Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Phật Giáo tại Nam Triều Tiên

26/06/201317:54(Xem: 4397)
Phật Giáo tại Nam Triều Tiên
Haeinsa-03


Phật Giáo tại Nam Triều Tiên
Thích Nguyên Tạng
Melbourne, Úc Châu 2001


---o0o---

Nam Triều Tiên (South Korea, Nam Hàn) là một quốc gia nằm ở đông bắc châu Á. Diện tích: 99.484 Km2 , dân số: 45.182.000 người. Hàn quốc từng trải qua những chế độ độc tài với những cuộc bạo động xã hội và đàn áp mạnh mẽ. Nhưng tiến trình dân chủ hóa đã được thiết lập vào năm 1988. Hiện tại Nam Triều Tiên (NTT) đã trở thành "một nước công nghiệp hóa mới" (còn được gọi là một trong bốn con rồng châu Á) cùng với Đài loan, Hong Kong và Singapore. Phật giáo là một trong ba tôn giáo chính ở Hàn quốc (Khổng giáo và Ki Tô giáo).

Phật giáo được truyền vào TT vào thế kỷ thứ 4 Tây lịch. Vào thời điểm này, bán đảo Triều Tiên được chia thành ba nước nhỏ là Cao Ly (Koguryo), Bách Tế (Paekje) và Tần La (Shilla). Phật giáo được giới thiệu lần đầu tiên ở phía bắc nước Cao Ly (nay là Bắc Triều Tiên), và dần dần lan đến Bách Tế, miền Tây nam và cuối cùng được truyền đến nước Tần La, thuộc miền đông nam vào thế kỷ thứ 5.

* Phật giáo Triều Tiên trong thời Tam Quốc:

Nước Cao Ly ( Koguryo): Vào năm 372 Tây lịch, một tăng sĩ được thỉnh cầu từ Trung Hoa đến nước Cao Ly. Ngài đã mang theo số Kinh và một vài tượng Phật. Phật giáo đã được vua chúa và dân chúng tiếp nhận rất nhanh.

Nước Bách Tế (Paekje):

Phật giáo được truyền vào nước Bách Tế từ Cao Ly vào năm 384 vào, tại đây vua chúa và quần thần cũng rất mộ đạo. Vua Asin (392-450), đã khuyên bảo quần thần và nhân dân rằng: "Nên tin tưởng vào Pháp Phật để mưu tìm hạnh phúc". Trong triều đại của vua Song ( 523-554), có một tăng sĩ tên là Kyomik, trở về từ Ấn Độ với nhiều bản kinh mới . Ngài được xem là vị Tổ khai sơn của một trong những tông phái phật giáo chính tại Triều Tiên. Đầu năm 530, một số tăng sĩ Triều Tiên đã lên đường đi truyền bá Phật Pháp tại Nhật Bản. Trong chuyến đi này có một vài kiến trúc sư và họa sĩ tháp tùng. Nhờ những người này mà những ngôi chùa ở Nhật bản được xây dựng lên không lâu sau khi họ đặt chân đến Nhật .

Nước Tần La (Shilla):

Đối với nước Shilla thì Phật pháp phát triển một cách chậm chạp cho đến thời kỳ vua Pháp Hưng (Pophung, 514-540) thì Phật giáo mới được thừa nhận là quốc giáo ( national religion) của Shilla. Vua Chân Hưng (Chihung, 540-575) đặc biệt khuyến khích phát triển Đạo Phật. Trong thời gian trị vì, ông đã cho thành lập Trường Phật Giáo Hwarangdo, tuyển chọn những người trẻ tuổi rồi đào tạo theo nguyên tắc của Phật giáo để ra phục vụ cho nước nhà. Trong thời đại của Shilla, những tác phẩm nghệ thuật Phật giáo có giá trị đã bắt đầu xuất hiện, chẳng hạn như tượng đá Phật Thích Ca ở Kyongju và chùa Hwangnyong đã được xây dựng trong thời kỳ này.

  • Phật giáo Hàn quốc từ thời thống nhất của Tần La đến ngày nay:

- Triều đại Tần La ( 668-935):

Năm 668, Triều đại Tần La đã có công thống nhất đất nước, và PG nhờ vậy mà cũng được thống nhất. Trong suốt triều đại Shilla PG đã tiếp tục phát triển cả về mặt học thuật lẫn văn hóa. Trong thời đại này, nhiều tác phẩm nghệ thuật PG đã xuất hiện, nhiều chùa, tháp, tượng Phật có tính lịch sử cũng đã được tạo dựng. Kinh Hoa Nghiêm ( Avatamsaka Sutra) và Kinh Pháp Hoa ( Saddharmapundarika Sutra) đã bắt đầu được nghiên cứu, trong khi Đức Phật Di Đà (the Buddha of Light) và Bồ Tát Quán Âm (the Bodhisattva of Compassion) được thờ phượng khắp nơi. Đến cuối triều đại Tần La Thiền Tông đã được giới thiệu từ Trung Hoa, và chính trường phái này đã giúp cho PGTT lật qua một trang sử mới.

- Triều đại Cao Ly ( 935-1392):

Sau khi triều đại Tần La suy tàn, nhà Cao Ly tiếp nối vào thế kỷ thứ mười. PG tiếp tục là quốc giáo, nhiều vị vua đã phát tâm xây dựng chùa tháp và ủng hộ nhiều mặt cho Chánh Pháp. Tuy nhiên vào thời điểm này có quá nhiều sự tập trung vào lễ nghi và điều này đã tạo ra một tình cảnh không thích hợp cho việc phát triển tâm linh. Trong nỗ lực gạn lọc và tái tạo lãnh vực tu tập tâm linh, nhiều tăng sĩ đã chống lại khuynh hướng lễ nghi này. Một trong ba thiền sư là ngài Nghĩa Định (Ui- chon, 1055-1101), con trai của vua Minh Tôn (Munjong, 1047-1083), người đã mang về cho Triều Tiên 4000 Kinh sách các loại khi ngài còn du học ở Trung Hoa, từ những bộ kinh này mà bộ Đại Tạng Kinh Triều Tiên (Tripitaka Koreana) đã được thành lập vào thế kỷ thứ 11, đây là một trong những thành công rực rỡ của PG dưới triều đại của Koryo. Thiền sư Nghĩa Định cũng được xem là người có công mang hạt giống thiền của tông Thiên Thai về cho TT và thiền phái này đã tạo ra một không khí mới cho PG Triều Tiên thời bấy giờ.

Tiếp đó, thiền sư Tri Nột (Chi-nul, 1158 - 1210), đã trở thành người lãnh đạo cho PG TT. Ngài đã khai sơn chùa Songgwang trên núi Tào Khê (Chogye), đây là một ngôi tổ đình của tông phái thiền hơn 300 năm. Chín tông phái thiền đã được thiền sư Thái Cổ (Tae-go, 1301 - 1382) thống nhất với tên gọi là thiền phái Tào Khê (Chogye), một tông phái chính của PG TT vẫn còn duy trì cho tới ngày hôm nay.

PG vẫn duy trì và ảnh hưởng mạnh mẽ trong giới trí thức vào cuối triều đại Cao Ly. Khổng giáo được truyền đến bán đảo Triều Tiên cùng thời với PG nhưng không đạt được kết quả như vậy.

- Triều đại Triều Tiên (Choson , 1392-1910):

Với sự suy sụp của triều đại Cao Ly vào năm 1392, PG cũng theo đó mà đi xuống khi những vị vua của tân triều đại Triều Tiên theo Khổng giáo. Trong thời kỳ này nhiều tăng sĩ PG đã tham gia vào chính sự. Các vua của triều đại này từng có những chiến lược đàn áp PG một cách thẳng tay. Chùa chiền không được xây dựng gần thành phố mà phải xây ở tận nơi rừng sâu núi thẳm, nhiều ngôi chùa đã bị phá hủy, tăng sĩ bị coi rẽ và không được phép đặt chân đến thành phố. Tuy nhiên cũng có một vài vị vua trong triều đại này đã bảo hộ PG và một điều quan trọng là dân chúng vẫn giữ niềm tin đối với Chánh Pháp.

Đến cuối thế kỷ 16, trong khoảng thời gian Nhật Bản xâm lược Triều Tiên, PG đã trở lại cứu hộ cho đất nước. Ở tuổi 72, thiền sư Tây Sơn (So- san 1520 -1604) và người đệ tử là Tứ Minh Đường (Sa-myong 1544-1610) cùng với 5000 tăng binh ( Buddhist monk soldiers) đã đổ ra chiến trường. Theo sau cuộc chiến bại của Nhật Bản, thiền sư Tứ Minh Đường đã dẫn đầu một phái đoàn tới Nhật Bản vào năm 1604 và ngài đã hoàn tất sứ mạng của mình với một bản hiệp ước hòa bình giữa Nhật và Triều Tiên.

- Từ 1910 - đến nay:

Vào năm 1910 triều đại Triều Tiên đã tàn lụi với sự thôn tính của đế quốc Nhật Bản. Trong thời kỳ thuộc địa, PG đã được thừa nhận và ủng hộ bởi chính quyền Nhật Bản. Tuy nhiên, các tông phái PG bản xứ không được phát triển và tăng sĩ được khuyến khích lấy vợ. Vị trù trì của mỗi chùa phải được bổ nhiệm từ chính quyền. Trong thời kỳ này, nhiều tác phẩm nghệ thuật PG đã bị mang về Nhật Bản. Gần đây, chính quyền TT đã có những cuộc thương thuyết với phía Nhật Bản để đòi lại những bảo vật của Phật Giáo.

Sau cuộc cách mạng 1945, tăng sĩ thanh tịnh của thiền phái Tào Khê đã thay thế cho những tăng sĩ có gia đình để trù trì những ngôi chùa từng bị Nhật Bản chiếm đóng. Trong bốn thập niên qua, nhiều chùa chiền đã được xây dựng trở lại trong thành phố. Có rất nhiều chương trình tu học cho mọi giới trong xã hội. Một nửa dân số TT là Phật Tử. Một số lượng lớn nam nữ Phật Tử TT đã xuất gia và PGTT đã được phục hưng rất nhanh.

- Về các Tông Phái Phật giáo tại Triều Tiên:

Hiện tại ở TT có tất cả là 18 tông phái PG khác nhau xuất phát từ bốn tông phái chính là Thiền tông, Mật tông, Pháp Hoa tông và Hoa Nghiêm tông. Tất cả đều theo truyền thống Phật giáo Mahayana và phần lớn được thành lập vào sau năm 1945.

Trong 18 tông phái trên, nổi bật và có tầm ảnh hưởng sâu rộng nhất là Thiền phái Tào Khê (Tào Khê là một tên gọi khác của Lục tổ Huệ Năng, 638-713) được thiền sư Thái Cổ (1301 - 1382), một tăng sĩ Hàn Quốc nổi tiếng trở về từ Trung Hoa vào năm 1346 và lập nên thiền phái này. Ngài cho rằng thiền là một pháp tu tốt nhất để đạt tới giác ngộ. Những bộ kinh căn bản của thiền phái này là Kinh Bát Nhã, Kinh Kim Cang, Kinh Pháp Bảo Đàn, Kinh Hoa NghiêmẨ có khoảng 1632 ngôi chùa là chi nhánhở khắp trong và ngoài Triều Tiên, và có khoảng 18.000 tăng ni và khoảng 6.000.000 tín đồ qui y theo phái này.

Image26

Một lễ thọ giới của của chư Tăng Triều Tiên

Về mặt giáo dục, hầu hết các ngôi chùa hiện nay đều có xây dựng nhà trẻ và trường tiểu học. Đây là một truyền thống đẹp, bởi vì xưa nay các tăng sĩ Triều Tiên đều đóng vai trò quan trọng trong lãnh vực giáo dục phổ cập. Hiện tại PGTT, có nhiều trường sơ, trung đẳng Phật học và một trường Đại Học PG ở Dong-Guk, trường này có chi nhánh ở Seoul và Kyongju, chỉ đặt biệt dành cho tăng ni học mà thôi.

Về Bộ Đại Tạng Kinh Triều Tiên khắc trên gỗ:

Như đã nói ở trên bộ Đại Tạng Kinh Triều Tiên (ĐTKTT) đã được chuyển ngữ, rồi khắc trên bản gỗ và được bảo trì trong Tàng Kinh Cát tại chùa Kang-Wha vào thế kỷ thứ 11, (chùa này được xây dựng vào năm 1488).

Vào 1817 tàng Kinh cát này còn gọi là Bát Vạn Đại Tạng Kinh đã may mắn thoát khỏi cơn hỏa hoạn . Nhưng rủi thay, số phận của bộ ĐTK này đã bị thiêu rụi bởi ngọn lửa xâm lăng của Mông Cổ. Đến thế kỷ 13 bộ ĐTK mới được khắc trở lại theo chiếu chỉ của vua Kojong ( 1213-1259) và được bảo trì tại chùa Hải Ấn (Haein-sa) thuộctỉnh Nam Gyeongsangcho đến ngày nay.

Bộ Đại Tạng Kinh Triều Tiên khắc trên gỗ tại thư viện Chùa Hải Ấn (Haeinsa)

Một vài ghi nhận về quá trình chạm khắc bộ Đại tạng Kinh bằng gỗ này:

Chọn loại gỗ bu-lô trắng rồi đem ngâm dưới nước biển ba năm, sau đó vớt lên phơi khô ba năm, rồi mới sử dụng để khắc chữ. Người ta ghi nhận rằng công trình vĩ đại này chỉ do một nam Phật tử thực hiện ròng rã trong 16 năm để hoàn thành 52.382.960 chữ, gồm 6791 quyển. Vào năm 1995, Tổ chức giáo dục, khoa học và văn hoá (UNESCO) đã công nhận Tàng Kinh Các này là di sản văn hoá thế giới.

Image27

Thư viện cất giữ bộ Đại Tạng Kinh Triều Tiên
khắc trên gỗ tại thư viện Chùa Hải Ấn

Haeinsa-06

Thư viện cất giữ bộ Đại Tạng Kinh Triều Tiên
khắc trên gỗ tại thư viện Chùa Hải Ấn

Haeinsa-08

Thư viện cất giữ bộ Đại Tạng Kinh Triều Tiên
khắc trên gỗ tại thư viện Chùa Hải Ấn

Haeinsa-01

Thư viện cất giữ bộ Đại Tạng Kinh Triều Tiên
khắc trên gỗ tại thư viện Chùa Hải Ấn

Haeinsa_Tripitaka_Koreana_woodblock_2770-06a

Một bản Kinh Triều Tiên
khắc trên gỗ tại thư viện Chùa Hải Ấn

Haeinsa-09

Toàn cảnh Chùa Hải Ấn

Haeinsa-04

Toàn cảnh Chùa Hải Ấn

Haeinsa-02

Toàn cảnh Chùa Hải Ấn

Haeinsa-05

Toàn cảnh Chùa Hải Ấn

Lời kết:

Nhìn chung từ sau ngày Triều Tiên giành lại nền độc lập, Phật giáo đã đối phó với nhiều thách thức của thế giới hiện đại. Từng bị lãng quên một thời gian dài nơi rừng sâu, nay đã trở lại sinh hoạt nơi thị thành. Thiền phái Tào Khê đã đóng một vai trò trung tâm trong quá trình hoằng dương Chánh Pháp trong suốt chiều dài lịch sử của xứ sở này.

Ngày nay có rất đông giới trẻ Triều Tiên đã chú ý và tham gia vào các sinh hoạt Phật Pháp như ghi danh theo học các khóa giáo lý, khóa tu thiền ngắn hạn, công tác từ thiện xã hội... Những phát triển của Ni giới gần đây cũng đáng chú ý, người ta tin tưởng rằng Phật giáo Triều Tiên đang trên đà phát triển mạnh và đầy lạc quan ở tương lai.

(Tổng hợp từ tài liệu: Korean Buddhism Magazine ( Seoul/1997)

Tài liệu này do phái đoàn Phật Giáo Triều Tiên trao tặng nhân dịp các vị đến Úc tham dự Đại Hội Liên Hữu Phật Giáo Thế Giới lần thứ 20 được tổ chức tại Sydney, Úc Châu, 1998)

Tu Viện Quảng Đức
sẽ tổ chức hành hương viếng thăm Chùa Hải Ấn
(ở miền Đông Nam Triều Tiên, một ngôi chùa có trên 1000 năm tuổi, nơi còn lưu trữ Bộ Cao Ly Đại Tạng Kinh, bản kinh duy nhất trên thế giới khắc trên gỗ)vào tháng 4 năm 2011, lịch trình hành hương sẽ phổ biến sau.

Haeinsa-03

Haeinsa Temple in Korea

Haeinsa(Temple of Reflection on a Smooth Sea) is a head temple of the JogyeOrderof Korean Buddhismin the GayaMountains, South GyeongsangProvince South Korea. Haeinsa is most notable for being the home of the TripitakaKoreana, the whole of the Buddhist Scriptures carved onto 81,258 wooden printing blocks, which it has housed since 1398.[1]

Haeinsa is one of the Three Jewel Temples of Korea, and represents Dharma or the Buddha’s teachings. It is still an active Seonpractice center in modern times, and was the home temple of the influential Rev. Seongcheol, who died in 1993.

History

The temple was first built in 802. Legend says that two Korean monks returned from China, Suneung and Ijeong, and healed King Aejangwife's of her illness. In gratitude of the Buddha's mercy, the king ordered the construction of the temple.[1]Another account, by Choe Chi-Won in 900 states that Suneung and his disciple Ijeong, gained the support of a queen dowager who converted to Buddhism and then helped to finance the construction of the temple.

The temple complex was renovated in the 900s, 1488, 1622, and 1644. Hirang, the temple abbot enjoyed the patronage of Taejoof Goryeoduring that king’s reign. Haiensa was burned down in a fire in 1817 and the main hall was rebuilt in 1818.[1]Another renovation in 1964 uncovered a royal robe of King Gwanghaegun, who was responsible for the 1622 renovation, and an inscription on a ridge beam.

The main hall, Daejeokkwangjeon (Hall of Great Silence and Light), is unusual because it is dedicated to Vairocanawhere most other Korean temples house Seokgamoni in their main halls.

The Temple of Haeinsa and the Depositories for the "Tripitaka Koreana" Woodblocks, were added to the UNESCOWorld Heritage Listin 1995. The UNESCO committee noted that the buildings housing the Tripitaka Koreana are unique because no other historical structure was specifically dedicated to the preservation of artifacts and the techniques used were particularly ingenious.[2]

The temple also holds several official treasures including a realistic wooden carving of a monk and interesting Buddhist paintings, stone pagodas, and lanterns.

Janggyeong Panjeon (National Treasure No.52)

Haeinsa-Tripitaka_Koreana-01
Tripitaka Koreana woodblocks at Haeinsa Temple

The storage halls known as the Janggyeong Panjeon complex are the depository for the TripitakaKoreanawoodblocks at Haeinsa and were also designated by the Korean government as a national treasure of Koreaon December 20, 1962. They are some of the largest wooden storage facilities in the world.[3]. Remarkably, the halls were untouched during the Japanese invasion of Koreaand were spared from the 1818 fire that burned most of the temple complex down. All told, the storage halls have survived seven serious fires and one near-bombing during the Korean Warwhen a pilot disobeyed orders because he remembered that the temple held priceless treasures.

Janggyeong Panjeon complex is the oldest part of the temple and houses the 81,258 wooden printing blocks from the Tripitaka Koreana. Although the exact construction date of the hall that houses the Tripitaka Koreana is uncertain, it is believed that King Sejoexpanded and renovated it in 1457. The complex is made up of four halls arranged in a rectangle and the style is very plain because of its use as a storage facility. The northern hall is called Beopbojeon (Hall of Dharma) and the southern hall is called Sudarajang (Hall of Sutras). These two main halls are 60.44 meters in length, 8.73 meters in width, and 7.8 meters in height. Both have fifteen rooms with two adjoining rooms. Additionally, there are two small halls on the east and west which house two small libraries.

Haeinsa_Tripitaka_Koreana_woodblock_2770-06a
Copy of a Tripitaka Koreana woodblock used to allow visitors to make an inked print of the woodblock on the Haeinsa complex grounds. See: for image of woodblock print..

Several ingenious preservation techniques are utilized to preserve the wooden printing blocks. The architects also utilized nature to help preserve the Tripitaka. The storage complex was built at the highest point of the temple and is 655 meters above sea level. Janggyeong Panjeon faces southwest to avoid damp southeasterly winds from the valley below and is blocked from the cold north wind by mountain peaks. Different sized windows on the north and south sides of both main halls are used for ventilation, utilizing principles of hydrodynamics. The windows were installed in every hall to maximize ventilation and regulate temperature. The clay floors were filled with charcoal, calcium oxide, salt, lime, and sand, which reduce humidity when it rains by absorbing excess moisture which is then retained during the dry winter months. The roof is also made with clay and the bracketing and wood rafters prevent sudden changes in temperature. Additionally, no part of the complex is exposed to sun. Apparently, animals, insects, and birds avoid the complex but the reason for this is unknown. These sophisticated preservation measures are widely credited as the reason the woodblocks have survived in such fantastic condition to this day.

In 1970, a modern storage complex was built utilizing modern preservation techniques but when test woodblocks were found to have mildewed, the intended move was canceled and the woodblocks remained at Haeinsa.

http://en.wikipedia.org/wiki/Haeinsa

---o0o---


Kỹ thuật vi tính:Hải Hạnh, Ðàm Thanh,

Diệu Nga, Tâm Chánh, Nguyên Tâm
Trình bày: Nhị Tường

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
04/03/2020(Xem: 38325)
Lễ Dâng Y Kathina & Cúng Dường Phẩm Vật chư Tăng tại Bồ Đề Đạo Tràng India, Nhân Lễ tưởng niệm ngày đức Phật (thái tử Siddartha Gautam) xuất gia, được sự trợ duyên của chư Phật tử và quí thiện hữu hảo tâm, chúng tôi đã thực hiện một buổi Dâng Y Kathina và cúng dường phẩm vật đến chư Tăng thuộc 3 truyền thống Mật tông Kim cương thừa (金剛乘, vajrayāna), truyền thống chư Tăng Nguyên Thủy các nước Theravada và chư Tăng Ni truyền thống Đại Thừa (Mahayana) tại Bồ Đề Đạo Tràng.
11/01/2020(Xem: 4745)
THỜI GIAN HÀNH HƯƠNG: 15 ngày Từ ngày 02- Oct-2020 đến ngày 17- Oct-2020 GHI DANH: 15 Jan 2020 Hạn chót là ngày 15-June- 2020 NGƯỜI HƯỚNG DẪN : Tỳ Khưu Thích Tánh Tuệ (Chùa Vạn Phước- Sandiego) & Chư Tôn Đức Tăng Ni - Có chương trình thuyết giảng và hành lễ riêng. PHƯƠNG TIỆN DI CHUYỂN TRONG ẤN ĐỘ Máy bay, xe Bus có máy lạnh, xe du lịch 50 chỗ ngồi, có máy điều hoà, tiện nghi, sạch sẽ Những nơi chiêm bái chính: TỨ ĐỘNG TÂM 1 Lâm tì ni (Lumbini, Nepal): nơi Đức Phật đản sinh. 2. Bồ đề đạo tràng (Bodh Gaya): nơi Đức Phật thành đạo. 3. Lộc uyển (Sarnath): nơi Đức Phật chuyển pháp luân (giảng bài pháp đầu tiên). 4. Câu thi na (Kushinagar, Kusinara): nơi Đức Phật nhập diệt.
21/12/2019(Xem: 3507)
Hiệp hội Khảo cổ học Ấn Độ (ASI) tại thành phố Varanasi vừa đệ trình hồ sơ lên tổ chức Văn hóa Khoa học và Giáo Dục của Liên hiệp quốc (UNESCO) xin được công nhận thánh địa Sarnath là di sản văn hóa thế giới. Đề xuất này được Bô Văn Hóa Ấn Độ chấp thuận và đang chờ UNESCO công nhận. Nếu được chấp nhận, Sarnath sẽ trở thành di sản thế giới thứ tư của UNESCO ở bang Uttar Pradesh và là di sản thứ 39 của Ấn Độ.
10/11/2019(Xem: 5165)
Vượt đường xa, ta quyết đi cho đến cùng… Giống như ao ước lẫn thao thức của người mong được trở về Quê mẹ, cuộc hành hương tâm linh về xứ Phật nhiệm mầu vẫn luôn luôn ẩn hiện trong tiềm thức của những người đang lãnh công việc phát huy và thực thi tinh thần của giáo pháp Như Lai, nói chung là những người con Phật.
23/10/2019(Xem: 5401)
Nam Mô A Di Đà Phật, Kính bạch Chư Tôn Thiền Đức Tăng Ni, Kính thưa quý Đồng Hương Phật tử gần xa, Sau khi ra thông báo về tour Cruise 2020, du ngoạn trên du thuyền kết hợp với chương trình tu học và Pháp Hội Cầu Siêu Thủy Lục, khởi hành từ Hải Cảng Sydney ngày 29/11 và về lại Sydney ngày 11/12/2020. Đã có khoảng 300 Phật tử ghi danh và đóng tiền deposit $200 để giữ chỗ, nhưng mới đây Hãng Tàu Royal Caribbean (Hoa Kỳ) đã tự động tăng giá tiền từ $1,500 lên đến $2,100 cho một phòng 4 người, và nhất là họ thay đổi ý kiến, không cho phép Ban Tổ Chức thiết trí trang hoàng bàn thờ Phật để tiến hành nghi cúng “Pháp Hội Thủy Lục” trên boong Tàu, đây là mục đích chính của chuyến đi, nhiều Phật tử phản đối cho sự thay đổi này. Nên Ban Tổ Chức thành tâm cáo lỗi đại chúng và xin hủy bỏ chuyến cruise này. Xin quý vị hoan hỷ liên lạc tại nơi mình ghi danh để nhận lại tiền deposit: Tại Sydney: Tony Thạch: Mobile 0411 863 809 Tại Melbourne: Ms. Hồng Hạnh: Mobile 0402 741 639 Tại Ad
18/10/2019(Xem: 3513)
Hành hương xứ Phật, chùa tháp và các quốc gia Phật giáo là ước mơ của nhiều người con Phật. Dưới sự hướng dẫn của Ni sư trưởng đoàn TN Giới Hương, ngày 02/09 đến 06/10/2019,quý Phật tử chùa Hương Sen đã thực hiện được chuyến đi hành hương 5 quốc gia hiếm có này.
26/09/2019(Xem: 20581)
Ẩn mình trong dãy Hy Mã Lạp Sơn hùng vĩ là xứ sở Bhutan, một quốc gia nhỏ bé nằm phía sau dãy Hy Mã Lạp Sơn, giống như Tây Tạng, một địa chỉ tâm linh huyền bí và khép kín với thế giới bên ngoài. Đặc biệt đây là một đất nước lấy chỉ số thu nhập GDP không phải là tiền bạc mà là hạnh phúc của con người. Tu Viện Quảng Đức sẽ tổ chức chuyến hành hương thăm viếng Bhutan và Tích Lan từ ngày 26/9 đến 12/10/2019, lệ phí trọn gói: $6,500, số khách giới hạn, xin quý Phật tử hoan hỷ đăng ký sớm. Hạn chót đăng ký và đóng tiền đầy đủ: 25/7/2019. Chuyến đi do Thượng Tọa Trụ Trì Thích Nguyên Tạng làm trưởng đoàn cùng với Đạo Hữu Tony Thạch (giám đốc công ty Triumph Tour) làm trợ lý cho Thầy để lo các công việc cần thiết. Xin quý Phật tử xa gần liên lạc về Tu Viện Quảng Đức (03.9357 3544 hoặc email:quangduc@quangduc.com) để ghi danh tham dự chuyến hành hương chiêm bái này. Chi tiết, xin quý Phật tử thường xuyên vào xem tại trang nhà: www.quangduc.com
04/07/2019(Xem: 3086)
Hôm nay "tour guide" đưa phái đoàn hành hương chúng tôi đến tham quan trường đại học Nalanda. Khi tới trước cổng trường, chúng tôi xuống xe đi bộ một khoảng khá xa. Trước mặt, sau lưng chúng tôi còn có nhiều đoàn hành hương khác cùng đến thăm thánh tích Nalanda. Nhìn cách ăn mặc của họ chúng tôi có thể đoán họ đến từ những xứ khác như Thái Lan, Phi Luật Tân, Đại Hàn... Có những người da trắng và cả những người Ấn Độ nữa... Chúng tôi im lặng đi qua khỏi một sân cỏ rộng lớn mới vào tới bên trong những đền tháp đã bị sập đổ chỉ còn những chân tường màu nâu củ kỹ.
11/06/2019(Xem: 4149)
Tour 1: Đại Phật Lạc Sơn, Nga Mi Sơn, Tây Tạng, Phổ Đà Sơn (dịp Trung Thu) 12 Ngày / 10 Đêm , giá $2980 USD, ngày 02-14/09/2019 Tour 2: Phổ Đà Sơn (dịp Trung Thu), Hành Hương Đất Phật, Ấn Độ 15 Ngày / 13 Đêm, giá $2980 USD, ngày 11-25/09/2019 Tour 3: Đại Hàn – Taiwan 12 Ngày / 10 Đêm, giá $2980, ngày 26/09-07/10/2019
06/05/2019(Xem: 4572)
Bỏ lại sau lưng những cung bậc thị phi đời thường, lang thang vân du tìm đến những thắng tích đã phế bỏ từ lâu qua bao nhiêu cuộc thăng trầm nhung nhớ. Tôi cùng phái đoàn Phật tử thuộc Đạo Tràng Liên Tịnh Nguyện, tìm về quê hương Tuyên Quang, nằm ở phía Tây Bắc, tham quan một số điển tại Thủy Điện Na Hang, trong đó ta tìm về chiêm ngưỡng vẻ đẹp đất trời.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567