc tịch duy nhất. Rất may Hoa Kỳ không đồng ý. Nếu đồng ý, có thể bây giờ Anh chỉ còn là một tiểu bang của Hợp Chủng Quốc Anh-Hoa Kỳ. Tại sao dân Anh không lên án Churchill là bán nước?
Cuộc chiến tranh Việt Nam (The Vietnam War) đã được các sử gia biên soạn cuốn Biên Niên Sử chú ý vì siêu cường Hoa Kỳ đã gián tiếp lãnh đạo cuộc chiến từ năm 1950 (công nhận chính phủ Bảo Đạiviện trợ 80% chiến phí cho quân đội Pháp) và trực tiếp lãnh đạo từ năm 1954 (Viện trợ ồ ạt cho chính phủ Ngô Đình Diệm để xây dựng một tiền đồn chống Cộng) trong bối cảnh “Chiến Tranh Lạnh” khiến gây ảnh hưởng toàn cầu. Sau khi tổng kết vào năm 1988, số binh sĩ Mỹ chết tại Việt Nam còn lớn hơn số chết trong cuộc Chiến Tranh Triều Tiên (54,000 so với 58,000).
Cuộc Chiến Tranh Triều Tiên và Đệ II Thế Chiến không tạo một ảnh hưởng gì trên lịch sử và tâm lý nước Mỹ. Còn hệ quả và tranh luận về cuộc Chiến Tranh Việt Nam vẫn còn theo đuổi nước Mỹ cho tới ngày hôm nay và có lẽ mãi mãi sau này. Câu hỏi ray rứt và không có lời giải đáp là “Tại sao chúng ta (người Mỹ) thua?” Lỗi tại phản chiến Mỹ? Truyền thông bất công? Hay chiến lược sai lầm? Hay bản chất của cuộc chiến là sai lầm? Cho đến nay vẫn chưa có lời giải đáp hoàn hảo.

Ngoài ra vai trò của lính Nam Hàn và Thái Lan cũng rất quan trọng trong cuộc chiến Việt Nam mà ngày nay mới được bạch hóa. Tháng 9/1965,  Tổng Thống Phác Chánh Hy của Nam Hàn gửi cả chục ngàn quân tham chiến tại Việt Nam. Tổng số quân Nam Hàn luân phiên chiến đấu tại Việt Nam lên tới 320,000, cao điểm đã có tới 50,000 lính Nam Hàn hiện diện trên chiến trường. Theo sử gia Kil J Yi (tốt nghiệp Tiến Sĩ State University of New Jersey), việc gửi quân như thế là để Hoa Thịnh Đốn tiếp tục duy trì số viện trợ khổng lồ đổ vào Nam Hàn.
Còn Thái Lan vào năm 1969 đã gửi 12,000 binh sĩ thuộc hai Sư Đoàn Queen’s Cobra và Black Panther tham chiến tại Việt Nam. Trước đó, Thái Lan đã cho Mỹ thiết lập 7 căn cứ không quân để yểm trợ cho cuộc chiến ở Lào và Việt Nam bao gồm Korat, Udon, Nakon Phanom, Ubbon, Khon Kaen, Utapao và Bangkok.

Trong Chiến Tranh Việt Nam, Trung Ương Tình Báo Hoa Kỳ (CIA) còn thành lập một hãng máy bay mang tên Air America với vỏ bọc bề ngoài là hãng máy bay tư nhân mà ở Sài Gòn lúc bấy giờ thỉnh thoảng chúng ta có thấy. Phi công và phi hành đoàn của Air Amerca là các cựu phi công, cựu chiến binh Hoa Kỳ. Họ thực hiện những chuyến bay rất nguy hiểm về ban đêm hoặc ban ngày nhưng có mây hay sương mù che phủ để dấu kín hành tung. Mục đích chính của Air America là vận chuyển vũ khí, lương thực, tiếp liệu, chiến cụ, tản thương cho những căn cứ bí mật ở Lào, Căm Bốt và cả ở Việt Nam.

Cuối cùng, một câu nói thời danh của các nhà đạo đức ngày 15/5/1921 mà chúng ta cần ghi nhớ và suy nghĩ, “Váy đàn bà càng ngắn, luân lý càng suy đồi” (Concern as skirt rise and moral decline).
Cuốn Chronicle of the 20th Century dày 1375 trang, khổ 23cm x 30cm do Longman, Anh Quốc xuất bản năm 1988 .
                                                                                                                            
Đào Văn Bình
(California ngày 8/7/2018)
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
10/12/2013(Xem: 16339)
Cánh cửa của thế kỷ 20 sắp khép lại, tất cả chúng ta đều nhận thấy rằng thế giới đã trở nên nhỏ hơn, loài người trên hành tinh đã trở thành một cộng đồng lớn, các liên minh về chính trị và quân sự đã tạo ra những khối đa quốc gia, làn sóng của thương mại và công nghiệp thế giới đã cho ra nền kinh tế toàn cầu, những phương tiện thông tin của thế giới đã loại bỏ những chướng ngại về ngôn ngữ và chủng tộc.
10/12/2013(Xem: 21856)
Hầu hết chúng ta đều quen thuộc với câu chuyện đời của Đức Phật. Chúng ta biết rằng thái tử Siddhattha đã rời bỏ cung điện lộng lẫy của vua cha, để bắt đầu cuộc sống không nhà của người lữ hành lang thang đi tìm con đường tâm linh, và sau nhiều năm tu hành tinh tấn, Ngài đã đạt được giác ngộ khi đang nhập định dưới gốc cây bồ đề. Sau khi xả thiền, Đức Phật đã đi đến thành phố Benares, giờ được gọi là Varanasi. Ở đó, trong Vườn Nai, lần đầu tiên Ngài thuyết pháp về những gì Ngài đã khám phá về con đường đi đến hạnh phúc toàn vẹn. Lời dạy của Đức Phật rất đơn giản nhưng sâu sắc.
10/12/2013(Xem: 7705)
Đây là một đề tài khá phức tạp và dễ bị hiểu lầm. Có câu nói: ‘Hành trình ngàn dặm khởi đầu bằng một bước đi (a journey of a thousand miles begins with a single step). Vì vậy, vấn đề cần phải nêu ra là khi nào và từ đâu chúng ta bắt đầu cất bước trên con đường tâm linh? Đa phần chúng ta đi tìm con đường tâm linh cho mình khá trễ. Trễ là do mình không cảm thấy nhu cầu cần thiết cho tâm linh lúc trẻ vì quan niệm rằng chùa chiền không thể nào giải quyết được những ưu phiền, đau khổ trong cuộc sống của tuổi trẻ. Chùa là dành cho những người lớn tuổi, xế chiều. Họ cần đến chùa là để vun bồi phước đức như làm việc thiện, bố thí, công quả .v..v… để ‘sau này’ được hưởng phước tốt lành.
09/12/2013(Xem: 5818)
Gia đình nghèo kia có ba người: Bố – Mẹ – và Con trai. Họ sống âm thầm và bình lặng trong một thôn làng hẻo lánh, người Bố đi làm thuê để kiếm cơm gạo nuôi gia đình, người mẹ lo việc bếp núc, trồng mấy luống rau, và chăm sóc con. - Một buổi trưa hè nắng nóng, người mẹ trên đường từ chợ về nhà chợt nhặt được một trái cam ai đó đánh rơi bên đường, cơn khát và mệt nhọc dường như tiêu tan khi bà nghĩ đến miếng cam ngọt lịm và mọng nước. Nhưng nghĩ đến đứa con ngoan ngoãn chẳng mấy khi được ăn hoa trái thơm ngon, bà liền lau sạch trái cam và cất vào túi.
09/12/2013(Xem: 6961)
Giáo lý đạo Phật không chỉ nói về những vấn đề “xuất thế”, mà Đức Phật cũng đã rất chú trọng về vấn đề “nhập thế” - hoàn thiện nhân cách trước khi đạt được thánh cách - giúp cho tất cả chúng ta một phương pháp ứng xử phù hợp với đạo lý làm người, tạo nên một nhân cách sống. Nhân cách sống đó, dù bất cứ ở đâu và bất cứ thời điểm nào, cũng có thể ứng dụng và mang lại những kết quả tốt đẹp...
09/12/2013(Xem: 7309)
Có thầy trò một nhà kia làm nghề hát xiệc. Người thầy là một người đàn ông góa vợ và người học trò là một cô gái nhỏ tên là Kathullika. Hai thầy trò đi đây đó trình diễn để kiếm ăn. Màn trình diễn của họ là người thầy đặt một thanh tre cao trên đỉnh đầu mình, trong khi bé gái leo dần lên đầu cây rồi dừng lại trên đó, để người thầy tiếp tục đi trên đất. Cả hai thầy trò đều phải vận dụng sự tập trung tâm ý đến một mức độ khá cao, để giữ thăng bằng và để ngăn chặn tai nạn có thể xảy ra.
09/12/2013(Xem: 6385)
Tự thủy uyên nguyên, khắp các loài chúng sanh cùng với Phật đồng một tâm, tức cái tâm tánh tuyệt đối, chơn thường, vắng lặng, trong trẻo, tròn đầy, trùm khắp, không lay không động, không đến không đi, không sanh không diệt, vô thỉ vô chung, cực linh cực mầu, hay sanh các pháp. Do Phật tâm thanh tịnh, vắng lặng, huyền mầu, nhưng lại khéo sanh vạn pháp, nên cổ đức mới tạm mượn lời mà đặt tên, gọi cái tánh huyền mầu đó là "chơn không diệu hữu", tức từ cái tánh linh diệu trong trẻo, không một vật mà pháp pháp tuỳ duyên trùng trùng sanh khởi.
09/12/2013(Xem: 5991)
Nguyện là mong cho, cầu mong cho, ước mong rằng… Khi nguyện cho người khác được hạnh phúc, chính ta liền có được hạnh phúc. Tại sao như thế? - Khi nguyện cho người khác hạnh phúc, chính trong lúc đó tâm ta thoát khỏi những tình cảm tiêu cực như đố kỵ, ích kỷ, ghét bỏ… Khi ấy chúng ta xóa bỏ được, dù chỉ là tạm thời, sự phân biệt chia cách kiên cố giữa ta và người khác. Chính sự thoát khỏi những ràng buộc tiêu cực nặng nề này đưa chúng ta đến miền đất chung của hạnh phúc.
08/12/2013(Xem: 8819)
Bodh Gaya (Bihar), Ngày 3, tháng 12, năm 2013 – Lễ trùng tụng Tam tạng thánh điển quốc tế đã cử hành tại Bồ Đề Đạo Tràng thuộc tỉnh Bihar, Ấn độ. Hàng ngàn chư Tăng và Phật tử trên toàn thế giới đang tham dự buổi lễ này. Buổi lễ 10 ngày được tham dự bởi chư Tăng và Phật tử từ các quốc gia như Bangladesh, Căm bốt, Ấn độ, Nepal, Miến điện, Thái lan, Tích lan và Việt nam sẽ chấm dứt vào ngày 12 tháng 12 năm 2013.
08/12/2013(Xem: 25802)
Khi thực tập thiền Lạy, ta nhìn sâu vào thân ta để thấy rằng thân này không đích thực là ta, không phải là vật sở hữu của ta. Trong thân này không có cái gì gọi là cái ta riêng biệt để bám víu. Tuy nhiên, thân thể ta là một hợp thể rất mầu nhiệm, nó chứa đựng cả tinh hà vũ trụ bao la. Ta thấy được tất cả các thế hệ tổ tiên, con cháu của ta đều có mặt trong thân ta. Ta cảm nhận sự có mặt của họ trong từng tế bào của cơ thể. Họ luôn có mặt trong ta và chung quanh ta. Họ cũng như các yếu tố khác đã kết hợp lại để làm nên sự sống của ta. Ta có thể tiếp xúc với những yếu tố như đất, nước, lửa và không khí - bốn đại trong ta và ngoài ta. Ta thấy ta như một con sóng trên mặt đại dương. Con sóng này được hình thành bởi các con sóng khác.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567