Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

02. Trung Quốc

24/01/201212:34(Xem: 5551)
02. Trung Quốc

 

LỊCH SỬ PHÁT TRIỂNPHẬT GIÁO ĐẠI THỪA BỒ TÁT GIỚI

Thích Thái Hòa

- Trung Quốc

Phật giáo từ Ấn Độ truyền đến Trung Quốc có nhiều lập thuyết, song lập thuyết niên hiệu Vĩnh Bình năm thứ 10 là lập thuyết được nhiều nhà sử học thế giới cho rằng có thể tin được.

Theo lập thuyết này, thì khoảng năm 67 sau Tây lịch, vua Hán Minh Đế có một đêm nằm mộng thấy có một người vàng hào quang rực rỡ, đến từ phương Tây làm rạng rỡ cả cung đình.

Nhân ở giấc mộng này, Vua đoán biết có Phật giáo ở phương Tây tức Ấn Độ, do đó Vua sai tướng Thái Hâm, Vương Tuân, Tần Cảnh và phái đoàn gồm 18 người, đi đến phương Tây tức Ấn Độ để thỉnh tượng Phật về thờ.

Trên đường đi đến Ấn Độ, ngang qua Tukhàra (Đại Nhục Chi), phái đoàn đã gặp hai Ngài Phạm Tăng là Ca Diếp Ma Đằng và Trúc Pháp Lan đang chở kinh và tượng Phật bằng Bạch Mã đi về phía Đông, do đó phái đoàn cung thỉnh hai Ngài đến Trung Quốc.

Khi hai Ngài và phái đoàn về đến Trung Quốc, vua Hán Minh Đế mừng rỡ, liền xây dựng chùa Bạch Mã để thờ Phật và làm nơi để hai Ngài dịch Kinh.4

Ngài Ca Diếp Ma Đằng (Kàsyapamàtanga) quê ở Trung Ấn, Ngài học giỏi, nhớ lâu, đạo hạnh tuyệt vời và Ngài thường trì tụng kinh Surannaprapha'sa (Kinh Kim Quang Minh).

Ngài Trúc Pháp Lan (Dharmaraksa), cũng là người Trung Ấn, giới luật rất tinh nghiêm, cả hai Ngài đều ở chùa Bạch Mã ở Trung Quốc để dịch kinh. Tác phẩm của hai Ngài dịch đầu tiên là Kinh Tứ Thập Nhị Chương, và sau đó các Ngài tiếp tục dịch các kinh khác như: Thập Địa Đoạn Kết Kinh (8 cuốn), Pháp Hải Tạng Kinh (1 cuốn), Phật Bản Hạnh Kinh (5 cuốn), Phật Bản Sinh Kinh (1cuốn)...

Nhìn vào các bản kinh của hai Ngài phiên dịch, cũng đủ để thấy rằng, Phật học Đại thừa của hai Ngài uyên bác đến chừng nào và hạnh nguyện Bồ tát tuyên dương chánh pháp của hai Ngài ngang đâu?

Nếu đọc kỹ Kinh Tứ Thập Nhị Chương, do hai Ngài đã phiên dịch thì chúng ta thấy rằng, đây là một bộ kinh không những thuần Đại thừa mà còn xuyên suốt cả giáo lý Nguyên thỉ, trong đó không những chuyên chở tinh thần giới Đại thừa mà cũng chuyên chở xuyên suốt hết thảy giới căn bản.

Chẳng hạn, kinh giải thích về ý nghĩa Sa môn là "người từ bỏ thân thuộc để xuất gia, thấu rõ đến tận nguồn gốc của tâm, biết được pháp đưa đến Niết Bàn. Vị ấy, thường hành trì 250 giới, đi đứng trong thanh tịnh, tu hành là để đạt đến đạo hạnh chân thật, đó là quả vị A La Hán...".

“Người làm Sa môn phải cạo bỏ râu tóc, lãnh thọ pháp của đạo, từ bỏ tài sản thế gian, khất thực vừa đủ, ăn một bữa giữa ngày, ngủ một đêm dưới gốc cây, cẩn thận không trở lại nữa! Phải biết rằng, điều khiến cho con người ngu và tệ là ái và dục".

Đối với học giới thì kinh dạy: "Giữ vững chí nguyện, tâm tự lắng trong, mới có thể lãnh hội và đến được chỗ mầu nhiệm của đạo".

Đối với sự quán chiếu thì kinh nói: "Hãy quán chiếu để thấy rõ linh giác, chính là Bồ đề, biết rõ như vậy thì thành đạo rất mau chóng".

Kinh đã đề cập đến lý tưởng xuất gia và ý nghĩa của đạo như: "Người xuất gia làm Sa môn, là muốn đoạn trừ dục vọng, loại bỏ khát ái, tự biết nguồn tâm, đạt đến lý tính sâu thẳm của Phật. Giác ngộ được pháp vô vi, ở nội tâm tự mình không thấy sở đắc, ở ngoại cảnh tự mình không có chỗ cầu, tâm hằng tự tại, không bị buộc trói bởi đạo và nghiệp, không còn khởi niệm, không còn tác ý, không còn pháp tu, không còn quả chứng, các địa vị tu tập không còn phải trải qua mà tự nó là tối thượng, ấy gọi là đạo vậy".

Rõ ràng, khi hai Ngài đến Trung Quốc để tuyên dương Phật pháp, các Ngài đã đem toàn bộ hệ thống tu học từ thấp lên cao mà truyền bá chứ không thiên một pháp nào.

Nên, hẳn nhiên trong tinh thần Kinh Tứ Thập Nhị Chương do hai Ngài dịch, nó gồm đủ cả tinh thần Thanh Văn giới và Bồ Tát giới.

Tinh thần Thanh Văn giới, Thập Thiện giới thì ở trong kinh đề cập khá cụ thể, nhưng tinh thần Bồ Tát giới hàm chứa ở trong kinh này rất là tế nhị.

Lại nữa, theo Hậu Hán Thư, có chép câu chuyện liên hệ đến Sở Vương Anh tin Phật như sau:

"Năm 65-Tây lịch, vua Hán Minh Đế xuống lệnh cho phép những người nào bị tội nặng được dâng vóc lụa để chuộc tội.

Sở Vương Anh tức là con cùng cha khác mẹ với Vua, được phong tước Hầu Vương năm 41.

Dù năm 52, Sở Vương Anh đã di cư ra Bành Thành, kinh đô của nước Sở. Nhưng, Sở Vương Anh khi nghe chiếu lệnh ấy, mặc cảm rằng mình cũng có tội, nên liền dâng lên vua Hán Minh Đế ba mươi tấm lụa.

Vua Hán Minh Đế xuống chiếu nói rằng: "Vương không có tội gì, trái lại Vương còn có công đức, ...biết sùng thượng giáo lý cao siêu của Hoàng Lão và đức nhân từ bao dung của Phật".

Vương liền làm lễ sám hối, ăn chay ba tháng và tổ chức thịnh soạn cúng dường Tăng sĩ và cư sĩ.5

Nếu đây là một tư liệu có giá trị lịch sử, thì tinh thần từ bi, sám hối, ăn chay, cúng dường của Bồ tát giới đã có rất sớm trên đất Trung Hoa, nghĩa là muộn lắm là khoảng năm 65-Tây lịch, tinh thần Bồ tát giới đã được các hàng Tăng sĩ và cư sĩ ở xứ này phụng hành một cách kính trọng.

Hiển nhiên, tinh thần ăn chay, tinh thần từ bi luôn luôn gắn liền với bản chất của Bồ tát giới trong đạo Phật.

Lại nữa, sau Ngài Ca Diếp Ma Đằng và Trúc Pháp Lan khoảng 80 năm, tức là khoảng năm 147-Tây lịch, thì lại có Ngài An Thế Cao đến Trung Hoa để phiên dịch kinh tạng và tuyên dương chánh pháp.

Ngài là một vị Thái tử của Vua Parthia nước An Tức. Sau khi xuất gia Ngài tu tập thông hiểu Tam tạng, đến Trung Hoa năm 147, hoằng pháp và phiên dịch Kinh tạng tại đây.

Kinh điển do Ngài dịch có 34 bộ gồm 40 cuốn.

Nhưng hiện nay trong Đại Tạng Tân Tu chỉ thấy còn lại một ít như: Tứ Đế Kinh, Chuyển Pháp Luân Kinh, Bát Chánh Đạo Kinh,... đây là những bộ kinh hàm chứa những giáo lý căn bản của Phật học. Và Kinh Phật Thuyết Đại Thừa Phương Đẳng Yếu Tuệ, do Ngài dịch hàm chứa tinh thần Bồ tát đạo rất là sâu xa.

Ở trong kinh này, đức Phật đã dạy cho Bồ Tát Di Lặc tám điểm để không bị thối chuyển đối với pháp Đại thừa, nhằm thực hành Bồ tát đạo và nhiếp phục các ma oán, thành tựu địa vị tối thượng của Nhất Thế trí.

Tám điểm ấy là:

1. Phải có bản chất thanh tịnh từ bên trong (Nội tánh thanh tịnh).

2. Phải thành tựu đối với những điều đã được phụng hành (Sở hành thành tựu).

3. Phải thành tựu các hạnh bố thí (Sở thí thành tựu).

4. Phải thành tựu về hạnh nguyện (Sở nguyện thành tựu).

5. Phải thành tựu lòng từ (Từ thành tựu).

6. Phải thành tựu lòng bi (Bi thành tựu).

7. Phải thành tựu về phương diện thiện xảo (Thiện quyền thành tựu).

8. Phải thành tựu trí tuệ (Trí tuệ thành tựu).6

Ở trong tám điều đức Phật dạy trên, chúng được thâu nhiếp vào tam tụ tịnh giới của Bồ tát giới như sau:

Điều một là thuộc về Nhiếp luật nghi giới.

Điều hai là Nhiếp thiện pháp giới.

Và những điều còn lại thuộc về Nhiêu ích hữu tình giới.

Sự hiện diện của Ngài An Thế Cao trên mảnh đất Trung Quốc là sự hiện diện của một con người thực hành Bồ tát đạo, điều này đã được Ngài Khương Tăng Hội ở thế kỷ thứ III đã nói ở trong bài tựa của Kinh An Ban Thủ Ý như sau: "Có một vị Bồ tát tên là An Thanh, tự là Thế Cao, con đích của vua nước An Tức, sau khi nhường ngôi cho chú, lánh qua đất này...", chính chi tiết này cho ta biết thêm tinh thần truyền bá Bồ tát giới của Ngài An Thế Cao lúc bấy giờ.

Năm 250 TL, Ngài Dharmakàla (Đàm Ma Ka La) và Dharmatràta từ Trung Ấn đến Trung Hoa mới bắt đầu phiên dịch Luật tạng, như Tăng Kỳ Giới Bổn, Đàm Vô Đức Yết Ma... để làm phép tắc trao truyền giới pháp.

Và bản Bồ Tát Phạm Võng Giới Kinh, mãi đến khi Ngài Cưu Ma La Thập (Kumarajira) đến Trung Quốc năm 386-413, mới được phiên dịch.

Bồ Tát Anh Lạc Bản Nghiệp Kinh, do Ngài Trúc Phật Niệm dịch vào đời Diêu Tần khoảng năm 317-419 TL.

Bồ Tát Địa Trì Kinh, Ưu Bà Tắc Giới Kinh, do Ngài Đàm Vô Sấm (Dharmaksa) dịch vào đời Lương, khoảng 412 TL.

Bồ Tát Giới Nội Kinh, Bồ Tát Thiện Giới Kinh, do Ngài Cầu Na Bạt Na (Gunavarman) dịch khoảng 377-431 TL, Ngài còn dịch Tứ Phần Tỷ Khưu Yết Ma Pháp.

Nhờ nhiều thế hệ cao Tăng từ Ấn Độ đến Trung Quốc hoằng hóa và phiên dịch kinh điển, làm cho trên mảnh đất này phát sinh những vị cao Tăng rất vĩ đại như Ngài Chu Sĩ Hành, đã xuất gia tu học, chuyên giảng dạy kinh "Đạo Hành Bát Nhã", và là vị cao Tăng đầu tiên tu học Ấn Độ vào khoảng 260-TL.

Ngài Đạo An (312-385), một vị danh Tăng đời Tiền Tần, học trò của Ngài Phật Đồ Trừng, 12 tuổi xuất gia, thông minh kỳ lạ, lớn lên thọ cụ túc giới, và có công lớn trong sự hoằng truyền Phật pháp.

Ngài đã làm bộ "Kinh Điển Mục Lục", phụ giúp các vị Phạm Tăng phiên dịch kinh điển, Ngài thường giảng dạy Kinh Phóng Quang Bát Nhã cho hội chúng, Ngài chú thích nhiều bộ kinh điển, định ra các Tăng chế như các pháp "Hành Hương, Định Tọa, Sáu Thời Hành Đạo,...thực hành pháp Bố tát và Sám hối".

Ngài dùng họ Thích là họ chung cho những người xuất gia, để nói lên rằng, nó có gốc rễ từ đức Thích Tôn.

- Tuệ Viễn (334-416), Ngài người Nhạn Môn, tỉnh Sơn Tây, thưở nhỏ theo Nho học và Đạo học, năm 21 tuổi cùng với em là Tuệ Trì theo học Phật với Ngài Đạo An, Ngài là người rất thông minh và rất được Ngài Đạo An quý chuộng.

Sau khi trưởng thành, Ngài đến Lư Sơn để tu tập và hoằng pháp, Ngài đã cho hai vị đệ tử là Pháp Tịnh và Pháp Vĩnh sang Ấn Độ để học về Phạn văn.

Ngài đã trước tác "Pháp Tính Luận, Sa Môn Bất Bái Vương Giả Luận, Đại Trí Độ Luận Sao,... Ngài là vị khai sáng "Bạch Liên Xã", tức là những người tu tập tịnh độ. Ở trong Bạch Liên Xã có những vị Tăng sĩ nổi tiếng như: "Tuệ Viễn, Tuệ Vĩnh, Tuệ Trì, Đạo Sinh, Đàm Thuận, Phật Đà Da Xá, Phật Đà Bạt Đà La,... và trong hàng cư sĩ có những vị nổi tiếng như: Lưu Trình Chi, Trương Dã, Chu Tục Chi, Trương Thuyên, Tôn Bính, Lôi Thứ Tôn,...".

Như vậy, đến thời điểm này, Phật giáo không những có gốc rễ từ những hàng Tăng sĩ bản xứ mà còn ảnh hưởng đến hàng vua chúa quan quyền, và tầng lớp trí thức cũng như thứ dân của xã hội Trung Hoa bấy giờ.

Các vua chúa Trung Hoa như Phù Kiên đời Tiền Tần cho đến các vua Diêu Trành, Diêu Hưng đều nhiệt tình ủng hộ Phật giáo về mọi mặt.

Vua Mông Tốn thế kỷ V, đời Bắc Lương cũng rất hết lòng ủng hộ Phật giáo.

Tuy nhiên, Phật giáo từ khi truyền vào Trung Quốc đến thế kỷ V, không phải lúc nào cũng hưng thịnh và cũng có sự ủng hộ của vua chúa , mà trái lại Phật giáo cũng có lúc bị suy vi bởi những nhà vua bài xích và đàn áp Phật giáo như Cao Tổ Võ Đế nhà Tống (420-588 TL).

Nhưng đến đời nhà Lương thì Phật giáo thịnh hành, vua Lương không những là nhà ngoại hộ và thâm tín Phật giáo mà vua còn đem vương quyền và giáo quyền hợp nhất để trị dân.

Vua tự mình soạn ra bài văn "Đoạn tửu nhục" (chấm dứt sự ăn thịt và uống rượu) để quyết tâm tu trì.

Năm 517, vua ra lệnh cho nhân dân không được cúng tế quỷ thần bằng rượu thịt mà chỉ cúng tế bằng hoa quả.

Vào ngày 08 tháng 4 năm 519 lễ Phật Đản, vua lại phát tâm thọ trì Bồ tát giới tại chùa Thảo Đường với Ngài Tuệ Ước, sau đó các công khanh sĩ dân cũng noi gương mà thọ giới pháp cả mấy vạn người. Vua còn ra lệnh mở nhiều pháp hội ở nhiều nơi như: Vô Giá Đại Hội, Bình Đẳng Pháp Hội, Cứu Khổ Trai Đàn, Đại Pháp Hội... để thể hiện hạnh nguyện Bồ tát vậy.

Vua chú sớ kinh Bát Nhã và thường dạy kinh này cho các đình thần văn võ, sĩ thứ và kể cả Tăng sĩ nữa.

- Đời Tùy (581-618), sau khi thống nhất thiên hạ, Tùy Văn Đế lên ngôi, ngoài việc chăn dân vua hết sức phục hưng Phật giáo, xây dựng chùa tháp khắp nơi, hết lòng ủng hộ Tăng Ni tu học và truyền bá Phật giáo.

Trong sự nghiệp phục hưng Phật giáo, Vua nói: "Phật lấy chánh pháp phó chúc cho Quốc vương, Trẫm là Đấng nhân tôn, tuân theo lời phó chúc đó".

Năm 585, Vua phát tâm thọ trì Bồ tát giới với Sa môn Pháp Kính, sau đó Vua hạ lệnh xá ngục tù cho tất cả 24.900 người, giảm tội tử hình cho 3.700 người. Vua còn có lòng từ bi đối với các loài vật, ngày 15-6 là ngày sinh nhật của Vua, vào ngày đó Vua hạ lệnh cấm nhân dân không được giết hại súc vật.

Vua Tùy Văn Đế mất, Thái tử là Tùy Dạng Đế lên ngôi, kế nghiệp Vua cha trị nước, an dân và quảng bá Phật pháp, Vua đã thỉnh Ngài Trí Khải trao truyền Bồ tát giới.

Hết Tùy đến Đường (618-907), Phật giáo cực thịnh, các cao Tăng xuất hiện như Ngài Nghĩa Tịnh, Huyền Tráng, Đạo Tuyên... làm cho Phật giáo ở thời đại này vô cùng rực rỡ.

Ngài Nghĩa Tịnh và Huyền Tráng đều là những nhà du học Ấn Độ và rất giỏi Phạn văn, các Ngài sau khi du học đã trở về nước phiên dịch kinh điển từ Phạn bản sang Hán, sự nghiệp phiên dịch của các Ngài rất là vĩ đại.

Cuối đời Đường, Phật giáo xuống dốc có nhiều lý do chính là do Tăng đoàn suy đồi, vì Tăng đoàn đã trở nên hỗn tạp, những vị chính tâm tu tập thì ít, nhưng những kẻ lợi dụng đạo để mưu cầu cá nhân thì nhiều, do đó Tăng đoàn không đủ đạo lực để nhiếp hóa những kẻ ngoại hộ và ngoại đạo, nên đã đưa đến tình trạng Võ Tôn phế Phật (842).

Hết đời Đường đến đời Tống (960-1279), Phật giáo hưng thịnh trở lại, các bậc cao Tăng xuất hiện, Vua Tống Thái Tổ ra lệnh phục hưng Phật giáo, độ cho 800 đồng tử xuất gia, mời các danh Tăng về cung dạy đạo, cử 157 người đi Ấn Độ để cầu Pháp.

Đến đời Vua Tống Thái Tôn cũng tiếp tục phục hưng Phật giáo, vua phát tâm thọ trì Bồ tát giới.

Đến Vua Tống Nhân Tông, cũng rất thâm tín Phật pháp,Vua đã yêu cầu Ngài Pháp Hiền mở "Cam lồ pháp đàn" để thí giới.

Trong truyền thống giới đàn của Phật giáo Bắc Phạn và nhất là ở Trung Hoa, phần nhiều những giới tử cầu thọ cụ túc giới đều kèm theo thọ trì Bồ tát giới và nhiên hương ở đỉnh đầu để cúng dường Phật, nhằm nêu cao tinh thần thực hành Bồ tát đạo.

Sự hưng vượng hay suy vong của Phật giáo ở trung Quốc từ những triều đại trước và kể những triều đại sau Tống, yếu tố chính vẫn do tâm nguyện tu học của hàng Tăng sĩ và cư sĩ có kiên cố và đạo hạnh hay không? Nếu tu học mà không có chánh tâm là tâm Bồ đề thì Phật pháp khó mà bảo toàn chứ đừng nói là hưng vượng.

Tóm lại, bất cứ thời điểm nào và ở đâu, các Tăng sĩ vừa là Bậc có đạo hạnh, vừa là Bậc có tâm huyết hoằng pháp, thì lúc đó và ở đó, Phật pháp không bị dứt tuyệt. Và hàng cư sĩ dốc lòng hộ đạo, thọ trì Bồ tát giới, thì dù Thiên Ma có cầu mong chánh pháp hủy diệt, chúng cũng hoàn toàn bị thất vọng.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
09/06/2016(Xem: 7975)
Tôi tới một miền quê, kề bên một trận địa vào một buổi chiều hoe nắng. Ở đây, cánh đồng loáng nước nằm dài vắng bóng người nông dân cần mẫn. Nhìn vào thôn xóm không một bóng người, khóm tre xơ xác, mái im lìm ! Qua một đêm, ngủ đỗ, sáng hôm sau trở dậy lên đường. Trong ánh nắng sớm mai, đố ai biết có gì đổi khác. Nhìn vào thôn xóm vẫn không một bóng người, vẫn khóm tre xơ xác, mái tranh im lìm. Nhưng giải đồng loáng nước chiều qua đã xanh rì ngọn mạ. Tôi nghĩ tới bóng trăng đêm trước, đến những đoàn người lũ lụt trở về đây, đến những bàn tay mềm mại cấy từng hàng mạ trên giải đồng rộng mênh mông. Trong lúc bom đạn cứ tơi bời trên các đô thành làng mạc, trong lúc chiến tranh cứ tiếp tục gieo rắc tang tóc và đổ nát thì ở đây, nguời dân ViệtNam thản nhiên gieo nguồn sống. Nhành lúa mới như một tuổi xuân vùng trổi dậy, tượng trưng cho sức sống mảnh liệt cho cả một dân tộc. (tác giả Thích Nhất Hạnh)
19/05/2016(Xem: 26652)
Bắt đầu từ ngày 06 tháng 4 năm 2016, cá biển tự nhiên và cá nuôi lồng bè của ngư dân ven biển chết hàng loạt, bắt nguồn từ khu kinh tế Vũng Áng (thị xã Kỳ Anh, Hà Tĩnh), lan xuống các tỉnh lân cận (Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên-Huế, Quảng Nam-Đà Nẵng…) suốt dọc trên 200 cây số bờ biển. Ngay cả rạn san hô, “nhà ở” của các sinh vật dưới biển, cách bờ biển từ 1-6 hải lý, chạy dài từ đầu tỉnh đến cuối tỉnh Quảng Bình, cũng đã bị phá hủy trong các đợt cá chết vừa qua; san hô chết, nhiều sinh vật biển chết theo (theo báo cáo ngày 06.5.2016 của chính quyền địa phương thôn Nhân Nam, xã Nhân Trạch, huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình).
09/04/2016(Xem: 15293)
Đôi lời về Xá Lợi Phật_Lạt Ma Zopa Rinpoche_Hồng Như dịch, Bảo Tháp thờ Xá Phật còn sót lại ở Thành Tỳ Xá Ly, Ấn Độ (hình phái đoàn hành hương Phật tích Ấn Độ của Tu Viện Quảng Đức tháng 11-2006)
19/01/2016(Xem: 5601)
Năm nay, 2016, đánh dấu 50 năm Phật Giáo Việt Nam có mặt tại Hoa Kỳ, tính từ năm 1966, khi mà Cố Hòa Thượng Thích Thiên Ân đến Mỹ dạy tại Đại Học UCLA và ở lại luôn để truyền bá Phật Giáo Việt Nam tại đây. Vì vậy, Cố Hòa Thượng Thích Thiên Ân là vị sơ tổ của Phật Giáo Việt Nam tại Mỹ. Nhưng trước hết xin nhìn thoáng qua một chút về bối cảnh Phật Giáo Mỹ.
06/01/2016(Xem: 16236)
Có thể nói Phật giáo Việt Nam trong tình hình phát triển hiện nay tuyệt đại bộ phận do sự tác động mạnh mẽ của bảy dòng thiền chính, trong đó bốn dòng trực tiếp kế thừa các dòng thiền từ Trung Quốc và bốn dòng được phát sinh tại đất nước ta. Bốn dòng từ Trung Quốc, nếu dựa vào thứ tự truyền nhập vào Việt Nam là các dòng Bút Tháp của Viên Văn Chuyết Công (1590 – 1644), dòng Thập Tháp của Siêu Bạch Thọ Tông (1648–1728), dòng Quốc Ân của Nguyên Thiều Hoán Bích (1648–1728), cả ba dòng này đều thuộc phái Lâm Tế và dòng Hòe Nhai của Thủy Nguyệt thuộc phái Tào Động. Ba dòng còn lại thì đều xuất phát tại Việt Nam hoặc do kết hợp một dòng từ Trung Quốc như Bút Tháp với một dòng tồn tại lâu đời tại Việt Nam như Trúc Lâm, mà điển hình là dòng Long Động của thiền sư Chân Nguyên Tuệ Đăng (1647–1726) hoặc do các vị thiền sư người Việt Nam hay Trung Quốc hành đạo tại Việt Nam xuất kệ thành lập dòng mới, cụ thể là các dòng thiền Chúc Thánh của thiền sư Minh Hải Pháp Bảo (1670–1746) và Thiên Thai
06/07/2015(Xem: 11496)
(Bài này được trích dịch từ tài liệu có tên “Những Giới Hạn Trong Các Vùng Biển” (Limits In The Seas) mang số 143 với tựa đề “Trung Quốc: Tuyên Bố Chủ Quyền Biển Trong Biển Nam Trung Hoa (Biển Đông)” (China: Maritime Claims In The South China Sea) được Văn Phòng của Vụ Đại Dương và Vùng Cực (Office of Ocean and Polar Affairs), Văn Phòng của Vụ Đại Dương và Môi Trường và Khoa Học Quốc Tế (Bureau of Ocean and International Environmental and Scientific Affairs) của Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ (US Department of State) công bố ngày 5 tháng 12 năm 2014 – (Nguồn: http://www.state.gov/documents/organization/234936.pdf ). Mục đích của nghiên cứu này là để xem xét tuyên bố về biển và/hay các biên giới của Bộ Ngoại Giao và đánh giá sự phù hợp với luật quốc tế. Nghiên cứu này đại diện quan điểm của Chính Phủ Hoa Kỳ chỉ đối với những vấn đề đặc biệt được thảo luận trong đó và không nhất thiết phản ảnh sự chấp thuận những giới hạn được tuyên bố. Các phân tích gia chính cho nghiên cứu này là Kevin Baumert
27/04/2015(Xem: 8634)
Tờ Thời Luận San Francisco (San Francisco Chronicle) một nhật báo lớn của Mỹ, ngày 17 tháng 9 năm 2008 có đăng một bài mang tựa: "Đạo Ki-tô đang phát triển nhanh chóng ở Mông Cổ, các nhà truyền giáo đã cải đạo cho hàng nghìn người trong khi những người Phật Giáo đang nơm nớp lo sợ là truyền thống văn hóa của mình sẽ bị mất đi" (Christianity growing fast in Mongolia, Missionaries convert thousands while Buddhists fear losing traditional culture), tác giả là Michael Khon một ký giả trong nhóm bình luận gia thời sự quốc tế trong ban biên tập của tờ báo này. Bài báo khá xưa, cách nay đã hơn sáu năm, thế nhưng cũng không hẳn là lỗi thời, bởi vì tình trạng trên đây chẳng những vẫn còn đang tiếp diễn ở Mông Cổ mà cả nhiều nơi khác trên thế giới. Bài báo cũng đã được một trang mạng Phật Giáo có tầm cỡ quốc tế với 9 thứ tiếng khác nhau là Buddachannel dịch sang tiếng Pháp và đăng tải ngày 6 tháng 2 năm 2009, với tựa ngắn hơn: "Phật Giáo Mông Cổ đang bị mất đà" (Le Bouddhisme Mongol en perte de
19/04/2015(Xem: 12468)
Từ Đàm là ngôi chùa cổ mà không cổ. Chùa cổ, nếu tính theo năm sinh, khoảng 1690. Khi chùa khai sinh, Trịnh Nguyễn hãy còn phân tranh, mỗi mái chùa dựng lên ở phương Nam là mỗi bước chân mở đường Nam tiến sống chết của dân tộc.
19/04/2015(Xem: 3532)
Công cuộc hiện đại hóa giáo dục đại học ở Trung Quốc bắt đầu từ việc chính phủ Mãn Thanh xây dựng “Kinh Sư Đại Học Đường” (năm 1912 chính phủ Dân Quốc thành lập đổi tên thành Đại Học Bắc Kinh) năm 1910 chiêu sinh sinh viên chính quy đầu tiên. Trước năm 1920, Đại học ở Trung Quốc đều là dân lập như Đại học Đông Ngô, Đại học Tế Lỗ, Đại học Saint Jonhs. Theo tư liệu thống kê vào lúc đó trên 80% sinh viên đều theo học tại các trường Đại học do giáo hội Cơ Đốc giáo (đạo Chúa và đạo Tin Lành) thành lập.
29/01/2015(Xem: 6076)
Theo thời gian lịch sử và không gian vật lý, thì đệ tử Như Lai đều cho rằng núi Thiếu và khe Tào (Tào khê) là địa danh gắn liền với hành trạng Tổ Đạt Ma và Huệ Năng. Bởi đó là Đạo trường hành đạo giáo hóa của các Tổ sư. Đạo trường với quy ước vật lý này đánh dấu những nỗ lực bình sinh sau cùng để các Chân nhân Tổ sư “ung dung xô cửa huyền vi bước vào Đạo”. Để rồi cánh cửa ấy khai phóng nguồn năng lượng siêu nhiên tuôn chảy miên tục, “chắp cánh cho Đạo mầu bay vào cát bụi của kiếp người”.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567