Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Biết đến cái ngu của mình

19/01/201107:13(Xem: 7769)
Biết đến cái ngu của mình

TỪ NỤ ĐẾN HOA

(FROM NOVICE TO MASTER
Thiền sư: Soko Morinaga - Biên dịch: Thuần Bạch Ngọc Bảo
Nhà Xuất Bản: Thanh Niên 2007


Phần hai: TU LUYỆN 

Biết đến cái ngu của mình 

Tôi đã từng nghe một nhận xét châm biếm về tình yêu và hôn nhân như thế này: “Hôn nhân là chuyển đổi từ một sự hiểu lầm đẹp đẽ sang một sự thông hiểu thê thảm.” Câu nói này cũng có thể áp dụng sơ qua đối với một số chặng đường trong tiến trình tu tập thiền. Tôi xin nói lại một lần nữa là, tôi đã không nói quá khi xem cuộc đời của mình chỉ là một chuỗi của sự nhìn nhận những điều tôi đã hiểu lầm (mà không phải là sự hiểu lầm đẹp đẽ gì) và là một tiến trình nhận biết ra được cái ngu của mình. 

Ðối với người đang có nhiều ham muốn, họ luôn luôn bám víu vào kinh nghiệm và kiến thức của họ trên hết; trong thế kẹt giữa hai áp lực của những cảm giác tự tôn và tự ti, giữa ý muốn xây đắp và hủy diệt hình ảnh của một cái ngã lý tưởng … việc nhận ra sự sai lầm trong những quan niệm của mình là điều dễ nói hơn là dễ làm được. 

Xưa ở Trung Hoa có một đại thiền sư tên là Triệu Châu. Khi Triệu Châu được năm mươi tuổi, thầy của ngài là Nam Tuyền mất đi. Sau ba năm để tang, Triệu Châu, lúc bấy giờ vào tuổi sáu mươi, khởi sự hành khước khắp nước Trung Hoa. Ðến tám mươi tuổi, vị thiền sư xuất chúng này tới trụ tại một ngôi chùa tên là chùa Quan âm, ở đó ngài đã hướng dẫn đạo pháp cho tăng chúng và các cư sĩ cho đến khi ngài viên tịch vào năm một trăm hai mươi tuổi. 

Một hôm có một học tăng đến chùa Triệu Châu và hỏi ngài, “Cái gì là kiên cố nhất, không thể nào phá vỡ nổi trên thế gian này?” 

Triệu Châu trả lời, “Nếu ngươi muốn sỉ nhục ta, cứ tha hồ mà làm như ý muốn. Nếu cho là làm như vậy không đủ, cứ việc sỉ nhục thêm nữa. Nếu ngươi muốn nhổ vào người ta, cứ tha hồ mà làm đi. Nếu nhổ không chưa đủ, cứ việc đi lấy đất bùn mà ném vào người ta.” 

Thoạt tiên, câu trả lời này có vẻ như chẳng ăn nhập gì với câu hỏi. Nhưng ý của Triệu Châu muốn nói là, dù có dùng đủ mọi cách lăng mạ đến thế nào, Phật tánh, vốn bất sinh và có sẵn nơi chúng ta, vẫn không suy suyển gì, và là kiên cố nhất trong tất cả. Nhìn bề ngoài thì thấy tâm của một số người có vẻ như dễ dàng bị thương tổn. Nhưng thực sự, đó chỉ là những cái giả tạo và vẩn đục che phủ tâm ta, không phải cái tâm thanh tịnh trong sáng vốn có sẵn từ khi sinh ra là bị thương tổn. 

Hầu hết mọi người đều hay phân biệt thật sắc bén giữa cái tốt và cái xấu, mà không nhận ra rằng những phân biệt đó chỉ là những cái giả tạo vô ý nghĩa. Họ ra sức tu tập trong quan niệm sai lầm rằng tu là vứt bỏ đi cái xấu và tìm kiếm cái tốt. Làm như vậy, họ đã công phu không đúng chỗ và phí phạm năng lực của họ. Ôm ấp những hình ảnh lý tưởng trong tâm, họ cố làm sao trở thành con người lý tưởng như hằng mơ ước, mà không nhận ra giá trị của cái họ đang có sẵn. Thật vậy, không phải dễ dàng mà hướng dẫn một nhóm người như vậy cho họ có thể ngộ ra được cái gốc rễ trang nghiêm căn bản của con người! 

Vì lý do đó, trước khi gia nhập một thiền viện, người sa di sống cuộc đời của một học tăng trẻ, trong thời gian đó ông phải trải qua biết bao lần phải chối bỏ cái ngã của mình. Ý tôi muốn nói không phải làø dẹp bỏ con người nguyên thủy của mình, mà đúng hơn là đương đầu và cay đắng nhìn nhận sự non kém và giả tạo của cái ngã của mình trong tình cảnh hiện tại: chối bỏ cái ngã trong tình trạng đương thời và nhận thức được sự trang nghiêm của con người nguyên thủy của mình. 

Lục tổ Huệ Năng của thiền tông, sống từ năm 618-713, đã xuất thân từ Tân Châu thuộc Lĩnh Nam, miền nam Trung Quốc, nơi bị coi là phần đất man rợ trong thời ấy. Huệ Năng, vốn mồ côi cha từ thuở nhỏ, đã nuôi mẹ bằng cách đi lượm củi trong rừng và đem về bán trong thành phố. Một ngày kia khi đang bán dạo, Huệ Năng đi qua một căn nhà và nghe thấy tiếng người đang tụng kinh Kim Cương. Khi nghe kinh, tâm Huệ Năng bỗng mở ra, ước nguyện muốn được giác ngộ bùng lên, và thế là ngài ra đi vượt đèo lên núi Hoàng Mai đến tìm vị tổ thứ năm là Hoằng Nhẫn. 

Hoằng Nhẫn thoáng nhìn đã biết vị khách Huệ Năng này là một người phi thường từ trời đưa xuống. Nhưng khi nghe Huệ Năng nói đã đến từ tỉnh Tân Châu ở miền Nam, ngài đã cố ý sỉ nhục mà hỏi rằng, “ Làm sao con người man rợ từ Lĩnh Nam lại đòi tu mà thành Phật được?” 

Huệ Năng không hề đổi sắc mà trả lời mạnh dạn rằng: “Con người ở miền Bắc và miền Nam tuy có đời sống khác nhau, nhưng Phật tánh không có phân biệt nam hay bắc.” 

Khi Hoằng Nhẫn nghe thấy câu trả lời này, ngài biết ngay rằng Huệ Năng sẽ là người kế thừa ngài trong ngôi vị Tổ. 

Nói về tâm linh, chúng tôi những thiền tăng đúng là hậu duệ của con người man di vùng Lĩnh Nam. Tuy chúng tôi mặc áo nâu sồng và sống trong những tu viện, chúng tôi vẫn chưa sẵn sàng cởi bỏ hết những cái hào nhoáng bên ngoài và vượt qua được lớp vỏ trần cấu dễ bị thương tổn của mình. 

Bây giờ, ta hãy nói về cuộc sống của những học tăng trẻ ra sao, và những gì họ làm trong thiền viện. 




Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
05/02/2025(Xem: 449)
Trời xuân ấm vạn nẻo đường Đất xuân ấm giữa vô thường thế gian; Non xuân đứng giữa núi ngàn, Nước xuân chảy giữa muôn vàn điệu ru;
05/02/2025(Xem: 315)
Trong cuộc sống chúng ta thường lẫn lộn giữa thực tế và ước mơ, thế nhưng ước mơ cũng có thể giúp chúng ta nhìn vào thực tế một cách thực tế hơn, hoặc ngược lại thì thực tế đôi khi cũng có thể khơi động và làm sống lại các ước mơ của mình trong quá khứ. Câu chuyện mà tôi sắp thuật lại dưới đây nêu lên các ước mơ của một người mẹ hiện lên với mình như một sự thực, và các ước mơ của một người con mãi mãi vẫn là ước mơ.
05/02/2025(Xem: 454)
NẾN VU LAN THẮP SÁNG GIỮA ĐỜI THƯỜNG Trong truyền thống Phật giáo, lễ Vu lan là ngọn nến hiếu hạnh thắp sáng giữa đời thường để cho ai có mắt thì được thấy, có trí thì được sáng tỏ, có tâm thì cảm và có tình, thì tình thêm sáng đẹp, rộng và sâu.
05/02/2025(Xem: 777)
CÁC PHÂN KHOA PHẬT GIÁO Tôi viết bài này, xin chia sẻ đến những ai muốn quan tâm đến lãnh vực giáo dục trong Phật giáo, nhưng chưa có điều kiện để nghiên cứu.
04/02/2025(Xem: 334)
Có một bài thơ khó hiểu trong Thiền Tông. Bài thơ có tên là Ngũ Vị, có khi gọi là Động Sơn Ngũ Vị, và có khi gọi là Ngũ Vị Quân Thần. Bài thơ khó hiểu phần vì dùng nhiều chữ xưa cổ, nhiều hình ảnh thi vị, và vì chỉ cho một số chặng đường tu học trong Thiền Tông. Bài này sẽ tham khảo nhiều giải thích để làm sáng tỏ bài thơ này.
03/02/2025(Xem: 524)
Đầu Xuân nghe nhạc phẩm "Xuân nầy con không về" do con mình từ xa gửi về, gợi nhớ lại những năm tháng lao lý. Lần đầu tiên trong đời vào nằm trong nhà lao ở vùng hiu quạnh nơi rừng xanh xa lạ. Một cuộc đời tù mà không có tội trong buổi giao thời của đất nước sang trang. 30 năm làm tu sĩ, trãi qua nhiều Tỉnh thành, từ thôn quê đến phố thị, qua bao mùa Xuân trên đất nước chiến chinh, cũng bao lần nghe nhạc Xuân, kể cả nhạc phẩm "Xuân nầy con không về", thế mà lòng không khỏi xúc động khi nghe văng vẳng giữa đêm khuya, từ nhà dân, có lẽ xa lắm, vọng lại.
03/02/2025(Xem: 374)
Nói một cách nôm na dễ hiểu là không sợ hãi, nhìn thời cuộc phát triển hay suy tàn mà lòng không sợ sệt. Vô bố úy là hạnh, là pháp tu, pháp thí ngôn ngữ văn tự nghe thì dễ nhưng thực hành chẳng hề dễ tí nào. Thế gian dễ được mấy ai? Các ngài viết được, nói được và làm được. Phật môn xưa nay đời nào cũng có. Phật giáo cũng như thời vận quốc gia lúc suy lúc thịnh, lúc hưng lúc mạt. Các ngài chẳng những tự thân vô úy mà còn bố thí vô úy, dạy người vô úy, truyền cái tinh thần vô úy đến mọi người, mọi loài. Còn chúng ta học được, cảm nhận được, thọ nhận được bao nhiêu là tùy thuộc vào phước đức, căn cơ và bản lãnh của mỗi cá nhân.
01/02/2025(Xem: 458)
Trong giao tiếp xã hội, chúng ta thường nghe những hình thức khen và chê. Có người tự khen mình học giỏi, kinh doanh thành công, và rồi chê người khác học kém, kinh doanh thất bại. Đôi khi trong tứ chúng của Phật giáo cũng có người suy nghĩ rằng: "Tôi giỏi, người khác kém." Đừng nghĩ như thế. Đức Phật dạy rằng người tu hãy lo tu theo đúng chánh pháp, và đừng khen mình hay chê người.
01/02/2025(Xem: 578)
Lại một mùa Xuân Ất Tỵ trở về trong những ngày cuối đông Giáp Thìn, nhìn thấy chính mình trong vạn nẻo nhân duyên, để từ đây ta vui chơi trong cõi đời sanh tử. Năm cũ đã bước sang, ta nhìn sâu vào trong tâm thức, các thiên tai cướp đi bao muộn phiền khiến cho con người điêu linh trong từng hơi thở. Vì chiến tranh tàn khốc trên thế giới, khiến xung đột từng hệ tư tưởng, hạn hán cháy rừng, thiên tai bão lụt, cướp mất bao tính mạng con người. Từ lòng tham bên trong khởi hành, tạo ra bao nhiêu oán trách, để chính chúng ta bị nhiều khổ đau.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com