Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Câu Chuyện Về Thánh Josaphat Hay Là Chuyện Nhà Thờ Thiên Chúa Giáo Từng Phong Thánh Cho Đức Phật

25/09/201103:16(Xem: 6925)
Câu Chuyện Về Thánh Josaphat Hay Là Chuyện Nhà Thờ Thiên Chúa Giáo Từng Phong Thánh Cho Đức Phật

CÂU CHUYỆN VỀ THÁNH JOSAPHAT
hay là chuyện Nhà thờ Thiên Chúa Giáo từng phong thánh cho Đức Phật
Tài liệu của Viện Đại Học Phật Giáo Âu Châu
(http://www.bouddhismes.net/node/189)
(Hoang Phong chuyển ngữ)

Lời giới thiệu của người dịch:

Dịch giả trước đây đã nêu lên chủ đề này qua một bài viết ngắn vàongày 7 tháng 8 năm 2010, mang tựa đề là "CâuChuyện về Barlaam và Joasaph: hay một sự trùng hợp lạ lùng giữa các tôngiáo",(có thể xem bài này trên các mạng Thư Viện Hoa Sen, Quảng Đức...). Thế nhưng quả là một sự ngạc nhiên kỳ thú là khilùng lại các tài liệu cũ thì tình cờ mới thấy rằng trước đó gần một năm Viện ĐạiHọc Phật Giáo Âu Châu (UBE : Université Bouddhhique Européenne) cũng đã đưa vấnđề này lên mạng trong số phát hành ngày 1 tháng 12 năm 2009, tức là vào dịp nhữngngày lễ cuối năm ở Âu Châu. Bài viết này có thể xem như là một bài khảo cứu nêulên một số dữ kiện để chúng ta cùng suy tư về một vài khía cạnh nào đó của tôngiáo nói chung.

Joasaph01

Thánh Josaphat đangthuyết giảng (bản chép tay của Hy Lạp, thế kỷ XII)

Quả hết sức lạ lùng là một chuyệnnhư thế lại có thể xảy ra được: Nhà thờ Thiên Chúa Giáo và Chính Thống Giáo lạitôn thờ Đức Phật như một vị Thánh của họ dưới danh hiệu là Thánh Josaphat ...! Chuyệnnày đã xảy ra từ lâu thế nhưng hầu như chẳng có ai hay biết cả!

Câu chuyện về Thánh Josaphat vàThánh Barlaam bắt nguồn từ thuở xa xưa ở Ấn Độ, thế nhưng mãi về sau này mới trởthành một câu chuyện "ăn khách nhất" ("best seller" trong nguyên bản)vào thời Trung Cổ(tại Âu Châu). Vào thời đó ThánhJosaphat nổi danh đến độ Giáo Hoàng Sixte Quint đã phải chính thức đưa vào danhsách những người "Tử Đạo" (Martyrology) vào năm 1583. Lễ tưởng niệm vịThánh này được nhà thờ Thiên Chúa Giáo LaMã ấn định vào ngày 27 tháng 11, trong khi đó thì nhà thờ ChínhThống Giáo Hy Lạp lại chọn ngày 26 tháng 8 và Chính Thống Giáo Nga Sô thì chọn ngày19 tháng 11.

Mãi đến năm 1860 thì mới có hai họcgiả là Labourlaye và Liebrecht cùng chứng minh một lượt cho thấy là ThánhJosaphat và Đức Phật chỉ là một nhân vật duy nhất, tuy rằng cả hai học giả này trướcđó đã nghiên cứu biệt lập với nhau. Thế là tức thời nhiều khảo cứu gia khác thinhau đổ xô vào vấn đề này để nghiên cứu thêm, và cũng nhờ đó mà mọi người mớibiết đến quá trình diễn biến thật lạ lùng của câu chuyện trên đây một cách chínhxác hơn...

Từ Ấn Độđến Địa Trung Hải...

Đầuđuôi câu chuyện xảy ra tại Ấn độ, và đúng thật là như thế! Vào khoảng đầu kỷnguyên Thiên Chúa giáo, người ta mới thấy bắt đầu xuất hiện các kinh sách Phậtgiáo ghi chép sự tích Đức Phật một cách quy củ. Các mẫu chuyện rời rạc được ghichép trước đây trong các Kinh (Sutra) và các bộ Luật tạng (Vinaya), tức là cáctập sách ghi chép những lời giáo huấn của Đức Phật và các luật lệ quy định chođời sống xuất gia, đã được gom góp lại để tạo thành những tác phẩm thật quy mô vàđầy đủ, trong số này có thể kể ra các tác phẩm quan trọng nhất như tập Phật sở hạnh tán(Buddha-carita - thế kỷ thứ II) do nhà thơ Mã Minh (Asvaghosa) trướctác và tập Phổ diệu kinh(Lalita Vistara - thế kỷ thứ III-IV).

Vào các thế kỷ đầu tiêncủa kỷ nguyên Thiên Chúa giáo, Phật giáo nhờ vào vương quốc Kushan đã bành trướngnhanh chóng trong toàn vùng Trung Á. Lãnh thổ rộng lớn của vương quốc này trảidài từ thung lũng sông Hằng đến những vùng biên giới tận cùng của sa mạcTukla-Makan, đã tạo ra một cửa ngõ quan trọng giúp cho "con đường tơ lụa"nối liền Trung Quốcvà nước Ba Tư (I-ran ngày nay). Dọc theo con đường này và rải rác trong các vùng ốcđảo, đã phát triển nhiều đô thị lớn góp phần không nhỏ vào việc vận chuyển hànghóa... và luôn cả tôn giáo cũng như các huyền thoại đủ loại của toàn vùng Á Châu!

Trong tỉnh Tourfan (còn gọi là Turfan hay Turpan, Việt dịch làThự Quang, ngày nay thuộc tỉnh Tân Cương - Xinjiang - của Trung Quốc; Tân Cương có nghĩa là biên giới mới) người ta đã khám phá ra một mảnh bản thảo kinh sách củađạo Thiện Ác (Manicheisme,Manichaeism - một tôn giáo xuất hiện vào thế kỷ thứ III, chủ trương nhất thiếtphải phân loại tất cả mọi hiện tượng thành Thiện và Ác, tôn giáo này phát triểntại Tây Á và đã từng ganh đua với Thiên Chúa giáo mãi cho đến thời Trung Cổ) viết bằng cổ ngữ Ba Tư ghi lại một mẫu đối thoại giữahai nhân vật mang tên là Bylwhr và Bwdysf (Budasf). Mẫu đối thoại này trùng hợpvới một đoạn trong huyền thoại rất quen thuộc sau này nói về Thánh Barlaam và ThánhJosaphat.

Sự kiện các tín đồ của đạoThiện Ác quan tâm đến sự tích Đức Phật không phải là một chuyện lạ, vì vị sánglập ra đạo này là một người Ba Tư tên là Mani (216-273) đã từng du hành sang Ấnđộ..., và tại đây người ta đã từng xem ông ngang hàng với Đức Phật trước kia! Thậtthế, vị này quả là một con người khác thường, nguyên trước đó ông theo Thiên Chúagiáo, và tin rằng một người tông đồ của Chúa là Thánh Thomas (theo huyền thoại thì thánh Thomas đã từngsang Ấn Độ thuyết giáo) giao cho ông sứmạng kết hợp cả ba tôn giáo là Thiên Chúa giáo, Phật giáo và đạo Dô-rô-át (Zoroastrism, còn gọi là đạo Mazdéisme, làmột tôn giáo của xứ Ba Tư, xuất hiện từ thế kỷ thứ VII trước Tây lịch, chủtrương thế giới là một môi trường tranh đấu giữa cái Xấu và cái Tốt, sự chiếnthắng cuối cùng sẽ thuộc về cái Tốt).Tuy người ta khó có thể biết được là vị này đã có dịp tiếp xúc với trường pháinào của Phật giáo hay không(vì vào thời kỳ đó nhiều học phái Phật giáo xưa và cả Đại Thừa Phật giáo cũngđã phát triển rộng rãi trong vùng Trung Á), dù sao đi nữa thì rất có thể ông ta đã có dịp nghe kểlại sự tích về cuộc đời của Đức Phật, rất phổ biến tại các nước theo Phật giáothời bấy giờ, nhất là đối với những đoạn thuật lại tuổi thiếu thời của Đức Phậtvà thiên hướng tầm đạo của Ngài - và đấy cũng là những gì mà người ta đã tìm thấytrong huyền thoại về Thánh Josaphat.

Vị sáng lập đạo ThiệnÁc là Mani tỏ ra rất thán phục lý tưởng tu tập khổ hạnh và chủ trương xa lánh nhữnggiá trị thế tục của Đức Phật, và thật ra thì giáo lý của Mani cũng chủ trương phảichối bỏ những giá trị đó. Ngoài ra người ta cũng nhận thấy có nhiều điểm tươngđồng giữa tăng đoàn Phật giáo và tăng đoàn của đạo Thiện Ác: mối tương quan giữacác vị tỳ kheo (bhikkhu) và các vị ưu-bà-tắc(upasaca, tức các vị cư sĩ) trong Phật giáo cũng tương tự như sự tương quan giữacác vị "được bầu" và các vị "nghe giảng" trong đạo Thiện Ác.Nói chung các vị "tỳ kheo" và các vị "được bầu" phải lo việctu tập và thuyết giáo, còn các vị "ưu-bà-tắc" và các vị "nghe giảng"thì có bổn phận phải trợ cấp các phương tiện sinh sống cho các vị tu hành trên đây.Ngoài ra vị giáo chủ Mani cũng đưa ra năm "lời khuyên" mà các vị"được bầu" phải noi theo, và năm lời khuyên này cũng khá tương tự vớingũ giới của Phật giáo. Ngoài các điểm tương đồng trên đây thì cũng cần nêu lênlà giáo lý của đạo Thiện Ác chủ trương phải khinh thường thân xác vì đấy lànguyên nhân mang lại mọi thứ tai hại cho linh hồn, quan điểm giáo lý này hoàntoàn không có trong Phật giáo!

Sự tích Đức Phật sau đólại được truyền đi từ Trung Á và Ba Tư sang đến tận các vùng bờ biển Địa Trung Hải: một số tư liệu bằngngôn ngữ Á Rập cho biết là vào hậu bán thế kỷ thứ VIII, quyển sách bằng tiếngBa Tư nói về Đức Phật đã được cộng đồng những người theo giáo phái Ismailism (Ismaélisme, tức một giáo phái của HồiGiáo) tại Xiri (Syria, Syrie) chuyển dịch sang tiếng Xiri vàsau đó sang tiếng Á Rập, với tựa đề là "Quyểnsách nói về Bilawhar và Yûdâsaf"(KitabBilawhar wa-Yudasaf). Lý tưởng khổ hạnh không thu hút được người Hồi giáo, vìthế họ vẫn tiếp tục giữ truyền thống tu tập của người Ba Tư trước đây, và đối vớicác kinh sách dịch thuật thì họ chỉ thêm vào một vài chi tiết nhằm nêu lên tínhcách độc thần trong tôn giáo của họ, do đó sự tích Đức Phật trong các kinh sáchdịch thuật này không bị biến dạng nhiều.

Joasaph02Joasaph03

Tranh trên gỗcủa Nga Sô và tranh in từ một bảng khắc trên gỗ của Pháp do Jaques Caillot thựchiện (1630),
cả hai bứctranh đều trình bày Thánh Barlaam và người đệ tử là Josaphat

Câu chuyện về Bilawhar và Yûdâsaf

Ngày xưa tại Ấn độ, có mộtvị vua tên là Abénès theo tà giáo, tôn thờ thần linh. Ông rất đau buồn vì khôngcó con trai để thừa kế ngai vàng, tuy nhiên sau đó thì ông cũng sinh được một đứacon trai và đặt tên là Yûdâsaf. Chẳng may một vị tiên tri lại cho biết sau này đứabé sẽ không nối ngôi để trị vì xứ sở, bởi vì đứa bé sẽ trở thành một "Vị hướng dẫn vĩ đại trên con đường đưađến Sự Thật". Nhà vua rất thất vọng liền ra lệnh tống cổ tất cả các vị"phục vụ Trời"ra khỏi vươngquốc của ông và giam con ông trong một lâu đài thật nguy nga, biệt lập hẳn vớinhững cảnh tượng khổ đau của thế gian. Ông cấm mọi người không được nói đến "cái chết, sự già nua, tật nguyền và sựnghèo đói",và nếu như có một người hầu cận nào ốm đau thì phải được thaythế ngay.

Khi Yûdâsaf trưởng thànhthì thường hay than vãn về cảnh sống biệt lập đó. Vua cha đành phải cho tổ chứccác cuộc rong chơi, nhưng không được để cho hoàng tử trông thấy các cảnh tượngkhông hay, hoặc buồn khổ. Thế nhưng làm thế nào tránh khỏi được những chuyện ấy,một hôm hoàng tử trông thấy một người cùi và một người mù và ý thức được bệnh tậtlà gì, và sau đó lại trông thấy một người già, da dẻ nhăn nheo, lưng còng và khôngcòn một chiếc răng nào, vị hoàng tử lại có dịp hiểu thêm sự già nua là gì. Chưahết tò mò Josaphat còn hạch hỏi thêm cácngười hầu cận và họ đành phải cho biết thế nào là cái chết. Những khám phá đó đãlàm cho vị hoàng tử trẻ phải suy tư...

Joasaph04

Hình minh họa trong mộtbản thảo thời Trung Cổcho thấy Josaphat ra khỏi thành (đang cưỡingựa)và gặp một người cùi (mặt cóchấm đen)và một người mù (đang chống gậy). Bên trong thành thìvua cha đang nhìn ra để canh chừng.

Một nhà tu hành thông thái của mộttôn giáo độc thần tên là Bilawhar sống trong sa mạc bỗng dưng một hôm nhờ linh cảmđã nhìn thấy tương lai của Yûdâsaf. Vị này bèn rời bỏ chốn ẩn cư để quay về nơiđô thị. Ông tìm gặp Yûdâsaf và đem một số chuyện ngụ ngôn ra để giảng dạy cho vịhoàng tử trẻ. Các bài ngụ ngôn này phản ảnh một số giáo lý Phật giáo, chẳng hạnnhư những lời giáo huấn về ảo giác của sự hiện hữu và sự nguy hại của dụctính... Sau đây là một đoạn trích dẫn:

"Nhữngai thèm khát sự thích thú từ thân xác và bỏ mặc cho linh hồn phải chịu đói khátthì cũng chẳng khác gì với một người đang bị một con kỳ lân (một con vậttruyền thuyết của người Tây phương rất hung dữ)đuổi bắt để ăn thịt và người này hụt chân té xuốngmột vực sâu. Khi đang rơi thì hắn nắm được một bụi cây và chống chân được vào mộtbờ đất mềm lại vừa trơn trợt; hắn nhìn thấy hai con chuột, một trắng và một đenthay phiên nhau gặm nhấm rễ của bụi cây mà hắn đang nắm. Một lúc sau thì bụicây bị đứt gần hết rễ. Hắn nhìn thấy ở đáy vực thẳm một con rồng (theo truyềnthuyết Tây phương con rồng lả một con vật hung tợn)vừa phun lửa vừa há toácmiệng để chờ cắn xé hắn; nơi hắn đang đứng lại có bốn con rắn độc, tượng trưngcho bốn thành phần tạo ra thân xác, đang từ trong đất chui ra. Khi hắn ngẩng đầulên thì lại thấy mật tuôn ra từ cành lá của bụi cây; thế là hắn quên ngay hiểmnguy đang chờ đợi, và cứ mải mê tận hưởng những giọt mật hiếm hoi đó.

Conkỳ lân tượng trưng cho cái chết, nó liên tục đuổi theo con người để tóm bắt. Vựcsâu tương trưng cho thế giới đầy rẫy khổ đau. Bụi cây biểu trưng cho sự sống của mỗi người đang bịhai con chuột, một trắng một đen, thường xuyên gặm nhấm từng ngày và từng đêm vàsắp làm cho bụi cây bật rễ. Nơi đang đứngcó bốn con rắn biểu trưng cho thân xác gồm bốn thành phần, thân xác đó sẽ bị sựbất quân bình làm cho cho tan biến hết. Cái miệng khiếp đảm của con rồng tượngtrưng cho cửa địa ngục đang chờ nuốt chửng tất cả mọi người. Mật tuôn ra từcành cây tượng trưng cho sự lừa phỉnh của thế giới này, khiến con người bị mê hoặc,không nhìn thấy những hiểm nguy chung quanh".

Joasaph05Joasaph06

Hai hình minh họa trongcác bản thảo thuộc thời Trung Cổ, kể lại huyền thoại Barlaam và Josaphat
(một người rơi xuống vực sâu với được một cành cây, con kỳlân một sừng húc vào người này, con rồng thì há miệng để chờ cắn xé)

Joasaph07

Tranh minh họa in từ bản gỗ của Boetius Adam Bolswert [1580-1634]
(một người đang rơi xuốnggiếng sâu, trên miệng giếng có một con kỳ lân, vách giếng thì có bốn con rắnđang phun nọc độc,
dưới đáy giếng có một conrồng đang phun lửa)

Joasaph08

Điêu khắc trên vòm cổngphía nam của nhà rửa tội tại Parma (nước Ý)
tác phẩm của nhàđiêu khắc Benedetto Antelami (thế kỷ XIII)
(xin chú ý hình chạm nổi ở giữa: bên trên có một người vớiđược một bụi cây, bên dưới là một con rồng....)

Những lời giảng dạy của Bilawhar choYûdâsaf được dựa vào sự đối nghịch giữa Hiện thực và Ảo giác, và các câu chuyệnngụ ngôn thì mang hậu ý khuyên nên tạo ra các thứ "nghiệp" lành! Bilawarnêu lên những gì thật quan trọng mà người ta thường không nghĩ đến, hay nói cáchkhác đấy là những gì mà thoạt nhìn thì không thấy và không cần phải quan tâm,thế nhưng thật ra thì đấy lại là những gì hết sức quan trọng. Sau đây là một đoạntrích dẫn từ một câu chuyện ngụ ngôn khác mà Bilahwar đã thuyết giảng choYûdâsaf:

"Mộtngười biết yêu thương thế giới cũng tương tự như một người có ba người bạn. Đốivới người bạn thứ nhất thì hắn yêu thương hơn cả chính mình, với người bạn thứhai thì hắn yêu thương ngang hàng với mình và với người thứ ba thì hắn yêuthương kém hơn mình. Bỗng một hôm hắn bị nhà vua gọi vào triều và hắn cảmthấy vô cùng sợ hãi vì e rằng mình sẽ bị trừng phạt. Hắn bèn chạy đi tìm ngườibạn thứ nhất, người này thoái thác rằng mình rất bận và biếu tặng hắn một ít vảiđể may quần áo. Hắn đành tìm đến người bạn thứ hai, người này cũng lại thoáithác và cho hắn biết rằng mình đang có nhiều chuyện lo buồn, tuy nhiên vẫn chấpnhận đi theo hắn đến tận cổng thành. Hắn vô cùng thất vọng và tìm đến người bạnthứ ba. Hắn tạ lỗi trước và xin người bạn này giúp đỡ cho mình. Không ngờ ngườibạn thứ ba lại tiếp rước hắn thật ân cần, luôn miệng gọi hắn là người bạn thânthiết nhất của mình, và cho biết là trước đây hắn đã từng giúp đỡ mình từng litừ tí nên không thể nào quên ơn được. Chẳng những người bạn này đi theo vào tậnbên trong thành mà còn hết lòng bênh vực cho hắn nữa. Người bạn thứ nhất tượngtrưng cho của cải trong thế gian này, của cải ấy không thể giúp đỡ gì cho hắnngoài việc sử dụng để mua một tấm vải liệm trước ngưỡng cửa của cái chết, ngườibạn thứ hai tượng trưng cho gia đình và bạn hữu, thế nhưng chính họ thì cũngđang bận tâm với những đau buồn của họ và họ chỉ đủ sức ngồi bên cạnh hắn tronggiây phút cuối cùng mà thôi. Người bạn thứ ba tượng trưng cho những hành động từthiện, và đấy là những gì mà hắn có thể trình ra trước sự phán xét cuốicùng".

Sau đó Bilawhar còn đưa ra thêm các lời dạy bảo khác nữa,và trước khi từ giã Yûdâsaf, Bilawhar còn bảo với Yûdâsaf rằng hắn còn phải vượtqua nhiều thử thách khác trong một thờigian nữa trước khi được gặp lại ông ta.

Thật vậy, sau "bốn lần gặp gỡ"(người mù, người cùi, người già vàBilawhar) Yûdâsaf đã phải chịu đựng đủmọi thử thách. Vua cha nhận thấy tánh tình con mình bỗng dưng đổi thay, bèn dọhỏi và biết con mình đã cải đạo. Vua cha liền sử dụng đủ mọi xảo thuật để làmcho con mình đổi ý: trước hết ông tổ chức một buổi tranh luận về thần học, thếnhưng Yûdâsaf đã thắng! Sau đó thì ông xúi bẩy con mình ham muốn xác thịt...,thế nhưng Yûdâsaf chỉ bị cám dỗ có một phần, có nghĩa là sau đó Yûdâsaf đã thoátra được sự cám dỗ, thế nhưng cũng đã sinh được một đứa bé trai. Thấy có ngườithừa kế, Vua cha vui mừng trở lại và sau đó ông đã cải đạo theo Yûdâsaf...

Cũng khá tương tự với trườnghợp của Đức Phật có một người con trai là La-hầu-la (Rahula), Yûdâsaf sau khi cócon vẫn tiếp tục lưu lại trong lâu đài của Vua cha, tuy nhiên lúc nào cũng nuôimộng rời bỏ thế tục để sống cuộc đời khổ hạnh đúng như những gì mà Bilawhar từngđề cao! Một hôm có một vị thiên thần hiện ra và khuyên Yûdâsaf hãy bỏ trốn... Vịhoàng tử bèn rời bỏ lâu đài: đấy là một cuộc "Ra đi Trọng Đại"! Yûdâsaf cởi quần áo để trao đổi với mộtngười ăn mày và sống cuộc đời khổ hạnh mà mình hằng mơ ước. Sau vài năm sống côđơn "trong sa mạc",Yûdâsafđược thụ giáo về "sự hiểu biết TốiThượng và Độc Nhất!", và ngay sau đó thì quay lại vương quốc của cha mìnhđể cải đạo cho toàn thể dân chúng, an ủi Vua cha trên giường bệnh và sắp lìa đời.Yûdâsaf phong người giám hộ của con mình làm nhiếp chính, và sau đó thì ra đi vĩnhviễn...

Joasaph09Joasaph10

Hai bức minh họathuộc thế kỷ XV
Tranh bên trái diễntả cảnh hoàng tử đang than khóc vì bị nhốt trong lâu đài.
Tranh bên phải làcảnh hoàng tử Josaphat ra đi, góc phải phía trên của tấm tranh
cho thấy hoàng tửđang cởi áo để trao đổi với một người ăn mày.

Thật rõ ràng trên đây là các tình tiếtnhắc lại những gì xảy ra từ khi Đức Phật ra đi cho đến khi quay lại kinh đôCa-tì-la-vệ (Kapilavastu) nơi sinh thành của mình. Vào dịp trở về này Đức Phật cũngđã thuyết giảng cho nhiều người trong vương quốc của Vua cha và sau đó thì họđã trở thành các vị tỳ kheo..., trong số này có cả con trai của Ngài là La-hầu-la.Thật vậy, hình như các người Á Rập và kể cả những người Ba Tư trước họ nữa, (tức là những người "sáng chế" ra câu chuyện Yûdâsaf vàBilawhar) tất cả có thể đã không hề biết tí gì vềcác sự kiện trên đây!

Đối với chuyện có một thiên thần hiệnra để thúc dục Yûdâsaf rời bỏ lâu đài Vua cha thì cũng không phải là chuyện do ngườiHồi Giáo tự bịa đặt thêm, vì nhiều kinh sách Phật giáo cũng kể lại là khi hoàngtử rời bỏ lâu đài Vua cha thì có nhiều vì thần linh hiện ra để nâng bốn châncon ngựa của hoàng tử lên, hầu tránh không gây ra tiếng động khiến có thể đánhthức những người hầu cận trong lâu đài.

Sau đó thì các tập sách bằng tiếng ÁRập kể lại các câu chuyện trên đây đã được chuyển dịch sang ngôn ngữ của xứGeorgia (thuộc Liên Sô cũ).

Đức Phật trở thành thánh Josaphat như thế nào...

Xứ Georgia nằm giữa vùng biên giớichia cách Âu Châu và Á Châu và đồng thời cũng nằm giữa Hắc Hải và biển Caspian,là quốc gia đầu tiên trong toàn vùng đã ngả theo Thiên Chúa giáo, và hơn nữa cònđưa tôn giáo này lên hàng quốc giáo vào thế kỷ thứ VI. Do đó chính trên quê hươngnày câu chuyện về sự tích Đức Phật đã biến thành một huyền thoại Thiên Chúa giáo.Người ta được biết có tất cả ba văn bản bằng tiếng Georgia khác nhau về câu chuyện này,và các nhân vật thì được gọi là Balawhar và Iodasaph. Một văn bản "dài"được lưu lại đến nay là một bản chép tay vào thế kỷ XI, một văn bản khác thuộcloại "ngắn" là một bản chép tay thuộc vào thế kỷ XII, bản thứ ba là bảnxưa nhất thuộc thế kỷ thứ IX rất gần với các bản trước tác bằng ngôn ngữ Á Rập trướckia và cũng là bản ít bị Thiên Chúa giáo hóa hơn cả...

Các người Thiên Chúa giáobị thu hút mạnh hơn so với những người Á Rập về lối sống khổ hạnh nêu lên trongcâu chuyện. Họ xem đấy là lối sống lý tưởng và gần nhất với cuộc đời của ChúaGiê-Xu - cũng có nghĩa là lối sống của Đức Phật đã được Thiên Chúa giáo hóa. Lốisống khổ hạnh đó đã trở thành một thứ khuôn mẫu cho thiên hướng của những ngườiThiên Chúa giáo: một thứ động cơ thúc dục họ hãy tìm lấy cho mình sự tuyệt đốitrong cảnh cô đơn, biểu trưng cho một sự thách đố trước mọi khó khăn và thèm khát- nhất là thèm khát xác thịt! Dù một vài chi tiết trong huyền thoại trước đây đãbị "sửa đổi" và câu chuyện đã được hoàn toàn Thiên Chúa giáo hóa, thếnhưng nhân vật Iodaphat vẫn là biểu trưng cho một con người cưỡng lại được sự cámdỗ của phụ nữ mà Vua cha đã cố tình tạo ra, và Iodaphat đã rời bỏ lâu đài khôngcần nghĩ đến vợ con và cả ngai vàng...

Sự tích cuộc đời Đức Phậtsau khi được truyền bá vào các vùng lãnh thổ Thiên Chúa giáo đã được dịch ra nhiềuthứ ngôn ngữ khác nhau và được sửa đổi để thích nghi với các giáo lý mới. Tronghậu bán thế kỷ thứ X, một nhà dịch thuật nổi danh người Georgia là Euthyme ngụ tạitu viện Ivoron trên ngọn núi Athos của xứ Hy Lạp (Athos là một ngọn núi thiêng của xứ Hy Lạp, vào thếkỷ thứ X nơi đây đã từng có 20 tu viện được xây cất và có đến 2.200 tu sĩ, Đức Đạt-LaiLạt-Ma cũng đã từng thăm viếng nơi này) đãdịch câu chuyện này từ tiếng Georgia sang tiếng Hy Lạp, và nhân vật Iodasaph trởthành Ioasaph. Bản dịch này còn lưu lại đến nay dưới dạng một bản chép tay năm1021. Bản này cũng là bản gốc được sử dụng để dịch sang các ngôn ngữ khác nữa, chẳnghạn như các tiếng Ác-mê-ni (Arménien - Amenian), tiếng Slavia và tiếng La Tinh. Trong bản tiếng La Tinh thì Iosaphat lại trởthành Josaphat, và sở dĩ có sự thay đổi đó là vì tiếng La Tinh không phân biệt giữa haichữ i và j.

Vào khoảng năm 1047 hay1048, có một tu sĩ "thích phiêu lưu" đã đến tận Constantinople (ngày nay là kinh đô Istanbul của ThổNhĩ Kỳ) và theo lời của chính ông kể lại, thì ông "rất say mê tìm tòi các sách viết bằng ngônngữ Hy Lạp và hy vọng sẽ khám phá ra một thứ gì đó để lưu lại ngàn đời"!Và rồi bỗng nhiên có một người tên là Léon đã trao tận tay ông một quyển sách.Trong quyển sách do ông dịch sau này ông có viết thêm một đoạn như sau:

"Vị này (tứcngười trao quyển sách), nhân danh Chúa Trời và để tôn vinh vị tối thiệnBarlaam, đã khẩn cầu tôi dịch tác phẩm này của thời Cổ Đại từ tiếng Hy Lạp sangtiếng La Tinh, mộtthứ tiếng được nhiều người biết hơn. Quyển sách này trước đây bị vùi sâu trongquên lãng và chưa hề có ai dịch, [...]. Tôi tự hứa sẽ dịch thật trung thực từngchữ một, đúng theo cách diễn đạt của người xưa, thế nhưng sau đó thì tôi cũng lạinghĩ rằng trong công việc dịch thuật này, tôi sẽ phải trả cái giá thật đắt vì tôisẽ sửa đổi một vài chỗ nhằm mục đích giúp cho bản dịch thu hút mạnh hơn nhữngai có nhiều đức tin..."

Đấy là bản dịch đầu tiênsang tiếng La Tinhvà bản này đã được lưu hành trên khắp các quốc gia Thiên Chúa giáo trong thế giớiTây phương thời bấy giờ. Thế nhưng sự thành công vô song của câu chuyện Josaphatthật ra là nhờ vào một tác phẩm của Jaques de Voragine (1225-1298), một nhà thầnhọc thuộc dòng tu Đô-mi-ních, và cũng là vị tổng giám mục địa phận Genova (một thành phố của nước Ý). Tác phẩm này được trước tác vào năm 1264 nhằm ghi lại"Cuộc đời của các vị Thánh" vàmang tựa đề là "Huyền thoại Vàngson"("Légende Dorée").Quyển sách đã thành công rực rỡ! Câu chuyện về Thánh Barlaam và Thánh Josaphatkể lại trong quyển sách này đã trở thành một câu chuyện ăn khách nhất ("best seller" trong nguyên bản) vào thời TrungCổ... Thật nhiều các tác phẩm khác, gồm cả văn xuôi lẫn văn vần,đã được trước tác dựa vào bản gốc trên đây, trong số này có cả một số phóng tácdưới dạng kịch bản để trình diễn trên sân khấu, và hầu hết các tác phẩm này vẫncòn được lưu truyền đến nay. Ngoài ra bảngốc trong quyển sách của Voragine trên đây còn được dịch ra hầu hết các ngôn ngữÂu Châu như: Pháp, Ý, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, ngôn ngữ Provence (ngôn ngữ địa phương thuộc miền nam nướcPháp), Ái Nhĩ Lan, Đức, Anh, Hòa Lan, Na Uy và Thụy Điển!...

Phần đọc thêm:

Tài liệu trên đây còn đưa ra một vài thư tịch giúp người đọc tìm hiểu thêm:

* Hai bài viết của tácgiả Serges Leclerc trong tạp chí "Tao Yin" với tựa đề "Đức Phật, Josaphat và Barlaam: “Huyềnthoại Vàng son” và thông điệp do tập sách này gửi gấm" (Bouddha, Josaphat: La légende dorée et son message):

http://wusong.free.fr/biblio/voidasi0/josaphat.htm

http://wusong.free.fr/biblio/voidasi0/josapha2.htm

Joasaph11* Nhà xuất bản Editions Gallimardphát hành vào năm 1993 một bản dịch từ tiếng Georgia sang tiếng Pháp về cuộc đờicủa Thánh Josaphat, do hai dịch giả là Annie và Jean-Pierre Mahé thực hiện. Quyểnsách mang tựa đề là "Trí tuệ củaBalawhar - Cuộc đời của Đức Phật được Thiên Chúa giáo hóa" (La Sagesse de Balahvar. Unevie christianisée du Bouddha), quyển sách này được xếp vào bộ sách"Tìm hiểu Đông Phương" của nhà xuất bản. Ngoài phần dịch thuật ra, quyểnsách còn gồm thêm một phần giới thiệu thật xuất sắc.

* Nếu muốn tìm hiểu thêmvề cuộc đời của Thánh Josaphat dưới dạng hoàn toàn Thiên Chúa giáo hóa thì cóthể xem trang web của Thụy Sĩ. Trang web này đã đưa lên toàn bộ tác phẩm"Huyền thoại Vàng son" của tu sĩ dòng Đô-mi-ních là Jaques deVoragine:

http://www.abbaye-saint-benoit.ch/voragine/tome03/181.htm

Ngoài ra thì bài viếttrước đây của người dịch về câu chuyện Barlaam và Josaphat cũng đã được đưa lênmột số trang web:

/D_1-2_2-44_4-3765_5-50_6-2_17-80_14-2_15-2_10-2_12-1/

http://www.quangduc.com/VuLan/2010/Barlaam_va_Joasaph-_R1_.pdf

SaintGéniès de Magoirès, 24.09.11

Hoang Phongchuyển ngữ

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
20/10/2010(Xem: 4941)
Một thưở đó, mây hỏi cùng cỏ lá gió chướng mùa, đời vắng lạc về đâu bàn tay mỏng, soi mòn tâm mưa nắng thu réo nguồn, lá cỏ có bâng khuâng? lối chiều nghiêng, khép lại bóng ưu phiền sờn tà áo, bụi đời trên vai cỏ có gì đâu, mảnh trăng vô lượng kiếp một giọt trăng, em- hơi thở vô cùng
19/10/2010(Xem: 6041)
Khi xe chúng tôi đến nơi, đồng hồ chỉ đúng 12 giờ khuya. Phòng ốc dành cho 300 giường đã không còn chỗ trống. Ban Tổ Chức đành trưng dụng phòng họp, phòng học - một cho phái nữ, một cho phái nam - với các tấm nệm lót dưới đất cho chúng tôi ngủ tạm. Giải quyết một lúc cho phái đoàn Thụy Sĩ 30 người - chưa kể các nước khác - đâu phải dễ. Vả lại đi chùa thì phải chấp nhận "ăn chay nằm đất". Nằm "đất" còn phải chịu, lựa là nằm "nệm", nên chúng tôi vui vẻ nhận lời, không than van gì cả. Mà than van nỗi gì được khi đã hiểu giáo lý (dù chút chút) của đạo Phật. Mọi sự phải do "duyên" mà có. Và "duyên" này khởi từ "nhân" chiều nay.
19/10/2010(Xem: 4636)
Chúng ta đã tìm Phật và tìm Pháp, nay phải đi tìm Tăng cho đủ Tam Bảo, nói cho đủ là Tăng già, phiên âm chữ Phạn Sangha có nghĩa là một đoàn thể sống chung với nhau ít nhất là bốn người, bỏ nhà đi tu, giữ đủ giới luật của Phật đặt ra, với tôn chỉ tự giác, giác tha, tự lợi, lợi tha, nhằm mục đích giải thoát cho mình và cho tất cả chúng sinh.
19/10/2010(Xem: 4633)
Theo Phật học Từ điển thì danh từ Pháp có rất nhiều nghĩa, mà nghĩa rộng nhất và bao trùm nhất là định nghĩa: "Quỹ sinh vật giải, nhậm trì tự tánh", dịch nghĩa là những hình dáng cấu tạo, giải thích rõ một vật, nắm giữ tự tánh của nó, không cho lầm lẫm với vật khác.
19/10/2010(Xem: 5220)
Nhân mùa Phật Đản kỷ niệm đức Thích Ca giáng trần cứu độ chúng sinh, chúng ta hãy thử đi tìm Phật. Hầu hết mọi Phật tử đều thuộc lòng lịch sử Phật Thích Ca giáng sinh ở vườn Lâm Tỳ Ni, con Vua Tịnh Phạn và Hoàng hậu Ma Gia, trị vì thành Ca Tỳ La Vệ, nước Ấn Độ bấy giờ; ngài lớn lên lấy vợ, rồi xuất gia thành đạo, chuyển Pháp Luân cứu độ chúng sinh, nhập Niết Bàn ở vườn Ta La. Vậy câu hỏi Tìm Phật Ở Đâu thật là dễ, ai cũng trả lời được.
19/10/2010(Xem: 9473)
10 Hiện Tượng Bí Ẩn Trong Lịch Sử Chưa Thể Lý Giải 10 hiện tượng bí ẩn trong lịch sử mà đến nay các nhà khoa học vẫn không giải thích nổi. Nếu tính cả chuyến bay M370 của Malaysia thì đây được coi là hiện tượng thứ 11.
19/10/2010(Xem: 6283)
Y phục được xem là một trong bốn vật dụng thiết yếu đối với tu sĩ Phật giáo. Là vật dụng thiết yếu vì y phục giúp che kín thân thể, giúp cơ thể tránh khỏi sự xâm hại của "nóng, lạnh và ruồi muỗi," chứ không phải vì một mục đích nào khác. Nói cách khác, người xuất gia (cũng như mọi người) không thể không dùng đến y áo, chứ không dùng y áo làm thước đo cho một giá trị nào đó. Điều này hẳn nhiên không hoàn toàn đúng về sau, nhưng ít nhất nó được phản ánh trong giai đoạn đầu tiên.
18/10/2010(Xem: 8148)
Ðạo Phật quan niệm mỗi cấp bực của sự sống đều mang một Thức tương ứng: cấp vi trùng vi khuẩn cũng có Thức của nó, cũng như mỗi tế bào, mỗi mô sinh vật cũng thế...
18/10/2010(Xem: 6989)
Sự tàn phá do ảnh hưởng bởi lòng thù hận dễ nhận thấy, rõ ràng và tức thời, như là một niệm sân hận có mặt, lớn mạnh, tư nhiên chi phối hoàn toàn bạn và phá hũy sự an lạc cónơi bạn.
18/10/2010(Xem: 4973)
Phật pháp dù cao siêu vi diệu nhưng liệu có ích lợi gì cho tuyệt đại đa số người đời vốn bị nhiều ràng buộc và chịu nhiều hệ lụy trong thế gian? Người thực hành theo giáo pháp của Phật có nhất thiết phải ẩn dật, ly gia cát ái? Thực ra, đạo Phật không tách rời thế gian, luôn gắn liền với cuộc đời, quan tâm đến việc xây dựng hạnh phúc cho con người.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567