Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Truyện kể các Đường Tăng Việt Nam

10/04/201314:14(Xem: 3915)
Truyện kể các Đường Tăng Việt Nam


Truyện kể các
ĐƯỜNG TĂNG VIỆT NAM


Thích Đồng Bổn

---o0o---

Bạn có biết ! đâu chỉ có Mécca là thánh địa mà mọi người Hồi giáo đều mơ ước hành hương một lần trong đời. Người Phật giáo, không chỉ mơ ước được hành hương về chốn "tứ động tâm" (Đản sinh – Thành đạo – chuyển Pháp luân – nhập Niết bàn), mà các đệ tử của Ngái ở xứ An Nam còn muốn noi gương Đường Tăng Trần Huyền Trang thân hành đến đất Phật để học hỏi, nghiên tầm và tu tập ngay chính nơi đức Bổn sư ghi dấu tích.

Xin lược ghi về hành trạng của một số vị mà tôi sưu tầm được, để chúng ta thấy ý chí và hoài bão của các Ngài : Đến đất Phật – Tìm dấu Phật – Chiêm bái Phật – Học kinh Phật – Hành hạnh Phật – Truyền bá Phật" ở các vị "Đường Tăng Việt Nam" đã thành tựu hạnh nguyện nầy :

Hòa thượng Thiện Quảng (1862 – 1911)

Ngài quê quán ở Bến Tre, có mật hạnh là chỉ độ toàn rau quả chứ không ăn cơm. Ngài có nguyện ước qua bằng được xứ Phật để chiêm bái học hỏi. Năm Nhâm Tuất 1898, Ngài bắt đầu chuyến ra đi trên một chiếc thuyền hai cột buồm, với một ít rau trái làm lương thực.

Sau gần ba ngày lên đênh trên biển cả, sóng to gió lớn ập đến đẩy con thuyền của Ngài trôi giạt vào bờ biển Thái Lan, con thuyền bị tan vỡ, Ngài được nhân dân Thái giúp đỡ và họ vô cùng kính trọng khi thấy Ngài chỉ ăn toàn rau. Tiếng lành đồn xa, vua Thái thỉnh Ngài về hoàng cung đàm đạo, vua tỏ lòng kính mộ khi biết rõ hạnh nguyện của Ngài và mong muốn thỉnh Ngài ở lại đất Thái để hóa đạo. Không tiện chối từ, với điều kiện sau khi Ngài hoàn thành ước nguyện đến đất Phật sẽ trở lại hoằng hóa nơi đây. Ba năm sau, đủ nhân duyên, được sự trợ giúp của Nhà vua Thái, Ngài lên đường với ba người Thái và một người Miến Điện dẫn đường. Ngài đi xuyên qua đất Miến Điện, từ ngõ Tây Tạng để vào đất Ấn Độ.

Trong năm tháng ở Ấn Độ, Ngài đã đi chiêm bái tìm hiểu dấu tích ở tất cả các nơi mà đức Phật đã đi qua và truyền bá giáo pháp. Sự tận mắt thấy được, tận tay sờ chạm được thánh tích là chứng tín lớn nhất về chánh pháp của Phật ở trong Ngài. Thỏa nguyện ước một đời, Ngài đi sang đất Trung Hoa viếng thăm các thắng tích của Bồ tát Quan A⭠ở núi Thiên Thai, phủ Hàng Châu ; đến Phúc Kiến, sang Quảng Tây, Quảng Đông, Vân Nam rồi xuôi xuống Miến Điện để về lại Thái Lan vào năm Nhâm Dần1902, như đã hứa với nhà vua Thái.

Ngài chọn hang KhoLẽm làm chốn tu hành, tiếng đồn về "ông Thầy Rau" càng được kính trọng vang xa. Nhà chí sĩ yêu nước Phan Bội Châu đã tìm đến ra mắt và đàm đạo. Cụ Phan rất kính trọng Ngài và trở thành tâm giao trong nỗi niềm những người Việt xa xứ. Lòng yêu nước của Ngài đã trổi dậy theo cụ Phan, và dấn thân vào hoạt động bằng cách bí mật trở về Việt Nam vận động quyên góp cho phong trào.

Năm Tân Hợi 1911, Ngài lại vì cụ Phan mà lên đường trở về Việt Nam lần thứ hai, bằng đường bộ qua ngõ Tây Ninh. Nhưng Ngài đã gục ngã nơi biên giới bởi lằn đạn chực chờ của thực dân Pháp, Ngài mất năm 50 tuổi. Tại hang Kholẽm vẫn còn tấm bia tưởng niệm Ngài với hai chữ gần gũi mà kính trọng : "Thầy Rau" .

Hòa thượng Minh Tịnh – Nhẫn Tế (1888 – 1951)

Ngài sinh năm Kỷ Sửu 1888, quê quán ở Lái Thiêu - Bình Dương, đệ tử xuất gia với Tổ Thiên Thai-Huệ Đăng, được ban pháp hiệu là Minh Tịnh. Sau khi thọ học với Tổ một thời gian, vì muốn mở rộng kiến thức hơn nữa về giáo lý và pháp tu, Ngài quyết tâm lên đường đến xứ Phật để thực hiện ý nguyện đó.

Nhờ các tàu buôn, Ngài đến được đất Aᮠvào tháng tư năm AᴠHợi 1935. Ở đây tùy thuận phong tục để dễ bề tham học tu tập, Ngài chuyển sang đắp y theo Phật giáo Nam tông của Sri Lanka. Được một thời gian, Ngài vẫn không thấy thỏa mãn với giáo pháp của tông phái này, và lại ra đi tìm đến xứ Tây Tạng để nghiên cứu về Kim cang thừa.

Ngài đến Lhasa vào tháng sáu năm 1936. Tại đây, Ngài cầu pháp với Lama Quốc vương và dự cuộc thi tuyển toàn quốc, chỉ có hai người được chọn ứng thí : một người Tây Tạng và người còn lại là Ngài – khi đoạn chỉ bện màu đỏ thắt quanh cổ Ngài siết lại, Ngài vẫn bình thản nhìn. Chỉ có Ngài qua được cuộc khảo thí.

Sau một trăm ngày tu học ở Tây Tạng, Ngài được Lama Quốc vương ngự ý ban pháp danh là Thubten Orall Lama, ấn chứng tâm pháp của giáo pháp Kim cang thừa và sở đắc thiền học giáo ngoại biệt truyền.

Ngài trở về Việt Nam ngày 30. 6. 1937, lập nên chùa Thiên Chơn ở Chợ Búng-Lái Thiêu. Sau đó, lại xây dựng chùa Tây Tạng ở Thủ Dầu Một, bắt đầu truyền bá giáo pháp sở đắc. Ngài mất năm 1951, thọ 63 tuổi đời.

HÒA THƯỢNG HUỆ QUANG (1888 – 1956)

Ngài họ Nguyễn, sing năm 1888 tại Ô Môn-Cần Thơ, xuất gia năm 1902 và đắc pháp với Hòa thượng Từ Văn năm 1919, được ban pháp hiệu là Huệ Quang.

Năm 1931, Ngài cùng Hòa thượng Khánh Hòa và chư tôn đức lập hội Nam kỳ Nghiên cứu Phật học, trụ sở ở chùa Linh Sơn-Sài gòn, xuất bản Tạp chí Từ Bi A⭬ làm nhân tố cho phong trào chấn hưng Phật giáo ở miền Nam.

Năm 1934, Ngài lại cùng Hòa thượng Khánh Hòa lập nên hội Lưỡng Xuyên Phật Học ở Trà Vinh và ra mắt Tạp chí Duy Tâm vào năm 1935, do Ngài làm chủ nhiệm.

Năm 1953, Ngài được suy tôn ngôi pháp chủ Giáo hội Tăng già Nam Việt. Năm 1956, Ngài lại được suy cử Phó Hội chủ Tổng hội Phật giáo Việt Nam, cùng xuất bản tập san Phật Giáo Việt Nam, do Ngài làm chủ nhiệm.

Ngày 10. 11. 1956, Ngài cùng phái đoàn Phật giáo Việt Nam lên đường tham dự hội nghị Phật giáo thế giới lần thứ IV tại Népal. Phái đoàn dự đại hội xong trở veề New Delhi đi chiêm bái các thánh tích. Sau khi chiêm bái, như đã có nguyện ước được trở về với Phật tại đất Phật, Ngài đột ngột viên tịch tai đây, nhục thân Ngài được trà tỳ tại xứ Ấn Độ. Ngài hưởng thọ 68 tuổi đời với 37 năm hoằng hóa.

HÒA THƯỢNG TỐ LIÊN (1903 – 1997)

Ngài quê quán Hà Đông, xuất gia năm 13 tuổi, trong phong trào chấn hưng Phật giáo ở Bắc kỳ năm 1935, Ngài được mời ra chùa Quán sứ-Hà Nội gánh vác Phật sự và giảng dạy.

Tháng 5 năm 1950, ngài đại diện cho Phật giáo Việt Nam đi dự hội nghị thành lập Hội Thế Giới Phật Giáo Liên Hữu tại Sri-Lanka, một xứ sở được coi là thánh địa của Phật giáo sau AᮠĐộ. Tại đại hội này, Phật giáo Việt Nam là một thành viên, lá cờ ngũ sắc ngày nay được công nhận là Phật kỳ tại đại hội đó và Ngài được suy cử làm Phó hội trưởng Hội Phật giáo thế giới. Sau đại hội, Ngài đi chiêm bái các thánh tích tại Ấn Độ.

Chính Ngài là người đã mang lá Phật kỳ ngũ sắc đầu tiên từ Tích Lan về phổ biến tại Việt Nam.

HÒA THƯỢNG MINH CHÂU

Ngài sinh năm 1918 tại Nghệ An, là một trong những người sáng lập "Gia đình Phật hóa phổ", tiền thân của Gia đình Phật tử Việt Nam ngày nay. Ngày xuất gia năm 1946, giữ chức Hiệu trưởng trường Bồ Đề đầu tiên tại Huế năm 1951.

Năm 1952, Ngài xuất dương sang du học ở Sri-Lanka và AᮠĐộ. Ngài học Pali ngữ và Anh văn tại Sri-Lanka, sau đó vào học ở viện Đại học Phật giáo quốc tế Nalanda-Aᮍ Độ. Năm 1958, Ngài đỗ thủ khoa cao học MA về Pali ngữ và Abhidhamma. Năm 1961, Ngài đỗ tiến sĩ Phật học-văn học Pali. Ngài là người Việt Nam đầu tiên đạt được học vị Phật giáo quốc tế cao nhất.

Năm 1964, Ngài về nước phụ trách ngành giáo dục Phật giáo, làm hiệu trưởng viện Đại học Vạn Hạnh, rồi lần lược làm hiệu trưởngHọc viện Phật giáo Việt Nam cơ sở II, viện trưởng viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam. Hành trạng của Ngài quả là một "Đường Tăng Việt Nam" tiêu biểu, bởi sự nghiệp lớn nhất là phiên dịch Kinh tạng Pali ngữ sang Việt ngữ, như việc làm của ngài Huyền Trang thuở xưa.

HÒA THƯỢNG THIỆN CHÂU

Ngài sinh năm 1931 tại Huế, xuất gia năm 16 tuổi, Ngài học tại Phật học đường Báo Quốc từ năm 1948 đến năm 1958 và là Giảng sư khắp các tỉnh miền Trung khi còn rất trẻ, được mệnh danh là "ngôi sao sáng Phật học Việt Nam" thời bấy giờ.

Năm 1961, Ngài đi du học tại viện Đại học Phật giáo quốc tế Nalanda ở bang Bihar-Ấn Độ. Năm 1963, Ngài tốt nghiệp cử nhân Pali, đến năm 1965 tốt nghiệp thêm cử nhân Anh văn. Sau đó, Ngài sang Anh Quốc nghiên cứu tại viện Đại học London.

Năm 1967, Ngài sang Pháp nghiên cứu và đảm nhận chủ tịch hội Phật tử Việt kiều hải ngoại. Năm 1977, Ngài đỗ Tiến sĩ tại Đại học Sorbon-Paris. Năm 1980, Ngài xây dựng ngôi chùa Trúc Lâm Thiền Viện ở ngoại ô Paris, một ngôi chùa Việt Nam hoàn chỉnh về kiến trúc văn hóa Việt. Ngài đã viết và phiên dịch một số lượng lớn tác phẩm. Ngài viên tịch năm1998, để lại bao tiếc thương về một nhân tài Phật giáo thành danh ở hải ngoại.

*

Và còn nhiều nữa những "Đường Tăng Việt Nam" đã hoàn thành sứ mệnh nơi nước Phật, đem sở học truyền bá chánh pháp Như Lai tại quê nhà và hải ngoại như các vị :

Hòa thượng Huyền Vi, xuất dương du học tại AᮠĐộ rồi hoằng dương ở nước Pháp với hội Phật giáo Linh Sơn có chi nhánh khắp thế giới.

Hòa thượng Chân Thường, từ Việt Nam sang Pháp hoằng dương, rồi từ Pháp đi AᮠĐộ tham học và chiêm bái, trở về Pháp hành đạo tại đây , sáng lập hội Phật giáo Quán A⭠ở ngoại ô Paris.

Hòa thượng Thiện Thanh, từ Việt Nam đi du học ở AᮠĐộ và ở lại hoằng dương Phật pháp tại chùa Phật Tổ-Mỹ Quốc.

Thượng tọa Huyền Diệu, từ Pháp đi AᮠĐộ nghiên cứu rồi phát nguyện ở lại đây hoằng dương, xây dựng nên ngôi chùa "Việt Nam Phật Quốc Tự" tại Bồ Đề đạo tràng và một ngôi ở Lumbini-Népal.

Thượng tọa Chơn Thiện, từ Việt Nam sang AᮠĐộ du học, đạt học vị Tiến sĩ hạng tối ưu, trở về nước phục vụ. Thượng tọa hiện là phó hiệu trưởng Học viện Phật giáo Việt Nam tại Tp. Hồ Chí Minh và Tp. Huế, cũng là phó viện trưởng viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam. Thượng tọa là một học giả lỗi lạc với một số tác phẩm biên soạn và dịch thuật có giá trị.

Và còn nhiều vị Tăng trẻ nữa đã và đang tham học nơi đất Phật hoặc hành đạo nơi ấy, hoặc trở về nước phục vụ, hoặc còn du phương ở các nước như : Tỳ kheo Hạnh nguyện ; Tỳ kheo Nhật Từ ; Tỳ kheo Minh Thành . . . .

Có thể nói, AᮠĐộ là vùng đất thiêng nơi đã sản sinh ra đức Từ phụ Thích Ca và giáo pháp của Người. Ngày nay các đệ tử của người từ khắp năm châu vẫn ước mơ được một lần hành hương về đấy để như được sinh lại lần nữa, nối tiếp con đường truyền bá chánh pháp như những Như Lai sứ giả thuở xưa, sau 25 thế kỷ tồn tại thế gian lợi lạc hữu tình. Và những Đường Tăng nước Việt ngày nay đã góp phần làm rạng rỡ lịch sử Phật giáo Việt Nam.

Từ tựa đề ngẫu hứng của Phan Bội Châu viết truyện "Đường Tăng Nước Nam", đã làm nẫy sinh trong tôi ý định viết tiếp truyện này. Cho thấy rằng, chứng tích nguyên thủy của thánh địa chính là sự phát khởi đại tâm, tục Phật huệ mạng cho tất cả đệ tử của Người, mong ước một lần trong đời tìm về xứ Phật, tìm lại sức mạnh tự tánh Phật sẳn có trong chúng ta.

Mùa an cư năm 2000
Tỳ kheo Thích Đồng Bổn


---o0o---

Trình bày : Nhị Tường

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
29/09/2019(Xem: 23111)
Video: Hành Trình Khám Phá về Sự Thật Xá Lợi của Đức Phật (Rất hay, rất cảm động khi xem, quý vị nên tranh thủ vào xem liền, chân thành cảm ơn nhà văn, nhà khảo cô người Anh Charles Allen đã thực hiện cuốn phim tài liệu công phu và độc nhất vô nhị để tôn vinh và tìm ra sự thật về xá lợi của Đức Thế Tôn sau 26 thế kỷ, from Thích Nguyên Tạng, chủ biên trang nhà Quảng Đức)
06/08/2019(Xem: 7926)
Đất Phật Phù Nam_TS Nguyễn Thúy Loan
25/02/2019(Xem: 13155)
Bức Tượng Phật ngồi lưng vua độc nhất Việt Nam ở Hà nội, Vua Lê Hy Tông cho tạc tượng đặt trong chùa Hòe Nhai để bày tỏ sám hối vì đã cư xử sai lầm với đạo Phật
26/11/2018(Xem: 6651)
4 năm học đó, chỉ là sự tiếp nối của những năm Trung cấp hay cao đẳng trước đó và nó sẽ mở ra cho quý vị, những năm học tiếp theo của hậu đại học bao gồm chương trình thạc sĩ và tiến sĩ… Nhưng, nếu trong 4 năm học này, mà những Tăng Ni sinh nào, học thiếu tinh cần, thì quý vị khó tiến xa hơn trên sự nghiệp tri thức và lại càng khó tiến xa hơn trên sự nghiệp trí tuệ.
10/11/2018(Xem: 5185)
Trong một bài viết đã lâu trên VHPG, chúng tôi có đề cập đến Chân ngôn đất nước. Chúng tôi đã lấy lời của Nguyễn Trãi, sau khi hoàn tất cuộc chiến đấu giành độc lập 600 năm trước, nhân danh vua Lê Thái Tổ mà hùng hồn tuyên cáo: Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân Quân điếu phạt trước lo trừ bạo.
14/09/2018(Xem: 12862)
Việt Nam là một quốc gia nằm ở ngã tư của lưu lộ quốc tế thuộc Đông Nam Châu Á, và là nơi dừng chân của các thương buôn của vùng Địa Trung Hải. Từ một vị trí địa lý thuận lợi như thế, do đó các quốc gia trong vùng này đã thiết lập các mối quan hệ kinh tế, thương mại, văn hóa, tôn giáo… qua hai con đường: Hồ Tiêu, tức là đường biển qua ngã Sri lanka, Indonesia, Trung Hoa, Việt; và đường Đồng Cỏ là đường bộ, xuất phát từ vùng Đông Bắc Á rồi băng qua miền Trung Á, Mông Cổ, Tây Tạng, Việt Nam, Trung Hoa. Vì vậy các tôn giáo lớn, trong đó có Phật giáo gặp nhiều thuận lợi du nhập vào nước ta.
11/08/2018(Xem: 9676)
Sau Hiệp định Paris 1973, những người lính Mỹ cuối cùng rút khỏi Việt Nam. Từ đó đến nay đã 45 năm, những “di chứng” chiến tranh vẫn còn trên mảnh đất này, và di chứng ấy còn trong tâm trí những người lính ở bên kia bán cầu. Bên cạnh việc hóa giải nỗi đau hiện hữu của chiến tranh, thì hóa giải những uẩn khúc trong lòng người cũng cho thấy nỗ lực phục thiện mà tất cả mọi người bất kể chiến tuyến đều hướng đến. Một buổi trưa đầu tháng 6 năm 2018, có bốn người cựu binh Mỹ tuổi chừng tám mươi tìm về ngôi chùa làng Bồ Bản (xã Triệu Trạch, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị). Trên xe bước xuống, ông Anderson ôm trước ngực một bức tượng Quán Thế Âm Bồ-tát màu trắng, trang nghiêm đi vào chùa. Đại đức Thích Mãn Toàn, người trụ trì ngôi chùa ra tiếp đoàn. Anderson hỏi Đại đức Thích Mãn Toàn đây có phải chùa Trường Khánh không? Đại đức Thích Mãn Toàn đáp phải, cả vùng chỉ một ngôi chùa này tên Trường Khánh, người dân thường gọi là chùa Bồ Bản. Ông Anderson chưa dám tin lời vị sư trụ trì mà v
06/08/2018(Xem: 6120)
Miền đất võ Bình Định cũng là miền đất Phật, miến “Đất LànhChim Đậu”, được nhiềuchư thiền Tổ ghé bước hoằng hóa và chư tôn thiền đức bản địa xây dựng mạnh mạch Phật đạo từ trong sâu thẳm, qua nhiểu giai đọan, thời gian, đã xây dựng nên hình ảnh Phật giáo Bình Định rạng rở như ngày hôm nay. Đặc biệt trước tiên có thể kề đến Tổ Nguyên Thiều ( 1648 – 1728 ), Hòa thượng Thích Phước Huệ ( 1875 – 1963 ), Hòa Thượng Bích Liên-Trí Hải ( 1876 – 1950 ), v…v…Nêu chúng ta tính từ thời chúa Nguyễn Phúc Tần ( 1619 – 1682 ), khi Tổ Nguyên Thiều từ Quảng Đông (Trung Quốc) sang An Nam và an trú ở Quy Ninh (tức Bình Định ngày nay) vào năm Ất Tỵ (1665 ) và kiến tạo chùa Thập Tháp Di Đà , thí Phật giáo Bình Định đã thực sự bước vào trang sử chung trong công cuộc hoằng hóa của Phật giáo Việt Nam. Hơn thế nữa, Tổ Nguyên Thiều còn là cầu nối giữa Phật giáo hai nước An Nam và Trung Hoa, trao đổi nhiều kinh điền có giá trị để cùng nhau tu học. Điều này cho thấy, lý tưởng Từ Bi và con đường hoằng
20/07/2018(Xem: 11173)
Vào tháng 10, mùa đông, nhằm tiết đại hàn, giá lạnh, vua Lý Thánh Tông (1023 – 1072) nói với các quan hầu cận rằng: "Trẫm ở trong cung, sưởi than xương thú, mặc áo lông chồn còn rét thế này, nghĩ đến người tù bị giam trong ngục, khổ sở về gông cùm, chưa rõ ngay gian, ăn không no bụng, mặc không kín thân, khốn khổ vì gió rét, hoặc có kẻ chết không đáng tội, trẫm rất thương xót. Vậy lệnh cho Hữu ty phát chăn chiếu, và cấp cơm ăn ngày hai bữa.” (1)
19/06/2018(Xem: 4478)
Tộc Bùi ở làng Vĩnh Trinh, huyện Duy Xuyên là một dòng tộc lớn vang danh trong nước không những vì “của nhiều người đông” mà còn vì có lắm nhân tài ở mọi lãnh vực với những tên tuổi chói sáng như nhà báo Bùi Thế Mĩ, bác sĩ Bùi Kiến Tín, thi hào Bùi Giáng, nhà giáo Bùi Tấn v.v… Vị thủy tổ của đại tộc này chính là nhà doanh điền Bùi Tấn Diên, Tiền hiền làng Vĩnh Trinh.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567