Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Hạnh Nguyện Đức Bồ Tát Quán Thế Âm

03/10/201008:08(Xem: 6887)
Hạnh Nguyện Đức Bồ Tát Quán Thế Âm

HẠNH NGUYỆN
Đức Bồ Tát QuánThế Âm
Đại-lãn

quantheambotatcuukho-contentHiện tướng bản thể vũtrụ là một trò chơi vừa có tính thực và bất thực, hay vừa có tính hòa âm và bấthòa âm. Nếu người biết được trò chơi này, là người nắm được thực tại trên mườiđầu ngón tay; thì trái lại, kẻ không nắm được thực tại trên mười đầu ngón tay,kẻ đó không biết được hòa âm vũ trụ trong trò chơi này. Nói thế không có nghĩalà bản thể vũ trụ ở trong tình trạng phân sáp làm đôi vàđối lập nhau; nhưng nóchỉ là một. Tuy thế, về mặt tùy thể, chúng ta nhìn bản thể vũ trụ như là mộtphức thể, tùy theo kiến giác của mỗi chúng ta. Vì tùy thể này, nói lên được sựhiện hữu của duyên nghiệp trong mỗi chúng ta đang ở trong tình trạng sinh khởi,nối tiếp và ràng buộc vào nhau, mà hiện ra các khổ tướng báo thân có sai khác.Nhưng về mặt nhất thể , thì hiện tướng chính là bản thể, và bản thể chính làhiện tướng.

Do đó, cuộc đại hòa âm,hay bất đại hòa âm trong vũ trụ, cũng tùy theo đó mà hiện hữu như một thực tạigiữa chúng ta, không thể không chấp nhận. Vì kẻ biết được hay không biết đượctrò chơi cùng đang nằm trong quỹ đạo của ý niệm, nhưng khi ý niệm vừa khởi lên,liền sau đó phát hiện ra âm thanh hoặc tương đồng hoặc tương khắc với với thếgiới âm thanh bên trong hay bên ngoài. Tuy nhiên trong thế giới ngũ trược này,hầu hết chúng sanh đã mang vào trong mỗi tướng thể một khổ quả nào đó, cùng nằmtrong một cộng nghiệp không thể tránh khỏi luật tắc luân hồi, đã mang và sẽ đưachúng sanh vào con đường khổ. Chính vì khổ ngiệp của chúng sanh đang vây khổnmà các đức Phật Thế tôn cùng các vị Bồ tát xuất hiện ra thế gian này, với hạnhnguyện đại từ, đại bi, ban vui cứu khổ cho mọi loài. Cùng ở trong hạnh nguyệnđó, sự xuất hiện của Bồ tát Quán Thế Âm được các kinh công nhận là độc đáo nhấttrong hạnh nguyện của các vị Bồ tát. Ngài đã chứng ngộ bằng âm thanh qua nhĩcăn viên thông, và lấy âm thanh là tiêu đích trong việc cứu khổ cứu nạn cho tấtcả chúng sanh. Với danh hiệu Đại từ đại bi tầm thinh cứu khổ cứu nạn Quán ThếÂm Bồt tát, đã nói lên đầy đủ ý nghĩa hạnh nguyện đó.

Trong nhiều bộ kinh, cónói về đức Quán Thế Âm Bồ tát; nhưng chúng ta không thấy đề cập đến phương phápchứng ngộ của Ngài. Duy bộ kinh Lăng Nghiêm có đề cập đến sự chứng ngộ ấy, kinhLăng Nghiêm trực chỉ ghi rõ rằng: Sau khi đức Thế tôn gạn hỏi chỗ sở chứng của24 Thánh đệ tử xong, đến lượt Bồ tát Quán Thế Âm bày tỏ chỗ sở chứng của mìnhnhư sau: " Quán Thế Âm Bồ tát bạch rằng: Tôi nhớ là: hà sa số kiếp vềtrước, có một vị Phật hiệu là Quán Thế Âm; vị Phật đó dạy tôi muốn vào chánhđịnh thì phải theo nghe-nghĩ-tu. Từ trong nghe, khi trở về tự tánh thì sở duyênbiến mất và con đường vào trở nên vắng lặng (sở không có, năng không có chỗduyên, nên năng vẫn không hiện hữu, ở trong tự tánh vắng lặng). Hai tướng độngvà tịnh không sinh. Từ từ mà tiến lên như vậy, thì nghe và đối tượng bị ngheđều hết. Nghe đã hết không trụ, thì giác và đối tượng của bị giác đều không khikhông giác đã tròn đầy, thì không và đối tượng .không đều diệt. Khi sinh vàdiệt đã mất, thời cảnh tịch diệt hiện ra trước mắt." Thế giới phơi mởtrước chúng ta như là một hiện hữu, vượt khỏi không gian thời gian. Cảnh giớinày không bị ràng buộc bởi xuất thế gian và thế gian, hay các pháp hữu vi và vôvi. Cảnh giới này trên đồng với Như Lai một từ lực, dưới hợp với tất cả chúngsanh trong sáu đường, và đồng với chúng sanh một lòng bi ngưỡng.

Đến đây, chúng ta thấyhạnh nguyện của Quán Thế Âm trong kinh Lăng Nghiêm cùng kinh Pháp Hoa, phẩm PhổMôn, gặp nhau trong lòng bi ngưỡng đối với chúng sanh đại thể. Nhưng về ý nghĩadanh từ có sự khác nhau. Trong kinh Lăng Nghiêm ý nghĩa luôn luôn ở trong chiềuhướng phản phục cái nghe nơi tự tánh. Như vậy, cái nghe ở trong chiều hướngnội. Một khi tâm đã phản phục, thời cảnh sở quán sẽ không còn, nên không có sựđối đãi giữa năng và sở nữa. Lúc đó Như lai tạng tâm sẽ hiển bày ra trước mắt.Lúc đó tâm năng văn và cảnh sở văn sẽ tiêu tan dung hội. Như vậy kinh LăngNghiêm lập cứ trên nhân hạnh mà gọi là Quán Thế Âm. Ngược lại trong kinh PhápHoa, phẩm Phổ Môn lại lập cứ trên quả đức để hiển nghĩa, thì Âm chính là tiêuđích của văn tầm cứu. Dù là tịch thinh hay là động thinh, nghe của Quán Thế ÂmBồ tát cũng thấu suốt tất cả. Âm thinh từ trạng thái tâm lý đến lúc phát rangoài, phải qua một tiến trình chuyển động của cơ thể. Có sự liên hệ giữa một ýniệm khi phát khởi, và các sợi thần kinh liên hệ chuyển động để thoát ra ngoàicửa miệng, lúc đó mới tạo thành âm thanh thật sự. Âm thanh này sẽ dàn trải ravô tận, và sẽ tạo thành âm thanh sống của vũ trụ. Trong những biến động tiếpgiao này, cùng với những âm thanh khác, sẽ tạo ra những điệu hòa âm, hay bấthòa âm, tùy theo lối dung nạp của mỗi âm thanh từng người, từng loại chúngsanh. Ở đây trạng thái tịch thanh không tự hữu, mà chỉ hiện hữu trong mỗingười, mỗi sự vật, chính ngay trong ý niệm, trong mặc thức, không phát ra bênngoài, hay chưa khởi phát ra ngoài, nhưng nó có tác động của tâm thức can thiệpvào. Ở đây, còn gọi là tâm thanh, là tiếng nói của tâm.

Vậy, âm là biểu tượng ýnghĩa cuộc sống, thế giới ngoại tại của chúng sanh trong pháp giới duyên khởinày chính là hiện tướng của nghiệp tướng vô minh con người đang lôi kéo conngười trong bể khổ sanh tử luân hồi. Những khổ đau tai nạn của kiếp người, cùngtiếng kêu gào van xin, cầu cứu của chúng sanh trong bể khổ đã làm cho nguyệnlực độ sanh của Bồ Tát Quán Thế Âm phát sinh. Ngài đã cùng nhĩ căn viên thông,thường xuyên quán sát và nghe tiếng cầu cứu của chúng sanh, tùy theo căn cơ củatừng loại mà Ngài hóa độ, cứu vớt .

Ở đây, về ý nghiã danhxưng, chúng ta thấy sự khác biệt giữa kinh Lăng Nghiêm và kinh Pháp Hoa tronglòng bi nguyện của Ngài. Một đàng hướng nội nghe bản thể tự tánh, tức là NhưLai tạng tâm và đó cũng chính là bản thể của chúng sanh, của vũ trụ mà lập cứ(theo nhân hạnh) để cứu vớt; một đàng hướng ngoại nghe quả khổ của chúng sanh,cùng tiếng cầu cứu mà lập cứ (theo quả đức) để cứu vớt . Nếu căn cứ nơi nhân vàquả để hiểu thì làm sao có sự gặp gỡ hạnh nguyện giữa Kinh Lăng Nghiêm và kinhPháp Hoa trong lòng bi nguyện của Ngài? Đó là câu hỏi cần đặt ra và cần giảiđáp. Sự xuất hiện của Ngài vì lòng bi ngưỡng vô úy, cùng với chúng sanh cùngmột thể tánh. Ngài đã mang danh hiệu Đại Từ Đại Bi tầm thanh cứu khổ cứu nạnQuán Thế Âm Bồ Tát, nói lên lòng bi ngưỡng vô úy đó . Lòng bi ngưỡng vô úy màchúng sanh đã đánh mất, thay vào đó lòng sợ hãi. Chính vì lòng sợ hãi mà conngười luôn ở trong tình trạng lo đối phó, nhưng đối phó với phương pháp chạytrốn thực tại, tìm cách né tránh với tương lai . Mà tương lai là những gì chưaxảy đến với họ hay sẽ không xảy đến. Vì sợ hãi lo âu nên con người tự đánh lừachính mình và dần dần trở thành vong thân. Từ đó thần thánh, ma quỷ, Thượng đếđược xuất hiện bởi con người và do con người đặt ra, con người lấy đó làm nơinương tựa. Cuộc sống của chúng ta đầy dẫy những biểu tượng, biểu tượng của sợhãi, do đó chúng ta đã tự đánh mất bản tính vô úy của ta. Con người không dámnhìn thực tại, không dám nhìn vào chính mình, không dám sống với thực tại, luônluôn sống với tương lai; mà tương lai là những gì ảo tưởng. Con người luôn tìmcách nắm bắt những ảo tưởng đó để rồi thất vọng đau khổ .

Trong truyền thống triếtlý siêu hình Tây phương, vì sự sợ hãi này mà Thượng đế xuất hiện. Thượng đế đãđược lý trí con người đặt ra để tôn thờ謠là nơi tương tựa của những con người yếu bóngvía, đầy lòng sợ hãi với hiện tại, với tương lai. Tự đặt con vào sự cứu rỗi củaThượng đế, tự họ đánh mất bản tánh của họ . Họ làm nô lệ cho một Thượng đế bênngoài, họ đã vong thân và Thượng đế thần thánh đã ngự trị, chi phối cuộc sốnghọ. Kể từ Socrates mãi cho đến Athur Schopenhauer, giai đoạn này Thượng đế đãđược đề cập đến nhiều, nhất là thời kỳ trung cổ, thời kỳ kinh viện, Thượng đếđược coi như là thần linh, ban phước giáng họa và mãi đến Hegel .

Hegel đã quan niệm:Thượng đế là một nhân cách hóa của con người và con người là nhân cách củaThượng đế. Thượng đế chính là ý niệm tuyệt đối . Ông giải thích Thượng đế củaông theo sách Sáng Ký và ba ngôi của Ky Tô giáo bằng biện chứng pháp của ôngtheo ba tiến trình; đề, phản đề, tổng hợp đề . Ông bảo rằng : "ChínhThượng đế đã vong thân, Thượng đế đã đẻ ra hình ảnh Ađam và Eva nơi vườn địađàng, và chính Adam và Eva đã phản lại lời dặn dò của Thượng đế khi nghe lời dụdỗ con rắn (tượng trưng cho ác quỷ sa tăng) mà ăn phải trái cấm thiện ác, để rồitừ đó về sau con người mắc phải tội tổ tông (nguyên tội) và bị đày đọa trongkhổ đau, càng khổ đau con người càng tạo nên tội lỗi. Để chuộc lại tội lỗi này,Thượng đế đã cho Jésus giáng thế, và bị đóng đinh trên cây thập tự giá, để chịutội cho thế gian; khi đó con người trở lại trạng thái ban sơ nơi vườn địa đàng.Để rồi ông kết luận Thượng đế là con người và con người là Thượng đế. Đó làgiai đoạn chung cuộc của lịch sử tương lai .

Từ Hegel đến Schopenhauer,quan niệm Thượng đế thay đổi dần và biến mất từ Schopenhauer . Với quyển"Vũ trụ như là ý lực", ông đã phủ nhận Thượng đế. Ông là người đầutiên mang truyền thống Đạo học Đông Phương thổi vào Âu Châu một luồng sinh khímới mẻ, và mạnh mẽ nhất là Nietzsche với chủ trương "con người siêu nhân"và ông đã nói; "Thượng đế đã chết" (Das Got Isto). Như thế Thượng đếthực sự đã vắng mặt trên thế gian này. Mãi đến Heidegger, danh từ Thượng đếkhông còn được nhắc đến nữa. Nền siêu hình học hiện đại mà người đại diện chonền triết lý Tây Phương là Heidegger đã không nhắc đến một Thượng đế nào, ôngchỉ đề cập đến tính thể của hiện thể tại thế (Dasein) của con người mà thôi .Những vấn đề xa xôi chưa đến trong tương lai, không phải là vấn đề bận tâm củaông. Ông chỉ biết hiện tại, sống với hiện tại, tìm ra những vấn đề liên hệ giữacon người với con người, giữa cuộc sống và con người cùng sự hiện hữu chínhmình. Theo ông đó là những bâng khuâng của con người, cần phải tìm ra sợi dâyliên hệ đó. Có thế con người mới làm chủ được chính mình và làm chủ được cuộcsống; lúc này con người sẽ không còn sợ hãi nữa, họ sống một cách bình thảnchấp nhận tất cả dù là cái chết đi nữa, cũng không sợ sệt, vui cười với cáichết. Họ đã đến gần Đông phương với tinh thần vô úy.Nhưng đó chỉ là một thiểusố có tinh thần thượng thừa, đã nhìn ra được trò chơi của vũ trụ trong suyniệm. Họ đã chấp nhận hiện tại và sống với hiện tại, chơi với hiện tại bằng mộtthái độ lì lợm, kiêu hãnh với chính mình mà không bao giờ sợ hãi .

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
27/07/2011(Xem: 7698)
Tiếp theo hai tập, Nhận thức và Không tánh (2001) và Tánh khởi và Duyên khởi (2003), sách Nhân quả đồng thời lần này thu góp các bài học Phật luận cứu các vấn đề Tồn tại và Thời gian, Ngôn ngữ, Giáo nghĩa, và Giải hành liên quan đến nguyên lý Duyên khởi mà Bồ tát Long Thọ nêu lên trong bài tụng tán khởi của Trung luận, bản tiếng Phạn. Các vấn đề này được tiếp cận từ hai phía, bản thể luận và triết học ngôn ngữ, và được trình bày trong ba Phần: (1) Vô thường, Duyên khởi, và Không tánh, (2) Phân biệt, Ngôn ngữ, và Tu chứng, (3) Tín, Giải, Hành, Chứng trong Hoa nghiêm. Toàn bộ bản văn quyển sách để in PDF (7,1 MB)
27/07/2011(Xem: 6412)
Khuyến Phát Bồ Đề Tâm Văn của Đại Sư Thật Hiền, Thật Hiền tôi là kẻ phàm phu Tăng bất tiếu ngu hèn, khóc ra lệ máu cúi đầu kính lạy, đau buồn khẩn thiết thưa với chư đại chúng hiện tiền, cùng với chư thiện nam tín nữ có đức tin trong sạch trong hiện đời. Cúi mong quý vị thương xót, lưu ý một chút mà nghe và xét cho.
27/07/2011(Xem: 5431)
Hỏi: Tại sao đạo Phật lại đề xướng ăn chay? Đáp:Người ăn chay thì dục niệm nhẹ. Kẻ ăn mặn thì dục niệm nặng nề. Có tôn giáo cho rằng động vật được sanh ra là để cho loài người ăn, cho nên ăn mặn là một việc hợp lý trời đất. Song le, Phật Giáo đề xướng tinh thần "mọi vật đều cùng một thể, đó gọi là Đại Bi," và xem mọi loài chúng sanh đều có Phật-tánh, đều sẽ thành Phật; cho nên chủ trương giới sát, phóng sanh.
27/07/2011(Xem: 5665)
Mỗi người đều có nhân quả báo ứng của riêng mình. Hễ tạo nghiệp gì thì chịu quả báo đó. Không những chỉ có loài người là phải chịu quả báo mà tất cả chúng sanh cũng vậy; tạo nghiệp từ xưa, ngày nay gặt quả. Điều đó không dễ hiểu đâu. Ví như bị đọa làm súc sinh hoặc ở nơi ác đạo thì rất khó khôi phục lại thân người; nên nói rằng:
26/07/2011(Xem: 5430)
Quyển “MỚI VÀO CỔNG CHÙA” ra đời trước, chúng tôi hướng dẫn độc giả vừa mới làm quen với mùi tương dưa, còn ngỡ ngàng khi bước chân vào cổng chùa. Đến quyển “VÀO CỔNG CHÙA”, chúng tôi nhắm đến những độc giả đã quen thuộc với những chiếc mái vốn cong, từng nghe tiếng mộc ngư nhịp đều buổi tối và tiếng chày kình ngân nga buổi khuya. Tuy nhiên vẫn còn là khách thấy nghe thân cận nhà chùa, chưa phải là người sống trong chùa.
24/07/2011(Xem: 6322)
Ngày nay, việc tổ chức đám cưới tại chùa có lẽ không mấy ai còn cho là lạ, nhưng đây là điều đã được mong muốn từ nửa thế kỷ trước, mà Ni trưởng trụ trì chùa Phước Hải hiện nay – ngày đó là sư cô Tịnh Nguyện, là một trong những vị tu sĩ mở đầu cho truyền thống tốt đẹp này. Một số người vẫn hình dung nhà thờ là nơi để tổ chức đám cưới với tiếng đàn Organ sang trọng, âm vang dưới mái vòm trang nghiêm phủ xuống cô dâu chú rể. Còn nhà chùa chỉ là nơi tổ chức đám tang, với những “vãng sanh đường” leo lét ánh nến, nhang khói mờ mờ, âm âm tiếng mõ trầm buồn.
22/07/2011(Xem: 4688)
Bạn bè là sự thể hiện sinh động cho mối quan hệ đặc thù giữa người với người. Mối quan hệ đó được thiết lập căn bản trên sự đồng đẳng hoặc bất đồng đẳng về giới tính, tuổi tác, chí nguyện, đam mê, sở thích,… là tiêu chí quan trọng để khẳng định nhân cách hoặc quan điểm sống của một con người. Với Phật giáo, sống là sống với. Do đó, bạn bè là một thuộc tính riêng có của các loài chúng sanh nói chung và của con người nói riêng, và là một trong những nhân tố quan trọng, có thể ảnh hưởng tích cực hoặc tiêu cực lên bối cảnh sống cũng như khả năng thăng hoa tâm linh của một con người. Sống phải có bạn bè. Không có bạn bè, được xem là một trong năm điều bất hạnh đã được Đức Phật cảnh báo(1).
22/07/2011(Xem: 5287)
Bên cạnh sự ảnh hưởng trực tiếp của gia đình, trong cuộc sống chúng ta, mối tương giao với bạn bè cũng đóng vai trò rất quan trọng cho sự thành bại của mình. Trong mối quen biết ngoài xã hội, hay trong đoàn thể cùng sống chung, ta có nhiều loại bạn hữu; nhưng tìm được người bạn tốt, chân thật hiểu được ta, để có thể chia sẻ tâm tư là điều khó, huống chi là hỗ trợ ta vượt qua những khó khăn trong đời sống thì càng khó gấp bội phần.
22/07/2011(Xem: 4823)
Suốt ngàn năm bị nội thuộc Trung Quốc dân tộc Việt không ngừng nỗi dậy đấu tranh giành lại quyền độc lập, tự chủ. Năm 968 (Mậu Thân) Đinh Bộ Lĩnh dẹp yên nạn cát cứ 12 sứ quân, thống nhất non sông xưng là Đại Thắng Minh hoàng đế. Nhà Đinh đóng đô ở Hoa Lư (Ninh Bình), lập nên triều đại quân chủ đầu tiên của nước Đại Việt.
22/07/2011(Xem: 5124)
Có những biện giải Phật học mà đôi khi ý nghĩa thực tiển vượt thoát khỏi cái võ ngôn từ. Đó là khi hiện thực nương gá vào sự biện giải đó bị biến dạng theo lịch sử, thời gian. Gần gũi hơn, có những phạm trù, khái niệm mà khi vận dụng, ta vô tình quên mất nghĩa gốc ban đầu của chúng. Vấn dề Phật sự là một trường hợp như vậy.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567