Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Sức mạnh của Tăng Già hay những Nguyên Tắc Nhiếp Chúng

26/09/201002:38(Xem: 4878)
Sức mạnh của Tăng Già hay những Nguyên Tắc Nhiếp Chúng
buddhist-monk
Sức Mạnh của Tăng Già hay Những Nguyên Tắc Nhiếp Chúng


Bài Tham Luận – Khóa An Cư Giáo Hội – Phật Lịch 2551
tại Phật Học Viện Quốc Tế, Los Angeles, California

Tinh thần hòa hiệp đoàn kết là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, là tinh thần của một hội chúng biết tôn trọng ý niệm tự tồn và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.

Một con người đơn thuần, khó có thể hoàn thành một sự việc đáng kể dù rằng sự việc ấy cho chính bản thân mình, mà tất cả mọi sự thành công chúng ta đều phải hiểu rằng, trong đó có ý niệm của tập thể tham dự. Do động cơ con người thúc đẩy và cảm tính đối với tha nhân mà con người đã tiến lên sự xây dựng tốt đẹp cho chính mình. Một cuộc sống hòa bình, không tranh cãi với nhau là đời sống hoan hỷ, hòa tan giữa mình và người, như sữa hòa tan trong nước, không còn thấy có tự ngã, ngã sở. Một đời sống có cái nhìn bằng cặp mắt thiện cảm, bằng lời nói hòa nhã, bằng cử chỉ đáng yêu và tôn trọng trong tinh thần vị tha là sức mạnh của hội chúng. Sự sinh hoạt hòa hợp đoàn kết là sự từ bỏ tâm của ta và hãy sống thuận theo tâm của những Tôn giả ấy, là tinh thần cho người, và vì người. Nhưng, khi mình phục vụ cho người thì lại được người khác đối xử tốt đẹp với mình, đây chính là sợi dây liên kết sự tương quan và tinh thần tập thể của hội chúng giữa người với người.

Trong Tiểu Kinh Rừng Sừng Bò Đức Phật đã hỏi các Tôn giả Anuruddha như thế nào là một đời sống không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần, các Tôn giả đã trả lời:

“Ở đây, Bạch Thế Tôn, chúng con, ai vào làng khất thực về trước, thì người ấy sắp đặt các chỗ ngồi, soạn sẵn nước uống, nước rửa chân, soạn sẵn một bát để bỏ đồ dư. Ai đi làng khất thực về sau, thì người ấy, còn đồ ăn thừa nếu muốn ăn thì ăn, nếu không muốn thì bỏ vào chỗ không có cỏ xanh hay đổ vào chỗ nước không có côn trùng và người ấy xếp dọn lại các chỗ ngồi, cất đi nước uống, nước rửa chân, cất đi cái bát để bỏ đồ dư và quét sạch nhà ăn. Ai thấy ghè nước uống, ghè nước rửa chân, hay ghè nước trong nhà cầu hết nước, trống không thì người ấy lo liệu nước. Nếu ai làm không nổi với sức mình, thì người ấy dùng tay ra hiệu gọi người thứ hai: “Chúng ta cùng lo liệu nước.” Dầu vậy, Bạch Thế Tôn, chúng con không vì vậy mà gây ra tiếng động và đến ngày thứ năm, Bạch Thế Tôn, suốt cả đêm chúng con đàm luận về đạo pháp. Như vậy, Bạch Thế Tôn, chúng con không sống phóng dật, chúng con nhiệt tâm, tinh cần.”

Qua nếp sống đạo hạnh do tình đoàn kết hòa hiệp tạo nên sức mạnh tập thể và hạnh phúc chung, Đức Phật đã dạy Tăng chúng các chủ đề sau:

A. Bảy Pháp Không Bị Suy Giảm của Một Chúng Tỳ Kheo:

Có lần, Đức Phật ở tại Vương Xá, núi Linh Thứu, Ngài đã bảo các Tỳ Kheo hãy lắng nghe và suy nghĩ kỹ, Ngài sẽ dạy bảy điều kiện của một chúng Tỳ Kheo được hưng thịnh. Bảy điều kiện đó là:

1. Khi nào chúng Tỳ Kheo thường hay tụ họp và tụ họp đông đảo với nhau, thời này các Tỳ Kheo, chúng Tỳ Kheo sẽ được lớn mạnh, không bị suy giảm.

2. Khi nào chúng Tỳ Kheo tụ họp trong niệm đoàn kết, giải tán trong niệm đoàn kết và làm việc tăng sự trong niệm đoàn kết, sẽ được lớn mạnh, không bị suy giảm.

3. Khi nào chúng Tỳ Kheo không ban hành những luật lệ không được ban hành, không hủy bỏ những luật lệ đã được ban hành. Sống đúng với những giới đã được ban hành, sẽ được lớn mạnh, không bị suy giảm.

4. Khi nào chúng Tỳ Kheo tôn sùng, kính trọng, đảnh lễ, cúng dường các bậc Tỳ Kheo trưởng lão. Những vị này là những vị giàu kinh nghiệm, niên cao lạp trưởng, bậc cha của chúng Tăng và nghe theo những lời dạy của những vị này thời sẽ được lớn mạnh, không bị suy giảm.

5. Khi nào chúng Tỳ Kheo không bị chi phối bởi tham ái, tham ái này tác thành một đời sống khác, thời này các Tỳ Kheo sẽ được lớn mạnh, không bị suy giảm.

6. Khi nào chúng Tỳ Kheo thích sống những chỗ nhàn tịnh thời này các Tỳ Kheo sẽ được lớn mạnh, không bị suy giảm.

7. Khi nào chúng Tỳ Kheo tự thân an trú trong chánh niệm, khiến các bạn đồng tu thiện chí chưa đến muốn đến ở và các bạn đồng tu thiện chí đã đến ở được sống an lạc, thời này các Tỳ Kheo, chúng Tỳ Kheo sẽ được lớn mạnh, không bị suy giảm.

Bảy điều kiện này là yếu tố xây dựng một hội chúng lớn mạnh, cũng như bảy điều kiện hưng thịnh của một quốc gia, nơi đây người viết chỉ đại lược mà thôi.

B. Bảy Pháp Xử Trị Người Phạm Giới Tội (thất diệt tránh pháp):

1. Phán Quyết Với Sự Hiện Diện Cần Được Ban Cho (Tsammukhàvinayodàtabho - ưng dữ hiện tiền tỳ ni)

Phương pháp thứ nhất này là vì có vị Tỳ Kheo phạm tội, tranh chấp với nhau: “Đây là pháp, hay phi pháp, hay đây là luật hay phi luật”. Do sự tranh chấp này, chúng Tỳ Kheo phải tập họp hòa hợp với nhau và căn cứ vào pháp luật để xét xử, thảo luận, phân tích mà đương sự bắt buộc phải hiện diện và như vậy chính là chúng Tăng giải quyết một số tranh sự theo phương pháp giải quyết sự việc với sự hiện diện của đương nhân.

2. Phán Quyết Đa Số Cần Được Ban Cho (yebhuyassikà - đa nhân)

Phương pháp giải quyết thứ hai này là nếu các vị Tỳ Kheo không thể giải quyết vấn đề tranh sự này tại trú xứ của mình thì tất cả các vị Tỳ Kheo này phải đi đến một trú xứ của vị Tỳ Kheo khác, và ở đây tất cả các vị Tỳ Kheo này phải hòa đồng tập hợp lại để phán xét thảo luận, phân tích, giải quyết vấn đề bằng phương pháp dân chủ, lấy quyết định của số đông. Như vậy, đây chính là sự giải quyết một số tranh sự của đương sự quyết định của đa số.

3. Phán Quyết Ức Niệm Cần Được Ban Cho (sativinaya dàtabho - ưng dữ ức niệm tỳ ni)

Sự giải quyết về phương pháp ức niệm này là chúng Tỳ Kheo xử trị vị Tỳ Kheo có tội, hoặc phạm Ba La Di, hoặc gần Ba La Di, nói rằng: “Tôn giả có nhớ, Tôn giả đã phạm trọng tội, như thế này không, hoặc Ba La Di, hoặc gần Ba La Di không?” Đây chính là phương pháp xử trị gợi lại sự việc cho đương sự nhớ rõ, đây là phương pháp giải quyết một số tranh sự mà bắt buộc đương sự phải hồi tưởng, nhớ lại tội của mình.

4. Phán Quyết Bất Cứ Ai Cần Được Ban Cho (sativinaya dàtabho - ưng dữ ức niệm tỳ ni)

Phương pháp này là giải quyết về tội trạng của một Tỳ Kheo mà Tỳ Kheo này không nhớ sự việc của mình là cuồng tâm, mất trí, vì vậy, người xử trị phải nói rằng: “Tôn giả có nhớ, Tôn giả đã phạm trọng tội, như thế này không, hoặc Ba La Di, hoặc gần Ba La Di?” Nhưng vị Tỳ Kheo vẫn không thể nhớ được và chính bản thân vị Tỳ Kheo ấy đã nói lên: “Này chư hiền, tôi đã bị cuồng si, tâm trí tôi điên đảo, do tôi cuồng si như vậy, nhiều việc đã được tôi làm, tôi nói không xứng Sa Môn hạnh, vì bị cuồng si, tôi không nhớ đã làm như vậy.” Và như vậy là cách giải quyết về phương pháp bất si.

5. Phán Quyết Tùy Theo Thú Nhận Cần Được Ban Cho (patinnàya-kàrretabbam - ưng dữ tự phát lộ)

Đây là cách xử trị của chính đương nhân nói lên tội của mình. Dù bị buộc tội hay không buộc tội, vì Tỳ Kheo này phải đi đến vị Trưởng lão Tỳ Kheo, cần cầu lễ bái và bạch rằng: “Bạch Tôn giả, tôi có phạm giới tội đến như thế này, nay xin sám hối.” Vị Tỳ Kheo kia nói như sau: “Ngươi có thấy chăng?” – “Tôi có thấy” – “Ngươi có giữ gìn trong tương lai không?” – “Tôi sẽ giữ gìn.” – Phương pháp này được giải quyết là tùy theo sự thú nhận của đương sự.

6. Phán Quyết Tùy Theo Giới Tội Người Phạm, Người Cần Được Ban Cho (tassa pàpiyyasikà - ưng dữ triển chuyển mích tội)

Phương pháp này được quyết định tùy theo sự xử trị của người hỏi, lần lượt gợi lại tội trạng của người phạm tội để đương sự trình bày: “Chư hiền không ai phải hỏi tôi, tôi sẽ thú nhận có phạm khinh tội như thế này, làm sao tôi có thể khi có người hỏi tôi, tôi lại không thú nhận có phạm trọng tội như thế này, hoặc Ba La Di, hoặc gần Ba La Di?” Và người xử trị tiếp tục gạn hỏi để người phạm tội nhớ rõ về tội của mình: “Chư hiền, tôi nhớ tôi có phạm trọng tội như thế này, hoặc Ba La Di, hoặc gần Ba La Di. Điều tôi nói như vậy là nói chơi, điều tôi nói như vậy là để cười (ravà) tôi không có nhớ tôi đã phạm trọng tội như thế này Ba La Di, hoặc gần Ba La Di.” Đây là quyết định tùy theo giới tội người phạm.

7. Phán Quyết Như Trải Cỏ Che Lấp Cần Được Ban Cho (Tinavanthàrako - như thảo phú địa)

Phương pháp xử trị này một cách đồng đẳng, giống như cỏ phủ mặt đất. Có một số Tỳ Kheo đã tranh chấp, cãi vã, tranh luận và có nhiều việc làm và nói không xứng với Sa Môn hạnh. Sau khi tranh chấp như vậy, các Tỳ Kheo ấy phải tập họp hòa đồng với nhau và cử một vị Tỳ Kheo lớn tuổi đứng dậy đảnh lễ chúng Tỳ Kheo đối diện và bạch rằng: “Chư Tôn giả, Tăng chúng hãy nghe tôi, khi chúng tôi sống tranh chấp, tranh cãi, tranh luận với nhau, nhiều việc đã làm, đã nói không xứng với Sa Môn hạnh. Nếu chúng Tăng xem là phải thời, tôi xin tỏ lộ bất cứ giới tội nào của các Tôn giả này, và bất cứ giới tội nào của tôi, vì lợi ích cho Tôn giả và cũng vì lợi ích cho tự thân, tôi xin tỏ lộ giữa Tăng chúng như lấy cỏ trải ra. Trừ các trọng tội, trừ tội liên quan đến cư sĩ.” Ngược lại bên nhóm Tỳ Kheo kia cũng vậy, cử ra một Tỳ Kheo lớn tuổi, đứng dậy và đảnh lễ chúng Tỳ Kheo rồi tác bạch – giống như lời bạch trên. Và như vậy, đây là phương pháp giải quyết được mệnh danh là Trải Cỏ Che Lấp.

C. Sáu Pháp Hòa Kính (Tinh Thần Sống Lục Hòa):

Để xây dựng một nguyên tắc sống hợp lý và bình yên, lợi ích cho nhau, Đức Phật đã giảng dạy về Sáu Pháp Hòa Kính cho chúng Tỳ Kheo. Sáu Pháp Hòa Kính này là tinh thần hòa hiệp mỗi cá nhân để kiện toàn nguyên tắc chỉ đạo hòa hiệp chung cho tập thể.

1. Thân Hòa Đồng Trụ:

“Ở đây này Ananda, vị Tỳ Kheo an trú từ thân nghiệp, đối với các vị đồng phạm hạnh chỗ đông người và chỗ vắng người, khả niệm pháp này, tác thành khả ái, tác thành tôn kính, đưa đến đoàn tụ không tranh luận, hòa hợp đồng nhất.”

2. Khẩu Hòa Vô Tránh:

“Vị Tỳ Kheo an trú từ khẩu nghiệp, đối với các vị đồng phạm hạnh chỗ đông người... Hòa hợp đồng nhất.”

3. Ý Hòa Đồng Duyệt:

“Vị Tỳ Kheo an trú từ ý nghiệp, đối với các vị đồng phạm hạnh chỗ đông người và chỗ vắng người. Khả niệm pháp này tác thành khả ái, tác thành tôn kính đưa đến đoàn tụ, không tranh luận, hòa hợp đồng nhất.”

4. Lợi Hòa Đồng Quân:

“Và lại này Ananda, với mọi sở đắc như pháp, mọi lợi dưỡng đúng pháp, cho nên những thọ lãnh trong bình bát, vị Tỳ Kheo là vị san sẻ các lợi dưỡng như vậy. Là vị thọ hưởng chung cùng vị đồng phạm hạnh có giới đức: Khả niệm pháp này cũng tác thành khả ái, tác thành tôn kính, đưa đến đoàn tụ không tranh luận, hòa hợp đồng nhất.”

5. Giới Hòa Đồng Tu:

“... Đối với mọi giới luật nào, không sứt mẻ, không tì không vết không ô uế, giải thoát, được người trí tán thán, không chấp thủ đưa đến thiền định, vị Tỳ Kheo sống thành tựu những giới luật như vậy cùng các vị đồng phạm hạnh trước chỗ đông người và tại chỗ vắng người, khả niệm pháp này... hòa hợp đồng nhất.”

6. Kiến Hòa Đồng Giải:

“... Đối với mọi tri kiến thánh thiện, đưa đến xuất ly, dẫn đến sự chân chánh, đoạn diệt khổ đau cho những ai thực hành theo, vị Tỳ Kheo sống thành tựu những tri kiến như vậy cùng các vị phạm hạnh trước chỗ đông người và tại chỗ vắng người khả niệm pháp này... hòa hợp đồng nhất.”

Cá tính con người vốn dĩ hàm chứa sự xung đột không ngừng. Đây chính là bản tánh tự nhiên mà trong mỗi tự thân ai cũng có không bao giờ con người tự vừa ý với chính mình – và luôn luôn mâu thuẫn với chính mình,

Trong sự sinh hoạt hàng ngày, con người chống đối lại con người, chống đối lại ngay lời nói và ý nghĩ, mà không bao giờ hợp nhất, lời nói khác và thân làm khác. Lời nói lắm khi không đi đôi với việc làm và ý nghĩ hiếm khi phù hợp với hành động, cho nên trên quan điểm của bậc Thánh là: “Ngôn cố hành, hành cố ngôn”. Việc làm phải đi đôi với lời nói. Nghĩa là thân khẩu ý phải hợp nhất.

Đức Phật dạy giáo pháp Lục hòa không phải chỉ hòa hợp trong tinh thần tập thể mà chính tự mỗi cá nhân cũng phải hòa hợp. Con người tự ý thức và chấp nhận cho mình hoàn cảnh sống. Dù bất cứ phạm trù nào, con người vẫn vui vẻ chịu đựng. Một khi bản thân con người được an trú nơi ăn nơi ở, nơi làm việc thì khi ấy tự thân con người mới thực sự là hạnh phúc và bình an. Từ sự bình an của tự thân mỗi cá nhân, sau đó mới đem lại sự bình an chung cho tập thể.

Sự chấp nhận với chính mình là cảm thức tự nhiên, dù lắm khi không thỏa mãn cái mình có. Ví như không vừa ý với chiều cao, với khuôn mặt, màu da, với dạng cách, sự sang trọng, hay nghèo hèn, tất cả những yếu tố để phục vụ cho bản thân, con người luôn rong ruổi tìm kiếm. Bởi vậy, điều tiên quyết để đưa đến sự hòa đồng trong tập thể, ít ra tự mỗi cá nhân con người phải hòa đồng trước và tự vừa lòng với chính mình trong môi trường sống. Có vậy, yếu tố thứ nhất là thân hòa đồng trú mới mang lại ý nghĩa thiết thực cho từng mỗi cá nhân con người hòa đồng trong đời sống cộng đồng xã hội, hay một Tỳ Kheo trong cộng đồng Tăng Già.

Như vậy, yếu tố thứ nhất được áp dụng vào đời sống hàng ngày trong ý nghĩa thân hòa thì trong sự sinh hoạt của con người sẽ không thấy có sự phân chia giai cấp, màu da hay chủng tộc. Vì tất cả mọi người đều có cái nhìn như nhau và từ đây sẽ tạo thêm tình thương yêu đoàn kết, trong một trú xứ.

Trong môi trường sống dù cá nhân hay tập thể, con người vẫn luôn phải gặp nhau, nói chuyện với nhau và trao đổi cho nhau những điều liên quan giữa người và người, lời nói là yếu tố đầu tiên đưa mọi người đến gần hơn hay xa hơn. Vì vậy, tự bản thân của mỗi người lời nói phải được thích hợp, đúng lúc và thành thật. Để kiện toàn sự giao hảo con người phải nói lời ôn hòa, êm dịu dễ nghe. Hai quốc gia đang bang giao với nhau tốt đẹp nhưng nếu vì không bằng lòng, dùng những lời thô bạo và cộc cằn, sẽ tạo thành những ý nghĩ không tốt, đưa đến bất hòa, tranh chấp. Đức Phật dạy không được nói lưỡi hai chiều, nói lời thêu dệt, hay nói những lời thô ác, vì đây chính là mầm mống của chia rẽ. Như một thời Đức Phật ở Kosambi: “Lúc bấy giờ các vị Tỳ Kheo tại đấy sống cạnh tranh, luận tranh, đấu tranh nhau, đả thương nhau bằng những binh khí miệng lưỡi.” Đức Phật biết được điều này Ngài đã đi đến hòa giải, nhưng các vị Tỳ Kheo không nghe, cuối cùng Đức Phật phải vào trong rừng sống một mình.

Đời sống của con người lắm khi còn không vừa ý với lời nói của chính mình, và chính lời nói của mình sẽ gây nên sự phiền phức hay an lạc cho chính mình. Vì vậy, muốn lời nói được hòa đồng với mọi người, điều trước tiên là phải hòa đồng với chính mình. Lời nói mình nghe có êm tai, dễ chịu thì người khác mới nghe êm tai dễ chịu, không ai có thể chấp nhận và chịu được khi nghe một lời nói khiếm nhã, mất cung cách và thiếu lễ độ. Trong những lời giáo hóa, Đức Phật chưa một lần nói một lời không thích hợp và phi thời, Đức Phật bằng những lời nhu nhuyễn, ích lợi để đưa đến sự hòa hợp cho con người. Một lần, trên đường khất thực, Đức Phật tuần tự đi qua từng nhà, đến gia đình một thí chủ, họ đã bố thí cho Ngài toàn những lời nhục mạ, mắng nhiếc, nguyền rủa, nhưng Ngài vẫn thản nhiên, điềm tĩnh. Nhưng, đối với người thường có lẽ không tránh khỏi sự tranh chấp, ẩu đả.

Giới pháp của Đức Phật mang đến cho con người những lời nói thật nhã nhặn và chan chứa tình thương. Trong ngôn ngữ ấy không hề hàm chứa sự giả dối, trá ngụy dưới những lời nói bóng bẩy, Đức Phật đã thể hiện lời nói từ hòa vì lợi ích và an vui:

“Này hỡi các Tỳ Kheo, dẫu có người bình phẩm các con như thế nào, đúng hay sai, hợp thời hay ở ngoài lề, lễ độ hay thô bỉ, hợp lý hay điên rồ, ngay thẳng hay gian xảo, các con hãy cố gắng tu luyện tâm tánh, phải giữ tâm luôn trong sạch, không khi nào thốt ra một lời xấu, luôn luôn niềm nở và bi mẫn đối với những người ấy. Các con nên rải tâm từ bao trùm cả càn khôn vạn vật, dồi dào phong phú, vô lượng vô biên, không bao giờ thù oán, không sân hận. Các con hãy cố gắng tự trau dồi.”

Lời nói đích thực mang lại sự bình an cho chính mình và con người là lời nói của người giữ được tâm thanh tịnh và đầy lòng từ mẫn. Đây là yếu tố chân thật để kiến lập bài học thứ hai là khẩu hòa vô tránh.

Sự hòa đồng trong ý nghĩa lời nói này không phải không được nói lời thô bạo, hung dữ, mà ngay cả một lời nói dối, nói láo để chơi thì cũng không thể gọi là hòa. Một hôm, Đức Phật đến thăm Tôn giả Ràhula ở làng Ambalatthika, từ xa thấy Thế Tôn đến, Ràhula liền sửa soạn chỗ ngồi và lo bưng chậu nước rửa chân cho Ngài. Đức Phật rửa chân xong, để lại một ít nước trong chậu và gọi Ràhula, Ngài bảo:

- Này Ràhula, ngươi có thấy một ít nước còn lại trong chậu này không?

– Thưa vâng, bạch Thế Tôn.

- Cũng vậy, này Ràhula, là Sa Môn hạnh của những người nào biết mà nói láo, không có tàm quý.

Sau đó Đức Thế Tôn đã đổ đi số nước còn lại trong chậu và hỏi Ràhula:

– Ngươi có thấy ít nước còn lại trong chậu ấy bị đổ đi không?

– Thưa vâng, bạch Thế Tôn.

- Cũng đổ đi vậy, này Ràhula, là Sa Môn hạnh của những người nào biết mà nói láo, không có tàm quý.

Rồi Đức Thế Tôn lại lật úp chậu nước lại và hỏi Ràhula:

– Ngươi có thấy chậu nước bị lật úp ấy không?

– Thưa vâng, bạch Thế Tôn.

- Cũng lật úp vậy, này Ràhula, là Sa Môn hạnh của những người nào biết mà nói láo, không có tàm quý.

Cuối cùng Đức Thế Tôn lật ngửa cái chậu nước lên hỏi Ràhala:

– Ngươi có thấy chậu nước này trống không không?

– Thưa vâng, bạch Thế Tôn.

- Cũng trống không vậy, này Ràhula, là Sa Môn hạnh của những người nào biết mà nói láo, không có tàm quý.

Và đúc kết lời giảng, Đức Phật khẳng định rằng:

“Đối với ai biết mà nói láo, không có tàm quý, thời ta nói người ấy không có việc gì ác mà không làm. Do vậy, này Ràhula, ta quyết định không nói láo, dầu nói để mà chơi.”

Qua bài học thứ ba là thuộc lãnh vực tâm ý. Tâm ý có hòa hợp thì người mới vui vẻ, bằng trái nghịch thì không thể nào có sự bình an nơi con người được.

Cũng như những bài học trên, bài học này cũng đòi hỏi nơi mỗi cá nhân, trước hết là phải có thành ý. Có thành thật với chính mình thì mới có thể thành thật với mọi người – Nếu con người không thành thật với chính mình thì đời sống cộng đồng hay hội chúng sẽ bị xáo trộn, không được tịnh lạc, do vậy Đức Phật đã dạy:

“Tâm con người như ngựa rong đồng nội, như khỉ chuyền cành cây, không bao giờ ngừng nghỉ yên tĩnh.”

Tự tánh của ý lăng xăng, nếu con người không biết tự kềm chế để hướng dẫn theo chiều hướng đi lên, thì tâm ý sẽ tạo tác tất cả mà không từ chối một việc gì. Bởi vậy, Đức Phật dạy: “Tâm dẫn đầu, tâm làm chủ, tâm tạo tác tất cả...”

Dù việc thiện hay điều ác, tâm cũng là yếu tố tiên quyết, chủ động, người ta thường bảo: “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ.” Một khi lòng ta không vui thì đối với ngoại cảnh mang tất cả màu tang tóc thê lương như lòng mình. Nhưng, nếu tâm hồn ta thoải mái, vui tươi, trong sáng, thì dường như ta cảm thấy cảnh vật cũng mừng rỡ chào đón ta. Từ đấy ta biết rằng, khi tâm ta không vui, ta cũng không vui với chính ta thì chắc chắn ta cũng không thể vui cái vui của người khác được.

Quan trọng là con người phải tự vừa ý với chính mình và chấp nhận chính mình, có vậy mới đem cái vui của bản thân mà hòa đồng cùng cái vui của đại thể.

Sự sinh hoạt hàng ngày của con người đem lại miếng cơm manh áo, là yếu tố vật chất để nuôi sống đời mình. Nhưng, điều kiện thứ tư này, Đức Phật dạy sự tiếp nhận của cải vật chất này không chỉ riêng mình được hưởng mà phải cùng chia sẻ cho mọi người trong tinh thần hòa hiệp. Nghĩa là người có lợi cùng chia, chia từng miếng cơm trong bữa cơm của mình, chia từng chiếc áo trong những chiếc áo của mình và chia những vật dụng trong những vật dụng của mình. Trong tinh thần này, mang ý nghĩa xả kỷ vị tha, chia sẻ lợi dưỡng của mình đến cho mọi người và hơn nữa, bài học này đã dạy, con người hãy biết đủ trong điều kiện vật chất, mà không nên tích trữ, đầu tư cho riêng mình. Và cũng để con người thấy rằng, đây không phải là vợ con ta, đây không phải là tài sản riêng ta.

Giới là điều kiện thuận lợi, là nguyên tắc giáo dục con người tiến lên môi trường đạo đức, thánh thiện, tự bản thân của giới là sợi dây cương kềm thúc, là chiếc phao nổi đưa người qua biển khổ, là một bản cương lĩnh đạo đức để kiện toàn nếp sống lành mạnh và hạnh phúc chung cho mọi người. Con người phải ý thức rằng đời sống có kỷ cương, trong tinh thần kỷ luật là một đời sống có ý nghĩa thực hiện, chính ý nghĩa này sẽ xây dựng một xã hội lành mạnh trên nền tảng hạnh phúc đạo đức.

Con người tự chấp nhận kỷ luật bản thân, khép mình trong khuôn khổ thì mới có thể chấp nhận và khép mình trong kỷ luật của tập thể. Vì con người lúc nào cũng muốn tự do phóng túng theo ý muốn của riêng mình. Bởi vậy, chấp nhận kỷ luật là chấp nhận sự khép mình và hy sinh mọi tình cảm cá nhân để hòa đồng trong sự sinh hoạt kỷ luật hội chúng.

Trong ý nghĩa của giới luật, Đức Phật đã dạy cho các hàng đệ tử của Ngài là hãy lấy “giới luật” làm thầy để tu học. Trong những ngày cuối cùng, sau ba tháng Đức Phật sẽ nhập Niết Bàn, Tôn giả Ananda đã khóc lóc bạch Phật rằng: “Sau khi Thế Tôn diệt độ, hàng Tăng chúng biết nương tựa vào ai và biết lấy ai để lãnh đạo Tăng già.” Đức Phật ân cần căn dặn: “Sau khi ta diệt độ, các thầy lấy giới luật làm Thầy, hãy nương tựa vào giới luật để làm điều kiện tu chứng, chớ nương tựa vào bất cứ ai khác, và hãy tự mình làm hòn đảo của chính mình, nếu ta còn ở lại với đời thì cũng sẽ không có gì khác hơn ngoài giới luật.” Trong một nơi khác, Đức Phật cũng đã dạy: “Này các Tỳ Kheo, các thầy đã nghiêm trì giới thể thanh tịnh, giống như trong đêm tối mà được ánh đèn sáng, như kẻ nghèo nàn lại được của báu...” Vậy để biết rằng giới pháp là bậc đạo sư của riêng mỗi người, hướng dẫn chỉ bày cho con người đời sống thánh thiện.

Cuối cùng, bài học thứ sáu là cái thấy hòa đồng để cùng mọi người hiểu biết. Đây là một quan điểm, con người luôn luôn tự chủ, vì ai cũng có cái nhìn sai biệt và tự chấp thủ theo quan điểm riêng của chính mình, tự cho cái nhìn của mình là đúng, ngoài ra tất cả là sai. Do đó, cái nhìn này là một quan điểm chủ quan, tạo nên sự lệch lạc, thiếu thực tế trong nhận định. Cái nhìn chung của đại đa số, được xuyên qua một lớp kính màu, do vậy con người không nhận diện vấn đề một cách chính xác và hiểu rõ sự thật của sự vật là gì? Đây là cái nhìn của biến kế sở chấp, lầm sợi dây là con rắn. Do vậy, tạo nên sự khó khăn trong tinh thần hòa đồng cùng chung học hỏi hiểu biết trong sinh hoạt hàng ngày của con người. Vì vậy, tự thân của mỗi người phải thấy cái thấy của chính mình thế nào là đúng, thế nào là sai, có như vậy, mới có thể mang cái thấy, cái nhìn của mình vào cái thấy cái nhìn của tập thể mà hòa đồng trên một quan điểm hợp nhất.

Tóm lại, tinh thần sống lục hòa là một tinh thần hòa hợp từ bản chất mỗi cá nhân để kiện toàn sự hòa hợp cho tập thể hội chúng và để hóa giải tất cả sự phân chia từng ý nghĩ, từng cái nhìn riêng biệt của mỗi người. Sáu yếu tố này là chất liệu xây dựng tốt đẹp trong không khí hòa hợp trên bình diện sống của chúng Tăng, cộng đồng Tăng lữ. Và nếu xã hội người được áp dụng thì thế giới sẽ thanh bình an lạc.

D. Bốn Nguyên Tắc Thu Nhiếp Hội Chúng (Tứ Nhiếp Pháp)

Sự bình an và hạnh phúc của con người thật là tình cờ và hiếm hoi, đối với cuộc sống đầy dãy đấu tranh, nhọc nhằn này. Trong cái nhìn toàn thể, từng giờ từng phút một trong cuộc đời không khi nào ngớt những tiếng đau thương, rên xiết của kiếp sống đọa đày, gian khổ. Trong trường đấu tranh danh lợi, con người, không ai có được mà kẻ khác lại không bị mất mát, và cũng không có kẻ tự hãnh diện hạnh phúc mình chiến thắng mà lại không có người ôm hận thù, đau khổ trong tâm trạng của người chiến bại. Vì vậy, hình ảnh cuộc đời là hình ảnh của sự tranh chấp, của một thế lực này chèn ép thế lực khác. Con người mang tâm trạng đấu tranh để đi tìm hạnh phúc và bình an cho chính mình thì chắc sẽ không bao giờ tìm ra ý nghĩa hạnh phúc chân thật. Bởi vậy, đối với những người khôn ngoan, họ đi tìm hạnh phúc không bằng vào những cuộc tranh chấp của thế lực mà họ tự quay về, tìm lại sự bình an trong tâm hồn mình.

Xã hội này được hình thành và tất cả những gì được trình bày trước mắt, không phải vì ngẫu nhiên mà có, ít ra cũng do sự tham dự của chính mỗi người trong cuộc đời. Do sự đóng góp chung của tất cả bằng những hành động thiện hay bất thiện để cùng chung hiện hữu trong thế giới ngày hôm nay. Như vậy, có thể nói, sự có mặt của con người trong xã hội này là kết quả của chính hành vi của mỗi đương nhân, con người phải chịu trách nhiệm về hành vi đó, mà không thể chối cãi hay phủ nhận bằng bất cứ hoàn cảnh nào trong cuộc sống. Người có trí khôn ngoan, họ nhận chân được trách nhiệm của chính họ trong những hoàn cảnh đổi thay và chính họ đã thấy rằng sự giáo dục để cải thiện con người chính là yếu tố căn bản để đưa đến sự tạo dựng hoàn cảnh tốt đẹp hơn. Tự mỗi nếp sống cá nhân được lành mạnh đưa đến đời sống gia đình hạnh phúc và từ đời sống gia đình hạnh phúc đóng góp vào xã hội bình an. Vì vậy, dù bất cứ ở nơi nào mà không có sự tranh chấp, tước đoạt và ganh đua thì chính ở nơi đó có hình bóng bình an và hạnh phúc. Đây chính là kết qua của những tâm hồn thanh thản, mà mọi sự phiền não đã được dập tắt.

Gia đình hạnh phúc là một gia đình có hòa khí và thuận thảo. Đời sống của một tập thể lành mạnh và yên vui là một đời sống trong tinh thần đoàn kết, hòa hợp, sự hòa hợp chính là yếu tố của sức mạnh để xây dựng tình người trong ý nghĩa chân chánh, hướng thượng.

Đức Phật đã giảng dạy các đệ tử phải luôn luôn sống trong tinh thần hòa hiệp. Sự hòa hiệp giống như sữa đổ vào nước cùng hòa tan mà không có sự phân biệt. Hàng đệ tử sống hòa hiệp trong giáo pháp như vậy mới có sự lợi ích và an vui. Sự hòa hợp chính là nền tảng hạnh phúc cho chư Thiên và loài người. Chính vì vậy mà Đức Phật dạy giáo pháp lục hòa cho chúng Tỳ Kheo và bốn pháp nhiếp sự cho hàng tại gia cư sĩ.

Đức Phật dạy vai trò của người tại gia sống bằng bốn nhiếp sự, mà nếu không áp dụng bốn nhiếp sự vào đời sống hàng ngày thì ngay nơi bản thân con người đã đánh mất trách nhiệm của chính mình, đối với đời sống gia đình và những người chung quanh, mà cũng chẳng có ích lợi và tiến bộ gì trong Phật pháp. Bởi vậy, ý nghĩa bốn nhiếp sự là nguyên tắc gắn bó để duy trì sự tương quan và lợi ích chung trong cộng đồng con người. Hay nói một cách khác, tứ nhiếp pháp là bốn điều kiện để giữ vững tình người cùng sống chung và hòa hợp, cùng giúp đỡ nhau trong lãnh vực vật chất để có phương tiện hướng đến thành tựu về tinh thần.

Bốn nhiếp sự là những bài học mà Đức Phật dạy cho con người lấy đó làm cương lĩnh để nâng cao và mở rộng tâm tư chính mình. Vì rằng, một tâm hồn hẹp hòi, thì không thể nào có cái nhìn cởi mở và hiểu biết đích thực để đón nhận những lời dạy của Đức Phật. Trong tinh thần giáo lý thực tiễn, Đức Phật không giảng dạy những gì ngoài sự sinh hoạt của con người. Vì vậy, trong ý nghĩa của bốn nhiếp sự này, Đức Phật đã mang đến cho con người, điều trước tiên là phải thực hành nơi mỗi bản thân của con người, con người với gia đình, với những người thân thuộc chung quanh mình và tất cả. Như vậy, tùy theo khả năng của mỗi người mà bốn nhiếp sự được thể hiện theo từng trình độ, để nâng cao phẩm chất đời sống con người. Nhưng, trong cuộc sống, con người mang nhiều trình độ khác nhau, vì vậy trong khi thực hành bốn nhiếp sự, con người tùy theo đó mà áp dụng cho hoàn cảnh bản thân. Thế nhưng, dù là trình độ nào đi nữa, thì điểm then chốt vẫn là thực hành ý nghĩa nhiếp sự vào mọi sinh hoạt con người trong tầm quan hệ bản thân, gia đình và xã hội. Hay nói một cách đơn giản, bốn nhiếp sự là mối quan hệ thân thiết giữa người và người gồm cả hai lãnh vực vật chất và tinh thần.

Bốn nhiếp sự này được Thế Tôn giảng dạy như sau:

”- Một thời Đức Thế Tôn trú ở Alavi, tại ngôi miếu Aggàlava, lúc ấy cô Hatthaka cùng 500 nam nữ cư sĩ đi đến Thế Tôn. Sau khi đến nơi và đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Đức Thế Tôn nói với Hatthaka đang ngồi một bên:

- Này Hatthaka, ngươi thâu nhiếp được hội chúng này?

- Bạch Thế Tôn, có bốn nhiếp pháp (samgaha vatthin) này được Thế Tôn thuyết giảng. Con thâu nhiếp hội chúng này với những pháp ấy. Bạch Thế Tôn, khi con biết rằng: “Người này phải cần thâu nhiếp bằng bố thí”, thời con thâu nhiếp người ấy với bố thí. Khi con biết rằng: “Người này cần phải thâu nhiếp nhờ ái ngữ” thời con con thâu nhiếp người ấy với ái ngữ (payavajjena). Khi con biết: “Người này cần phải thâu nhiếp do lợi hành”, thời con thâu nhiếp người ấy với lợi hành (atthacariyàya). Khi con biết: “Người này cần phải thâu nhiếp với đồng sự”, thời con thâu nhiếp người ấy với đồng sự (samànattaya). Vả lại, bạch Thế Tôn, trong gia đình con có tài sản, chúng nghĩ rằng như vậy không thể được nghe như là một người bần cùng (daludassa no tathàsotabbam / mannati)

- Lành thay, lành thay, này Hatthaka! Đây là nguyên lý (yoni) để thâu nhiếp đại chúng. Này Hatthaka, những ai trong quá khứ đã thâu nhiếp đại chúng, tất cả đều thâu nhiếp đại chúng với bốn nhiếp pháp này. Này Hatthaka, những ai trong tương lai sẽ thâu nhiếp đại chúng, tất cả đều thâu nhiếp đại chúng với bốn nhiếp pháp này. Này Hatthaka, những ai trong hiện tại đang thâu nhiếp đại chúng, tất cả đều thâu nhiếp đại chúng với bốn nhiếp pháp này.”

Trong một bản kinh khác, Đức Phật cũng đã dạy về bốn nhiếp sự như sau:

“Này các Tỳ Kheo, có bốn sức mạnh này... sức mạnh của trí tuệ, sức mạnh của tinh tấn, sức mạnh của sự khuyết điểm, sức mạnh của nhiếp sự...

“Thế nào là sức mạnh của nhiếp sự (sangàlabala)? Có bốn nhiếp sự này, đó là bố thí, ái ngữ, lợi hành và đồng sự. Này các Tỳ Kheo, bố thí này cao thượng nhất là pháp thí. Ái ngữ này cao thượng nhất là luôn luôn giảng pháp cho người khao khát lắng tai nghe. Lợi hành cao thượng nhất là với người không tín tâm thì khuyến khích, hướng dẫn, thiết lập cho chánh tín, với người ác giới... thiết lập cho thành tựu giới; với người bỏn sẻn... cho thành tựu thí xả; với người ác tuệ... cho thành tựu trí tuệ... Này các Tỳ Kheo, đồng sự cao thượng nhất là dự lưu, nhất lai đồng sự đối với nhất lai, bất lai đồng sự đối với bất lai. A la hán đồng sự với A la hán.”

Đề cập đến bốn nhiếp sự, trong tập Dị Môn Túc Luận 9, đại 26, trang 4020, đã trình bày như sau:

Có bốn nhiếp sự:

A- Bố thí

B- Ái ngữ

C- Lợi hành

D- Đồng sự.

1. Thế Nào Là Nhiếp Sự Bố Thí?

“Ở đây, bố thí là thí chủ bố thí như ẩm thực, thuốc thang, y phục, bông hoa, hương liệu, nhà cửa, đèn đuốc v.v... cho các Sa Môn, Bà La Môn, người bạn cùng khổ, kẻ ăn xin dọc đường.

Lại nữa, Đức Thế Tôn nói với Trưởng giả Thủ rằng: “Này Trưởng giả, trong các sự bố thí, bố thí pháp là tối thượng.” Như vậy gọi là bố thí.

“Nhiếp sự là do sự bố thí cho người khác này là nhiếp thọ, nhiếp phục họ, khiến họ cùng thân thiết nhau. Sự bố thí cho người khác như vậy có thể thâu nhiếp, có thể nhiếp phục, có thể duy trì, có thể đoàn kết, khiến cho thân thiết nhau, do đó gọi là nhiếp sự bố thí.”

2. Thế Nào Là Nhiếp Sự Ái Ngữ?

“Ở đây, ái ngữ là lời nói đáng ưa, đáng thưởng thức, nói với khuôn mặt tươi vui, với cái nhìn thân thiết, nói bằng gương mặt không nhăn nhó, nói với nụ cười đi trước, nói với lời chúc tụng, nói với lời yêu thương, nói với lời niềm nở, như nói rằng: “Kính chào trưởng lão, việc đời Ngài có dễ chịu không? Có thông suốt không? Sống có an vui không? Các ẩm thực, y phục, giường ghế và các thứ nhu yếu hàng ngày có thiếu thốn không?” Những sự hỏi thăm, an ủi như vậy, được gọi là lời nói niềm nở. Lời nói này và những lời nói kể trên đều được gọi là ái ngữ.

Lại nữa, như Đức Thế Tôn nói với Trưởng giả Thủ rằng: “Này Trưởng giả nên biết, tối thắng trong các ái ngữ là khéo léo hướng dẫn các thiện nam, thiện nữ, luôn luôn giảng pháp, luôn luôn khuyên bảo, luôn luôn khích lệ, đối với những ai đang khao khát lắng tai. Như vậy gọi là ái ngữ.

Nhiếp sự ái ngữ là do ái ngữ đối với người khác này mà thâu nhiếp, nhiếp phục họ, khiến cho họ cùng gắn bó thân thiết với nhau...”

3. Thế Nào Là Nhiếp Sự Lợi Hành?

“Khi có chúng sinh nào mắc phải bịnh nặng, gặp những hoạn nạn, khốn khổ, không người cứu giúp, bèn đi đến đó, khởi tâm từ ái, bằng các hành vi của thân và ngữ mà chăm sóc, giúp đỡ. Đó gọi là lợi hành.

Lại nữa, như Đức Thế Tôn nói với Trưởng giả Thủ rằng: “Này Trưởng giả nên biết, tối thắng trong các lợi hành là đối với người không chánh tín, dùng phương tiện mà hướng dẫn, thuyết phục, xây dựng cho họ được chánh tín trọn đầy, với người bỏn sẻn, dùng phương tiện mà hướng dẫn, xây dựng cho họ có sự bố thí tròn đầy. Những điều như vậy gọi là lợi hành. Nhiếp sự lợi hành là do sự lợi hành này, khiến gắn bó thân thiết với nhau.”

4. Thế Nào Là Nhiếp Sự Đồng Sự?

“Ở đây, đồng sự nghĩa là đối với người rất nhờm tởm việc sát hại mạng sống thì sẽ giúp đỡ cho họ từ bỏ việc sát hại. Đối với người nhờm tởm việc lấy của không cho thì giúp đỡ họ từ bỏ việc lấy của không cho. Đối với người nhờm tởm việc tà hạnh trong các dục thì giúp đỡ họ từ bỏ việc tà hạnh trong các dục, đối với người nhờm tởm việc say sưa các thứ rượu thì giúp họ từ bỏ việc say sưa trong các thứ rượu, những việc như vậy thì gọi là đồng sự.

Lại nữa, như Đức Thế Tôn nói với Trưởng giả Thủ rằng: “Này Trưởng giả nên biết, tối thắng trong các đồng sự, đó là A la hán đồng sự A la hán, Bất hoàn đồng sự với Bất hoàn, Nhất lai đồng sự với Nhất lai, Dự lưu đồng sự với Dự lưu. Do đó gọi là đồng sự,

Nhiếp sự đồng sự, là do đồng sự (đồng mục đích) với các chúng sinh khác như thế... khiến cùng gắn bó thân thiết nhau.”

“Bố thí và ái ngữ

Lợi hành và đồng sự

Thích hợp theo trường hợp

Gắn bó các thế gian

Bốn nhiếp sự như thế

Thế gian nếu không có

Con cái đối với Cha

Sẽ không lòng hiếu dưỡng

Do đó nhiếp sự này

Bậc hiền trí sống theo

Hành theo vì thiết thực

Do đó thành vĩ đại.”

A- BỐ THÍ (Dàna):

Đem tài sản sở hữu của mình dâng cho, ban cho hay tặng cho một người khác. Trong sự ban cho này dĩ nhiên là con người sẽ cho những gì mà con người có. Điều sở hữu có ở đây là do sự học hỏi, suy tư và kinh nghiệm. Những điều kiện này là yếu tố để xây dựng một đời sống mà cũng là phương tiện để theo đuổi một mục đích cao đẹp của con người. Giả như không có những vật sẵn có đó thì con người sẽ không thể tự tồn và cũng không có ý thức rằng con người đang hiện hữu là ai và điều kiện nào được hiện hữu. Vì vậy, đời sống con người hầu như mang một quy luật tự nhiên là nghĩ rằng tài sản chính là sự sống của chính mình và liên quan mật thiết với chính mình. Tài sản sở hữu tồn tại thì đời sống con người cũng tồn tại, bằng như tài sản sở hữu bị mất đi thì sự sống con người cũng bị hủy diệt. Do vậy, trong môi trường sống bình nhật, đã có người tự hủy thân mạng khi thấy sự nghiệp của mình tan tành, gia sản bị cướp, hoặc có người trở thành bất đắc chí mà không còn nhìn thấy ý nghĩa của sự sống. Con người có thể đánh đổi với một giá rất đắt khi danh vọng, địa vị của mình bị kẻ khác tước đoạt. Dù con người có ý thức rằng tài sản vật chất là thứ giả tạm, không vĩnh viễn có.

Đức Phật cho rằng, con người đầu cơ tích trữ tài sản vật chất là nguồn gốc của sự khổ đau và tội lỗi ngay trong bản thân mình, là những nguyên nhân để tranh chấp và thù hận. Một khi sở hữu của con người bị kẻ khác đánh cắp, thì con người cũng sẽ tìm cách đánh cắp lại và cứ như thế con người sẽ gây ra chiến tranh với con người.

Người càng ôm lòng chất chứa tài sản càng nhiều thì tâm hồn người ấy càng thu hẹp lại. Họ chỉ biết đây là vợ con ta, và đây là tài sản của ta, hạnh phúc của riêng ta, còn ngoài ra tất cả đều không biết đến. Họ chỉ có cái nhìn ngay trên bản thân mà không có cái nhìn vào xã hội. Sự đau thương của người khác không phải là điều họ phải vướng bận đến. Ngoại trừ một số người giàu lòng nhân ái, biết thương người để cứu người, và biết hy sinh cho người.

Trong sinh hoạt hàng ngày, con người đi tìm cầu sự học hỏi, đi xây dựng cho mình một lâu đài hạnh phúc của chân thật, điều tiên quyết con người phải mở rộng đôi tay để đón nhận, và đưa thẳng đôi tay để ban cho. Nếu con người không biết cách cho thì cũng sẽ không khi nào biết cách nhận, mà đã không ban cho và không thâu nhận thì tự tâm con người sẽ không nhận diện được giá trị của lòng thương yêu và ai là người thân thuộc của mình, kể cả những người sống trong gia đình, bạn bè, làng xóm. Dưới mắt họ, toàn là những người mất thiện cảm, dụng tâm và ác ý, lúc nào cũng muốn chiếm hữu của họ. Một tâm hồn đầy ắp sự vị kỷ, xa lạ với tha nhân thì tự thân họ sẽ không tìm thấy ý nghĩa của hạnh phúc chân thật và cũng không hiểu giá trị đích thực của sự Ban Cho trong giáo pháp.

Đức Phật đã trình bày về những hạng người biết bố thí và phương pháp bố thí đúng pháp và phương pháp bố thí phi pháp:

1- Bố Thí Có Bốn Hạng Người:

“Có bốn hạng bố thí, này các Tỳ Kheo, thanh tịnh từ người cho, không thanh tịnh từ người nhận. Có bố thí không thanh tịnh từ người cho, cũng không thanh tịnh từ người nhận.

a. Thế nào là bố thí thanh tịnh từ người cho, không thanh tịnh từ người nhận?

“Ở đây, này các Tỳ Kheo, người cho có giới, theo thiện pháp, người nhận là ác giới theo ác pháp.”

b. Thế nào là bố thí thanh tịnh từ người nhận, không thanh tịnh từ người cho?

“Ở đây, này các Tỳ Kheo, người bố thí ác giới, theo ác pháp, người nhận có giới theo thiện pháp.”

c. Thế nào là bố thí không thanh tịnh từ người cho, và cũng không thanh tịnh từ người nhận?

“Ở đây, này các Tỳ Kheo, người cho là ác giới, theo ác pháp, người nhận cũng là ác giới theo ác pháp.”

d. Thế nào là bố thí thanh tịnh từ người cho, người nhận cũng thanh tịnh?

“Ở đây, này các Tỳ Kheo, người bố thí có giới theo thiện pháp, người nhận cũng có giới theo thiện pháp.”

2- Hai Hạng Người Bố Thí:

Tôn giả Sàriputta cùng một số nam nữ cư sĩ ở Campà đi đến yết kiến Đức Thế Tôn, nhân ngày trai giới (Uposatha). Sau khi đến đảnh lễ Đức Thế Tôn, Tôn giả Sàripuatta đã bạch Đức Thế Tôn về vấn đề bố thí, nhân đấy Đức Phật đã giảng dạy là có hai hạng người bố thí, một hạng bố thí lợi ích lớn và bị thối lui, một hạng bố thí có lợi ích lớn và không thối lui.

a. Hạng người bố thí với tâm mong cầu:

“Ở đây, này Sàriputta, có người bố thí với tâm mong cầu, bố thí với tâm trói buộc, bố thí với tâm mong cầu chất chứa, bố thí với ý nghĩ: “Ta sẽ hưởng thọ cái này trong đời sau.” Vị ấy, bố thí như vậy, khi thân hoại mạng chung, được sanh cộng trú với chư Thiên ở bốn Thiên vương và vị ấy nghiệp đoạn tận, thần lực ấy, danh tiếng ấy, uy quyền ấy (adhipateyyam - được đoạn tận) vị ấy trở thành “vị ấy trở lui lại”, trở lui lại trạng thái này.”

b. Hạng người bố thí với tâm không mong cầu:

“Ở đây, này Sàriputta, có người bố thí với tâm không mong cầu, bố thí với tâm không trói buộc, bố thí với tâm không mong cầu chất chứa, bố thí không ý nghĩ: “Ta sẽ hưởng thọ cái này trong đời sau.” Nhưng bố thí với ý nghĩ: “Lành thay sự bố thí... cái này đã được cho trong quá khứ, đã được Tổ tiên làm trong quá khứ. Ta không xứng đáng (arahàmi) để truyền thống gia đình này bỏ quên.” Hay là người bố thí không với ý nghĩ: “Cái này đã được cho trong quá khứ, ta không xứng đáng để truyền thống gia đình này bị bỏ quên.” Nhưng bố thí với ý nghĩ: “Ta nấu ăn (aham pacàni) các người này không nấu ăn. Ta không xứng đáng là người nấu ăn, lại bố thí cho người không nấu ăn.” Nhưng vị ấy bố thí với ý nghĩ: “Như các vị ẩn sĩ thời xưa có những tế đàn...” Nhưng bố thí với ý nghĩ: “Để ta bố thí với vật bố thí này, tâm được tịnh tín, hỷ duyệt khởi lên”... Vị ấy bố thí, không với ý nghĩ: “Do ta bố thí vật bố thí này, tâm được tịnh tín, hỷ duyên khởi lên.” Nhưng bố thí với ý nghĩ để trang nghiêm tâm (cittàlarikaram) để trang bị tâm (cittàparikkàrattham). Và đối với Sa Môn hay Bà la môn, vị ấy bố thí thực phẩm, nước uống, vải mặc, xe cộ, vòng hoa, hương thơm, hương liệu, giường nằm, trầm xứ, đèn đuốc... Do vị ấy bố thí như vậy, sau khi thân hoại mạng chung cộng trú với chư Thiên ở Phạm chúng thiên, và khi ấy nghiệp được đoạn tận, thần lực ấy, danh tiếng ấy, uy quyền ấy (adhipateyyam - được đoạn tận) vị ấy trở thành bất vị lai, không trở lui lại trạng thái này.”

3- Tám Loại Bố Thí của Bậc Chân Thân:

“Cho trong sạch, cho vật thù diệu, cho đúng thời, cho vật thích ứng (kappiyamdemti), cho với sự cẩn thận (viceyyadeti), cho luôn luôn (abhinhamdeti), tâm cho được tịnh tín, sau khi cho hoan hỷ.”

“Trong sạch và thù diệu

Đúng thời và thích ứng

Thực phẩm và thức uống

Luôn luôn làm bố thí

Trong các ruộng tốt lành

Sống theo đời phạm hạnh

Không có gì hối tiếc

Bố thí nhiều tài vật

Những bố thí như vậy

Được bậc trí tán thán

Bậc trí (Yajitvà) thí như vậy

Với tín tâm giải thoát

Không hại tâm an lạc

Bậc trí sanh ở đời.”

4- Bố Thí Chân Chánh Trong Sự Thiếu Hụt:

Một thời Đức Thế Tôn trụ ở Sàvathi, tại vườn ông Anàthapindika, rồi khi ấy có nhiều vị tiên Satullapa, sau khi đêm gần qua với nhan sắc thù diệu đã đi đến đảnh lễ Đức Thế Tôn, và nói lên những bài kệ bố thí.

“Không chết giữa người chết

Như hiện hữu trên đường

San sẻ lương thực hiếm

Thường pháp là như vậy

Kẻ ít vui san sẻ

Kẻ nhiều khó đem cho

Bố thí từ kẻ khó

Đáng được ngàn đồng vàng”

Lời Phật dạy:

“Sở hành vẫn chánh đáng

Dầu phải sống vụn vặt

Dầu phải nuôi vợ con

Với đồ ăn lượm lặt

Nhưng vẫn bố thí được

Từ vật cho ít oi

Từ ngàn người bố thí

Từ trăm ngàn vật cho

Trị giá không ngang bằng

Kẻ bố thí như vậy.”

Rồi một vị thần khác nói lên cảm nghĩ của mình:

“Lành thay sự bố thí

Kính thưa bậc Tôn giả

Nhưng thật tốt lành thay

Bố thí trong thiếu thốn

Lành thay sự bố thí

Phát xuất từ lòng tin

Lành thay sự bố thí

Với tài sản hợp pháp

Lành thay sự bố thí

Có suy tư sáng suốt

Lành thay sự bố thí

Đối với các chúng sanh

Giữa chúng sinh hữu tình

Ai sống không làm hại

Sợ người khác chỉ trích

Không làm ác bất thiện

Chúng khen kẻ thanh tịnh

Nhưng chỉ trích người hùng

Chính sợ sự chỉ trích

Người lành không làm ác.”

Đời sống của cải vật chất, người tại gia cần phải hoạt động để mưu sinh, đó là điều tất nhiên và hẳn có, nhưng sự mưu sinh như thế nào cho chính đáng. Trong tinh thần Phật dạy, người tại gia cư sĩ sống đời thế tục, cần phải tích chứa tài vật mà chính bản thân mình kiếm được một cách hợp pháp, bằng lao động chân tay, bằng những giọt mồ hôi đổ xuống, và cuối cùng làm giàu một cách hợp lý thì đó không phải là điều phi pháp, xấu xa. Nhiếp sự bố thí này là điều kiện tác thành sự hòa hiệp trong gia đình và xã hội là chiều hướng đưa đến sự bình an cho mai sau. Giá trị đích thực của bố thí làm nền tảng cho mọi pháp lành và là động cơ thúc đẩy con người tham hiểu nội dung giáo pháp trên tiến trình tu đắc, chứ không phải ý nghĩa đơn thuần trong việc sinh hoạt hòa hợp và lợi ích trong cộng đồng con người mà thôi.

Trước tiên, bản thân con người thực hành bố thí là chia sẻ tình cảm vật chất, những gì mình sẵn có cho những người chung quan mình. Từ đó, sự thực hành càng được đẩy xa hơn, tâm hồn con người càng mở rộng để tiếp nhận tinh thần giáo pháp và sự kinh nghiệm đích thực nơi bản thân để thấy rõ ý nghĩa của sự vật là vô ngã và cuộc đời là vô thường, bản chất của cải, danh vọng dễ tan vỡ như giọt sương đầu cành. Một khi con người đã nhận chân được sự thật của sự vật là vô thường, khổ, vô ngã thì chừng ấy con người mới rộng lòng bố thí trong tinh thần “bố thí chúng sinh, cúng dường chư Phật.”

Đối với các vị Bồ tát, sự bố thí của các Ngài không phải là chỉ tiền bạc, tài vật mà bố thí ngay cả bản thân, các Ngài hy sinh sự sống của mình để mong cầu sự sống cho kẻ khác. Đó chính là mục đích xây dựng sự bình an cho muôn loài, mà không nghĩ đến hạnh phúc riêng tư cho chính mình. Đây chính là sự bố thí cao cả của một tâm hồn cao thượng, nhưng, đạt được kết quả to lớn như vậy, không phải chỉ là sự thành tựu của hạnh bố thí một sớm một chiều mà là Bồ tát có cả một tiến trình tu tập hành trì lâu dài. Và như vậy, các Ngài đã thể nhận được hương vị của giáo pháp, chứng nghiệm được giá trị sâu sắc của giáo lý Duyên sinh hay tinh thần vô ngã. Vì vậy, công hạnh bố thí là giá trị thực tiễn trong đời sống con người cũng như trong vị trí của giáo pháp, pháp thí, vô úy thí. Lục Ba la mật, thì bố thí Ba la mật đứng đầu. Con người có thành tựu bố thí Ba la mật thì mới có thể thành tựu giới Ba la mật. Lục độ vạn hạnh của Bồ Tát.

B- ÁI NGỮ (Poyyajja):

Lời nói hòa nhã, từ ái; lời nói chứa đựng tình thương yêu tha thiết, và lời nói mang hai ý nghĩa: thể hiện tình thương yêu và lòng kính trọng.

Hai yếu tố yêu thương và kính trọng này là chất liệu làm cho con người xích lại gần nhau hơn, là sợi dây liên kết tạo tình cảm để xây dựng nếp sống hài hòa. Con người giàu lòng bố thí, nhưng nếu đánh mất lòng kính trọng, thì sự bố thí ấy cũng mất ý nghĩa. Không phải con người có tiền của rồi có thể cho ai cũng được. Cho bằng cung cách khiếm nhã, bằng lời nói tự thị, thì sự bố thí ấy ngang bằng như không bố thí, và chẳng ích lợi gì. cũng như trong gia đình, bổn phận người con cung phụng săn sóc Cha Mẹ trong lúc tuổi già, nhưng sự cung phụng không chỉ đơn thuần có cơm ăn áo mặc, tiền bạc tiêu xài; người con còn tỏ ra có lòng thương yêu kính trọng. Bởi vậy, trong sự sinh hoạt hàng ngày, một việc làm được thể hiện mà thiếu hai yếu tố: tình yêu và sự kính trọng thì việc làm ấy được coi là mất ý nghĩa và tính cách thiết thực trong sự chân thành của con người. Con người bố thí mà không có lòng yêu thương và sự kính trọng thì không khác nào nhà mình sẵn của rồi đem vung vứt cho ai cũng được, hay thấy kẻ ăn xin đứng trước cửa nhà, cảm thấy bực bội, mang vài đồng tiền lẻ ra cho để họ đi khuất mắt. Nếu con người bố thí với thái độ như vậy thì chẳng có ân huệ gì đối với người nhận của bố thí và cũng chẳng tốt đẹp đối với người bố thí, cả hai đều mang mặc cảm của kẻ có tiền và người ăn xin. Như vậy, tình người sẽ không xích lại gần hơn mà còn đào thêm hố sâu ngăn cách trong mặc cảm giai cấp xã hội. Vì vậy, sự bố thí chỉ thật sự có ý nghĩa cao thượng khi mà giá trị của cả hai tâm hồn đều được tôn trọng. Tâm tình của người bố thí không thấy mình mang của đem cho và không tự hãnh diện rằng mình là người có của vì lòng thương hại mà ban cho và tâm tình của người được bố thí cũng sẽ không thấy mình là người thấp kém trong xã hội để tự nhận của cải vật chất do người khác ban cho. Được như vậy, sự bố thí mới ích lợi cho cả hai, tạo thành sự bình an cho chính mình và cho người.

Để thể hiện tình thương yêu và lòng kính trọng đó, con người bộc lộ qua lời nói từ hòa, nhã nhặn, dịu dàng. Nhiếp sự ái ngữ là sợi dây thắt chặt tình người và nâng cao giá trị sống cũng như tư cách con người, để từ đây tâm hồn con người được mở rộng, hòa tan trong đại thể.

C- LỢI HÀNH (Atthacariyà):

Việc làm mang lại sự lợi ích cho mọi người. Việc làm lợi ích ở đây có nghĩa là lợi ích về vật chất, tạo điều kiện thuận lợi để giúp đỡ người khác trong những lúc nguy khốn hay gặp phải khó khăn. Nói rộng ra, có thể hướng dẫn con người làm các việc hữu ích cho tha nhân, vun bồi lòng nhân đạo, chỉ vẽ con người lầm đường trở về chánh kiến, sống đúng theo tinh thần giáo pháp mà Đức Phật đã giảng dạy.

Đời sống con người trong xã hội là một sự tương quan mật thiết với nhau, không cá nhân nào đơn thuần để sống mà không có sự liên hệ với người khác. Vì vậy, con người có mặt trong cuộc đời là do một thời tạo tác của chính mình, cũng như tương quan nghiệp – cộng nghiệp để sinh tồn.

Trên cái nhìn tổng quát, mỗi con người đều mang một hạnh nghiệp riêng biệt, tuy cùng sống chung trong xã hội, nhưng không một người nào giống người nào, trong hoàn cảnh chung có trường hợp riêng, cho nên trong sự sống con người chỉ bình đẳng trên phương diện tổng quát mà không thể bình đẳng trên lãnh vực cá biệt. Do điều kiện thuận lợi thì đời sống con người tương đối thảnh thơi và còn tìm thấy sự bình an cho chính mình. Nhưng nếu hoàn cảnh đưa đẩy khó khăn hay chính tự thân là người bất hạnh thì cuộc đời sẽ tối tăm, bịnh hoạn và phiền nhiễu. Vì vậy, sự sống trong xã hội là một trường tranh chấp, hỗn độn và bất công, tạo ra nhiều giai tầng giàu sang, đói rách, túng quẫn. Từ đấy, con người phải vật lộn mưu sinh, lang thang để tìm sự sống, do đó họ không có thời gian để suy tư đến vấn đề đạo đức và nhận chân được thiện và bất thiện. Như vậy, có thể nói rằng con người không những chịu sự bất công trên lãnh vực vật chất mà ngay cả trên phương diện tinh thần, học hỏi nghiên cứu giáo pháp để phát huy con đường tu tập như nhau.

Do sự chênh lệch đời sống giữa người và người như vậy, người thực hành nhiếp sự lợi hành là luôn lưu tâm và giúp đỡ những người thiếu phương tiện sống, bị khốn khó, đói rét, luôn giúp đỡ những người bịnh hoạn và dìu dắt những người bần cùng cô khổ để làm vơi đi những nỗi sầu tha nhân và tạo điều kiện tốt cho họ sống đời lương thiện, để thăng hoa thánh quả.

Tâm tư ai thì tự người ấy biết, đời sống ai thì tự người ấy cảm nhận. Vì vậy, con người có gặp hoàn bất hạnh, cảnh khốn cùng thì mới nếm được mùi vị đắng cay của cuộc đời. Ai có đến với những người gặp hoạn nạn mới cảm nhận được nỗi thương đau và ý nghĩa của sự chia lìa cách biệt, và từ kinh nghiệm đó, con người mới chứng nghiệm được nỗi thống khổ của cuộc đời như thế nào.

Tự bản thân nhiếp sự lợi hành này cũng giống như các nhiếp sự khác, không chỉ nói lên tinh thần hòa hợp trong sự giúp đỡ và khuyến khích giềng mối liên quan giữa người và người, mà thực chất còn tiến xa hơn nữa, tạo điều kiện để con người gần gũi nhau, cùng nhau học hỏi, hành trì trong tinh thần giáo pháp để cùng nhau tiến trên lộ trình tu tập giải thoát...

D- ĐỒNG SỰ (Samanàtatà):

Có nghĩa là cùng có chung một mục đích, hay đồng mang tính chất giống nhau. Cộng đồng người trong xã hội hay đoàn thể sinh hoạt Tăng già, có điều kiện hưng thịnh và vững mạnh lâu dài tất yếu mỗi cá nhân phải ý thức mục đích và trong mọi sự sinh hoạt cũng đều nhắm đến mục đích chung đó.

Quan niệm về đời sống con người, phần lớn có chiều hướng cá nhân và dành quyền lợi riêng tư, vì vậy, nhiếp sự đồng sự này là tinh thần xóa bỏ lằn mức cá biệt để hòa mình trong quảng đại quần chúng. Dù rằng đời sống con người có khác, nhưng không thể khác một điểm là cùng chung mưu cầu sự bình an và hạnh phúc trong hương vị giáo pháp, mục đích con người là muốn thoát khỏi mọi sự ràng buộc, khổ đau để trở về với sự an lạc của tâm hồn và niềm hỷ lạc vĩnh viễn.

Môi trường thực hành nhiếp sự đồng sự, chính là sự sinh hoạt hằng ngày của con người, từ bản thân đến gia đình, quốc gia và xã hội, là vấn đề để con người chiêm nghiệm và thấy đó là nguyên nhân mang đến sự sai biệt. Sai biệt từ nếp sống, từ tâm tư và từ những ước vọng để cuối cùng tìm ra một nguyên tắc kết hợp sự sai biệt ấy thành nhất thể. Khi có nguyên tắc kết hợp và kinh nghiệm bản thân, con người nhận chân nỗi thống khổ của kẻ khác để thấy rõ nỗi khổ của bản thân mình, và lấy đó làm mục đích để hòa đồng giữa mình và tha nhân. Cuối cùng, con người từ ý thức chiều hướng cá nhân dần dần đi đến ý thức tập thể và khỏa lấp toàn diện những mối ngăn cách giữa mình và người để nhận diện nỗi đau khổ và hạnh phúc của cuộc đời.

Đây chính là ý nghĩa đồng sự cùng chung mục đích, khuynh hướng để dẫn con người đạt đến một đời sống hòa đồng trên tinh thần bình đẳng. Nghĩa là nhiếp sự đồng sự không chỉ đồng nhất trên mặt sinh hoạt hằng ngày của con người mà còn là đồng nhất trên mục đích tối hậu để giải phóng con người toàn diện.

Mở cuộc hành trình thật dài để đi tìm sự bình an cho lòng mình, con người không thể chối bỏ môi trường mình đang sống. Con người đừng mơ tưởng cái gì đâu xa, mà ngay trước mặt, trong sinh hoạt hằng ngày bóng dáng hạnh phúc và sự bình an luôn hiện hữu. Vì con người đi quá xa nên đánh mất cái thực tại, cái mà con người được sinh ra trong môi trường gia đình, quanh những người thân và được trưởng thành trong ý vị tình người. Và từ đó, con người lớn khôn thành đạt mục đích trong cuộc đời. Chính yếu tố thực tại mà bốn nhiếp sự: bố thí, ái ngữ, lợi hành, đồng sự được cụ thể hóa trong đời sống hiện tại của con người và mang trọn vẹn ý nghĩa yêu thương của hương vị tình người, tình đạo được thể hiện qua tinh thần giáo pháp.

Mùa An Cư Phật lịch 2551, Chùa Phật Đà, San Diego, ngày 15 tháng 6 năm 2007

Thích Nguyên Siêu

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
26/05/2012(Xem: 6167)
Khi trí tuệ được thắp sáng, bóng tối vô minh nhiều kiếp liền được xua tan, cuộc đời hết tối tăm, cho người người đều được hưởng trọn niềm vô biên phúc lạc.
07/01/2012(Xem: 6727)
Theo giới luật truyền thông của đạo Phật thì hàng năm, bắt đầu từ 15 tháng Tư trở đi cho đến 15 tháng Bảy âm lịch, toàn thể chư Tăng Nitu học theo truyền thống thừa Bắc tông đều thực hành quy chế cấm túc, an cư tại các trú xứ như chùa chiền, tịnh xá, tịnh thất. Cấm túc an cư có nghĩa là giới hạn việc cư trú và sinh hoạt trong phạm vi một trú xứ,hạn chế tối đa việc đi lại và sinh hoạt ở bên ngoài, dành trọn thời gian ba táng an cư cho việc nghiêm trì giới – pháp của Đức Phật... An cư nghĩa là khoảng thời gian người xuất gia chuyên tâm tu trì lời Phật dạy hay còn gọi là thúc liễm thân tâm theo giáo pháp và giới luật do Đức Phật tuyên thuyết.
20/12/2011(Xem: 3500)
Theo giới luật truyền thông của đạo Phật thì hàng năm, bắt đầu từ 15 tháng Tư trở đi cho đến 15 tháng Bảy âm lịch, toàn thể chư Tăng Ni tu học theo truyền thống thừa Bắc tông đều thực hành quy chế cấm túc, an cư tại các trú xứ như chùa chiền, tịnh xá, tịnh thất. Cấm túc an cư có nghĩa là giới hạn việc cư trú và sinh hoạt trong phạm vi một trú xứ, hạn chế tối đa việc đi lại và sinh hoạt ở bên ngoài, dành trọn thời gian ba táng an cư cho việc nghiêm trì giới – pháp của Đức Phật.
01/09/2011(Xem: 6276)
Khi Đức Phật còn tại thế, Ngài có đặt ra một giới luật cho hàng tu sĩ là: - Hằng năm, trong 3 tháng mưa (mùa hè ở Ấn Độ), chư tăng ni khôngđược phép du hành ra ngoài, mà phải trú tại một tự viện để tích cực tu học. Nếu có chuyện cần thiết, chỉ được phép xuất viện trong thời hạn không quá 6 đêm, rồi phải trở về chùa.
11/08/2011(Xem: 2519)
Mùa hạ năm nay, cũng như những năm trước, đoàn Phật tử chúng tôi lại có đủ phước duyên cúng dường “Bánh Hoan Hỷ” đến chư tôn thiền đức Tăng Ni tại một số trường hạ, trong đó có trường hạ Thiền viện Viên Chiếu. Xin được nhắc lại rằng tên của món bánh cuốn này do Ni sư Như Đức, trụ trì thiền viện đặt cho, vì Ni sư nhận thấy sự rất hoan hỷ của đoàn chúng tôi từ trong tâm thể hiện ra ánh mắt và nụ cười thật tươi của cả đoàn khi tráng bánh cuốn cúng dường. Chúng tôi cũng thích cái tên dễ thương đó.
17/07/2011(Xem: 6551)
Sau khi Đức Phật nhập diệt, Trưởng lão Māhakassapa (Ma-ha Ca-diếp) triệutập 500 vị Tỳ-khưu A-la-hán để trùng tụng Pháp và Luật. Các vị Tỳ-khưu quyết định trùng tụng trong dịp an cư mùa mưa tại Rājagaha (Vương Xá) vì“thành Rājagaha đúng là nơi có tiềm năng về vật thực và có nhiều chỗ trú ngụ”.Trước khi an cư, các vị bỏ ra một tháng để sửa chữa nơi trú ngụ.
08/07/2011(Xem: 6818)
Trước những thành tựu của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật hiện đại ngày một xuất hiện nhiều sản phẩm cứu người và giết người tân kỳ mới lạ, con người thường xuyên đứng trước những ngã ba đường của sự chọn lựa thiện ác, khen chê.
08/06/2011(Xem: 8179)
Ngày nay, y theo lời dạy của Đức Từ Phụ Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật, khắp nơi nơi, Chùa chiền, Tu viện, Thiền viện hằng năm đều trang trọng tổ chức chu toàn cho tứ chúng được hội tụ về tham dự mùa an cư, sau đại lễ Phật đản.
19/05/2011(Xem: 3697)
An cư nguyên là phương thức quy định từ xưa của Bà-La-Môn giáo Ấn Độ, về sau được Phật dùng làm chế độ quan trọng trong đời sống tu hành. Ngài Đạo Tuyên đời Đường giải thích về an cư như sau: “Thân tâm giữ lặng lẽ là An, ước định thời kỳ để ở là Cư. Ở chổ lặng lẽ để tư duy là quy tắc chơn chánh của đạo; lý phải tính từng ngày, gia công sách tấn”. (trích Phiên Dịch Nghĩa Tập).
07/02/2011(Xem: 18191)
Toàn bộ lý do vì sao phải học tập về Giáo Pháp (Dhamma), những lời dạy của Đức Phật, là để tầm cầu một con đường vượt qua khổ não, đạt đến an bình và hạnh phúc.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567