Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Nhớ nghĩ về loài voi trong Phật giáo

18/03/201920:54(Xem: 3411)
Nhớ nghĩ về loài voi trong Phật giáo


Nhân Đại Lễ Vesak LHQ 2019

NHỚ NGHĨ VỀ LOÀI VOI TRONG PHẬT GIÁO

voi 2_vhưu
voi1_vhưu

         Con Voi đầu tiên xuất hiện trong lịch sử đức Phật Thích Ca là “Ông” bạch tượng sáu ngà.

 

         Một đêm cuối tháng 7 năm 625 trước Tây lịch, hoàng hậu Ma-Da nằm chiêm bao thấy một “thớt” Voi trắng còn non từ trên không trung hạ xuống hoàng cung, rồi bay xuyên qua hông phải vào thẳng trong lòng, liền sau đó cả ngàn vị thần tiên xuất hiện chầu chực và ca ngợi bà. Giật mình thức dậy, thấy người khỏe khoắn và nhẹ nhàng, hoàng hậu biết mình đã mang thai.

          Chín tháng sau, tại vườn Lâm Tỳ Ni, cạnh một cây Vô Ưu, hoàng hậu hạ sanh một thái tử, đặt tên là Tất-Đạt-Đa, chính là đức Phật Thích Ca sau này… Hình tượng Bạch Tượng có ba cặp ngà thật thiêng liêng và thánh thiện, bởi thớt Voi trắng này mang xuất xứ từ cõi trời cao, trên ấy ắt hẳn có muôn trùng chư Phật, Bồ Tát, Thánh Chúng, chư Thiên mà cõi trần gian bụi bặm có biết bao nhiêu người mong cầu được đặt chân lên.

          Cho nên, ở nhiều tự viện chùa chiền, khi thiết lập cảnh một vườn Lâm-Tỳ-Ni để chào mừng đại lễ Phật Đản hằng năm, thường không quên tạo dựng hình ảnh của Bạch Tượng Sáu Ngà.

           Là Phật tử, chúng ta chắc chắn cũng chẳng lạ gì hình tượng của Bồ Tát Phổ Hiền cưỡi một con Voi trắng có sáu ngà, cùng với Bồ Tát Văn Thù cưỡi con sư tử da màu xanh, thường hầu hai bên đức Phật Thích Ca trên các ngôi chánh điện.

Theo“Kinh Phổ Diệu” chép rằng: “Từ trên trời Đâu Suất, Bồ Tát liền thả uy linh xuống, hóa thành con Voi trắng, miệng có sáu ngà…”. Con Voi trắng mà Bồ Tát Phổ Hiền cưỡi là để biểu hiện lòng đại từ. Sáu ngà Voi biểu hiện cho “lục độ” (6 phương pháp đến bờ bên kia để giải thoát sinh tử luân hồi, gồm: bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định và trí tuệ). Bốn chân Voi biểu hiện cho “4 điều như ý” (tức 4 dạng thiền: sơ thiền, nhị thiền, tam thiền và tứ thiền). Sáu chiếc ngà của bạch tượng mà Bồ Tát Phổ Hiền cưỡi còn tượng trưng cho 6 thần thông vô lậu của Bồ Tát. Vì vậy, con Voi trắng sáu ngà hoàn toàn không giống với những con Voi ở trong tự nhiên, những con Voi chưa được thuần hóa đang ở trong rừng quốc gia Yok Đôn, hay những con Voi đã trở nên hiền lành ở Buôn Đôn - Daklak mà chúng ta thấy được …

         Trong truyện “Lịch sử đức Phật Thích Ca”, có đoạn khi đức Phật vào rừng Pa-ry-Lay-da để nhập hạ dưới một gốc cây, Ngài liền được Voi Chúa và Khỉ Chúa tự nguyện tìm đến hầu hạ. Sau một thời gian sống chúng với đàn Voi, Phật hiểu được tiếng rống của Voi Chúa mỗi khi nó muốn gọi đàn trở về. Một hôm, Phật thử dùng tiếng rống của loài Voi, Voi Chúa hiểu được, lập tức nó quỳ xuống dưới chân Phật như muốn tỏ bày “Con sẵn sàng tuân lệnh Ngài”.

          Lại có đoạn kể về Đề-Bà-Đạt-Đa lần thứ ba hại đức Thích Ca ngay trong thành Vương Xá, bằng cách mua chuộc một quản tượng để tên này thả Voi dữ ra trên đường Ngài cùng đoàn đệ tử đang đi khất thực. Con Voi dữ vươn vòi, vểnh tai, chạy thình thịch, hùng hổ lao về phía đức Phật, trông thật hung hiểm, nên A- Nan vội xông ra với ý định hi sinh chịu nạn thay cho bổn sư. Phật gọi A-Nan đứng sang một bên, nhưng A-Nan không tuân lệnh, Ngài liền dùng lực thần thông nâng A-Nan lên không trung lúc con Voi dữ đang lao gần đến nơi. Kỳ diệu thay, con Voi điên đang hung hăng dữ tợn bỗng dừng lại, từ từ hạ vòi xuống, khẽ khàng đến đứng bên Phật để cho ngài vuốt ve nó. Sau đó, nó dùng vòi hút bụi dưới đất, thổi lên đầu đức Phật để tỏ lòng tôn kính, rồi mắt không rời Ngài, nó bước đi thụt lui, lùi dần, lùi dần cho đến khi vào hẳn trong chuồng…

          Điện ảnh Nhật Bản có dựng bộ phim “Phật Thích Ca” (đã từng chiếu ở các rạp chiếu bóng trong nước ta trước năm 1975, nay phát hành lại dưới dạng đĩa VCD có bán rộng rãi ở các thư quán trong những chùa lớn, hoặc đã phổ biến qua dạng YouTube mở xem được trên các trang mạng Phật Giáo như Thư Viện Hoa Sen, Tu Viện Quảng Đức…), kịch bản có đoạn vua A-Xà Thế nghe lời xúi giục của Đề-Bà-Đạt-Đa, đã bắt hết tăng đoàn của đức Phật Thích Ca, trói từng người vào các tấm ván, xích chặt hết tứ chi, kéo ra bãi đất trống cho Voi dữ hành hình trước bàn dân thiên hạ. A-Nan là vị tăng bị kéo ra bãi đầu tiên, ai cũng đau lòng và lo sợ, nhưng A-Nan vẫn điềm nhiên, miệng râm ran niệm Phật gia hộ. Con Voi dữ khổng lồ giương chân trước đạp xuống cái đầu tiền, nát tấm ván bên dưới hông của A-Nan. Cái đạp thứ hai đầy uy lực giáng xuống… hụt, chân nó dẫm sát bên cổ và vai của vị tăng trẻ. Lần thứ ba, bàn chân to ầm của Voi dẫm suýt trúng đầu A-Nan. Quản tượng dùng roi vọt ra lệnh cho Voi lần nữa. Lần này, con Voi dữ nhấc cả hai chân trước lên cao, và dập xuống… hai chân hạ xuống còn cách đầu và mình A-Nan chừng nửa thước thì… dừng lại, bất động . Vua A -Xà -Thế chứng kiến đầu đuôi, thấy hiểu ra điều linh thiêng nhiệm mầu của phép Phật, vội ra lệnh thả hết tăng sư.

          Đạo hạnh của người xuất gia theo Phật tu học đã sáng ngời lên, lan tỏa muôn phương, khiến cho những con Voi hung hăng dữ tợn cũng phải cảm nhận được, nhìn thấy ngay được bằng trực giác của chúng, cho nên chúng phải tuân theo mệnh lệnh mà người trần mắt thịt không ai nghe thấy được: “Bất khả xâm phạm!”. Đức Phật, chư Bồ Tát, cũng như bao đệ tử Ngài đã không cần dùng đến bạo lực, không dùng roi vọt, không dùng giáo nhọn gậy sắt, cũng không nạt nộ hung tợn, quát tháo dữ dằn để thuần dưỡng loài Voi to tê hung hiểm. Chỉ bằng tâm Từ Bi, bằng niềm tin vào Chánh Pháp, bằng ánh mắt bao dung, bằng cái vuốt ve độ lượng thân thiện, bằng những lời nhã nhặn chân thành, và trên hết là bằng đạo hạnh thơm ngát của mình, Phật và đệ tử của Ngài đã thu phục được, trấn áp được, chiến thắng được những thế lực hung bạo- tàn ác của cả loài người và loài vật trên cõi hồng trần khổ lụy bi ai… 

       

Vĩnh Hữu - Tâm Không

 

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
01/01/2018(Xem: 39929)
Đại Bảo tháp Phật giáo cổ xưa Nelakondapalli ở huyện Khammam đang ở giai đoạn cuối của việc tu sửa. Với kinh phí khoảng 6 triệu Rupee, Cục Khảo cổ học và Bảo tàng đã thực hiện công việc để Đại Bảo tháp khôi phục lại vinh quang ban đầu và để bảo tồn kiến trúc cổ xưa này cho hậu thế. Di tích Phật giáo này, tọa lạc cách thị trấn Khammam khoảng 22 km, là một trong những điểm đến du lịch nổi tiếng nhất của bang Andhra Pradesh. Đại Bảo tháp đồ sộ, vốn đã tồn tại qua nhiều thế kỷ của sự hao mòn, đang được tu sửa sau khi cư dân và các sử gia địa phương nhiều lần cầu xin để bảo tồn di tích lịch sử có tầm quan trọng lớn lao về khảo cổ học này. Cục khảo cổ học cho biết loại gạch đặc biệt được đặt làm cũng như các vật chất kết nối tự nhiên đã được sử dụng để tăng cường cho cấu trúc của Đại Bảo tháp. (bignewsnetwork – April 18, 2015)
15/11/2017(Xem: 8042)
Phật Giáo Hoa Tông theo dòng lịch sử - HT Thích Thiện Nhơn
26/10/2017(Xem: 8424)
Tông Câu-xá ngày nay không còn, mặc dù trước kia, tông ấy đã có một thời hưng thịnh với rất nhiều người tu tập theo. Tuy nhiên, ảnh hưởng sâu sắc của tông này cho đến nay vẫn còn rất rõ rệt trong Phật giáo. Tên gọi Câu-xá của tông này vốn được phiên âm từ tiếng Phạn là Kośa, có nghĩa là “kho báu”. Đây cũng là tên gọi một bộ luận nổi tiếng của Bồ Tát Thế Thân. Tên tiếng Phạn của bộ luận này là Abhidharmakoa-stra, phiên âm là A-tỳ-đạt-ma Câu-xá luận, và là giáo lý căn bản của Câu-xá tông. Bồ Tát Thế Thân sinh năm 316 và mất năm 396, sống gần trọn thế kỷ 4. Ngài là người được y bát chân truyền, làm Tổ sư đời thứ 21 của Thiền tông Ấn Độ. Ngài là em ruột của Bồ Tát Vô Trước, người đã sáng lập ra Duy thức tông. Câu-xá tông là một tông thuộc Tiểu thừa, trong khi đó Duy thức tông là một tông Đại thừa. Ban đầu, ngài Thế Thân học theo giáo lý Tiểu thừa, thuộc Nhất thiết hữu bộ, là một trong 18 bộ phái Tiểu thừa đầu tiên của Ấn Độ đã phân chia sau khi Phật nhập diệt khoảng gần 200 năm. Ngà
18/10/2017(Xem: 6497)
Lịch sử Phật Giáo qua tem bưu chính, Trần Thanh Lý biên soạn
06/06/2017(Xem: 8469)
Câu chuyện ly kỳ về việc thiền sư Việt phá giải thuật phong thủy của Cao Biền được ghi chép lại trong “Thiền Uyển tập anh” đã mang lại cho người thời nay thật nhiều câu hỏi. Phong thủy có thật hay không? Định mệnh có thật hay không? Đức tin là thật hay là hư ảo? “Thiền uyển tập anh” hay “Đại Nam thiền uyển truyền đăng tập lục” là tài liệu lịch sử cổ nhất của Phật giáo Việt Nam, ghi lại tương đối hệ thống các tông phái Thiền học và sự tích các vị Thiền sư nổi tiếng từ cuối thế kỷ 6 đến thế kỷ 13, tức là vào cuối thời Bắc thuộc cho đến thời Đinh, Lê, Lý và một số ít vị lớp sau còn sống đến đầu triều Trần.
22/05/2017(Xem: 49653)
Trong bước đầu học Phật, chúng tôi thường gặp nhiều trở ngại lớn về vấn đề danh từ. Vì trong kinh sách tiếng Việt thường dùng lẫn lộn các chữ Việt, chữ Hán Việt, chữ Pali, chữ Sanscrit, khi thì phiên âm, khi thì dịch nghĩa. Các nhân danh và địa danh không được đồng nhứt. Về thời gian, nơi chốn và nhiều câu chuyện trong sự tích đức Phật cũng có nhiều thuyết khác nhau làm cho người học Phật khó ghi nhận được diễn tiến cuộc đời đức Phật. Do đó chúng tôi có phát nguyện sẽ cố gắng đóng góp phần nào để giúp người học Phật có được một tài liệu đầy đủ, chính xác, đáng tin cậy, dễ đọc, dễ hiểu, dễ nhớ và dễ tra cứu khi cần.
18/04/2017(Xem: 9866)
Tập sách này gồm nhiều bản văn được chuyển dịch và trình bày kèm theo nguyên tác Anh ngữ, là các tài liệu trước đây vốn thuộc loại hồ sơ mật hoặc tối mật, nghĩa là chỉ dành riêng cho những người có trách nhiệm mà hoàn toàn không được phổ biến đến công chúng. Phần lớn các tài liệu đó là của chính phủ Mỹ, như các Công điện, Bản Ghi nhớ, Điện tín, Phúc trình... Tài liệu có nguồn từ Bộ Ngoại Giao Mỹ được lấy từ FRUS; ngoài ra còn có các tài liệu từ Tòa Bạch Ốc (Hội đồng An Ninh Quốc Gia NSA), Bộ Quốc Phòng (Pentagon Papers), CIA (tại Sài Gòn và tại Langley), và từ Thượng Viện (Select Committee to Study Governmental Operations).
09/11/2016(Xem: 8492)
Có khoảng 250 Đại Biểu chính thức của Hội Đồng Điều Hành Tăng Gìa Thế Giới gồm 36 Quốc Gia về Đài Bắc, Đài Loan tham dự Hội Nghị từ ngày 6 đến ngày 10 tháng 11 năm 2016 vừa qua. Hòa Thượng Thích Như Điển là thành viên của Ủy Ban Nghiên cứu và phát triển Phật Giáo trên thế giới cùng với đông đảo chư Tăng Ni và Phật Tử Việt Nam cũng đã có mặt trong những ngày trọng đại nầy.
06/07/2016(Xem: 6660)
Hôm nay là ngày 10 tháng 6 năm 2015, tại thư phòng chùa Viên Giác Hannover, Đức Quốc, tôi bắt đầu viết tác phẩm thứ 65 của mình với tựa đề là “Nước Úc trong tâm tôi” để sang năm 2016 sẽ xuất bản và ấn tống. Tác phẩm nầy được viết trong mùa An Cư Kiết Hạ lần thứ 31 của năm Ất Mùi, nghĩa là từ năm 1984 đến nay (2015) cứ mỗi năm ba tháng như vậy, Thầy trò chúng tôi có trọn vẹn 3 tháng an cư tại chùa Viên Giác thật là an lạc. Chương trình mỗi ngày được bắt đầu từ 5 giờ 45 sáng. Đại Chúng vân tập nơi Tổ Đường để xá Tổ, sau đó lên Chánh Điện, hô canh và tọa thiền 15 phút. Sau khi xả thiền, Đại Chúng bắt đầu trì tụng Thần Chú Thủ Lăng Nghiêm, phần giữa của thời khóa có kinh hành niệm Phật ba vòng, tiếp đó lạy danh hiệu của chư Phật, Bồ Tát và Thánh Chúng độ 35 lạy. Sau thời công phu khuya ai về phòng nấy để nghỉ ngơi hay hành trì tiếp, hoặc tập thể dục. Đúng 8 giờ sáng là giờ điểm tâm của Đại Chúng, ai nấy đều tỉnh thức trong lúc dùng sáng, không nói chuyện, mà câu chuyện hằng ngày chỉ được
09/06/2016(Xem: 8146)
Tôi tới một miền quê, kề bên một trận địa vào một buổi chiều hoe nắng. Ở đây, cánh đồng loáng nước nằm dài vắng bóng người nông dân cần mẫn. Nhìn vào thôn xóm không một bóng người, khóm tre xơ xác, mái im lìm ! Qua một đêm, ngủ đỗ, sáng hôm sau trở dậy lên đường. Trong ánh nắng sớm mai, đố ai biết có gì đổi khác. Nhìn vào thôn xóm vẫn không một bóng người, vẫn khóm tre xơ xác, mái tranh im lìm. Nhưng giải đồng loáng nước chiều qua đã xanh rì ngọn mạ. Tôi nghĩ tới bóng trăng đêm trước, đến những đoàn người lũ lụt trở về đây, đến những bàn tay mềm mại cấy từng hàng mạ trên giải đồng rộng mênh mông. Trong lúc bom đạn cứ tơi bời trên các đô thành làng mạc, trong lúc chiến tranh cứ tiếp tục gieo rắc tang tóc và đổ nát thì ở đây, nguời dân ViệtNam thản nhiên gieo nguồn sống. Nhành lúa mới như một tuổi xuân vùng trổi dậy, tượng trưng cho sức sống mảnh liệt cho cả một dân tộc. (tác giả Thích Nhất Hạnh)
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567