Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Vài suy nghĩ về tiêu chuẩn hóaTăng Già Việt Nam

10/04/201314:03(Xem: 3926)
Vài suy nghĩ về tiêu chuẩn hóaTăng Già Việt Nam


VÀI SUY NGHĨ VỀ TIÊU CHUẨN HÓA TĂNG GIÀ VIỆT NAM

Nhựt Chiếu

Nói về việc tiêu chuẩn hóa Tăng Già Việt Nam là một vấn đề lớn và khó thực hiện. Luật Tạng đã qui định rất rõ về tuổi tác, căn thân tâm thần của một Tỳ Kheo. Nhưng nhìn chung chúng ta chưa thực hiện một cách đầy đủ. Trong thời Đức Phật Giáo Hội chưa thành lập trường học Phật giáo, nên không có một qui điều buộc một Tỳ kheo phải học một chương trình theo trường lớp cụ thể. Hơn nữa Giáo lý Giải thoát của Đức Phật không câu chấp vào một hình thức cố định nào và một Tỳ kheo thời đó đúng là một lữ khách không nhà. 

Nhưng về sau, Phật giáo các nước đều có tổ chức Trường học, và ở mỗi nước, tùy theo sự lãnh đạo của Giáo Hội và hoàn cảnh đặc thù của mình mà có qui chế giáo dục Tăng Ni khác nhau. Phật giáo Việt Nam từ trước đến nay, chưa qui định một cách cụ thể chương trình học có tính bắt buộc đối với một Tỳ Kheo. Gần đây Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam đã thấy được những nhược điểm về trình độ yếu kém của một Sa Môn, nên bắt buộc khi thọ giới Cụ túc một tu sĩ Phật Giáo, phải tốt nghiệp lớp 12, nhưng trình độ Phật học thì chưa thấy đề cập đến, mà học Phật mới là điều quan trọng. 

Thiết nghĩ, Tỳ Kheo là một bậc Sư Tượng thay mặt Phật truyền trì chánh pháp, là bậc Thầy tiêu biểu cho trí tuệ và đạo đức, vì vậy việc học Phật là điều thiết yếu đầu tiên, thấy được điều đó, Giáo hội nên có qui chế về học trình cụ thể, buộc một tu sĩ Phật giáo phải vượt qua mới được công nhận. Như Phật giáo Tây Tạng có một chương trình Phật học cho chức Lạt Ma, cũng như Thiên chúa Giáo, một linh mục phải trải qua Tiểu chủng viện và Đại chủng viện. 

Ngày nay Phật Giáo Việt Nam đang mở các trường Cơ bản Phật học ở các Tỉnh Thành, nhưng chưa có tính bắt buộc một Tăng Ni sinh phải theo học mà còn hạn chế về độ tuổi, nên có Tăng Ni sinh dù muốn vẫn chưa được đi học hay có Tăng Ni sinh không muốn đi học. Như thế trong tương lai chưa biết bao giờ, trình độ học Phật của Tăng Ni sinh mới được tiêu chuẩn hóa. 

Xét rằng về mặt Giáo Dục cũng như bất cứ lãnh vực chuyên môn nào, muốn trở thành một vị thầy, xã hội buộc đương sự phải được đào tạo qua một chương trình cố định: Một Giáo viên cấp I phải tốt nghiệp lớp 12 và học 2 năm Sư phạm, một giáo viên cấp II phải học 3 năm Sư phạm. Tương tự các ngành đều phải như thế đã những việc thông thường trong xã hội đều có nề nếp căn bản như thế, thì việc hoằng dương chánh pháp lại phải được đào tạo một cách nghiêm túc hơn. Thế mà Phật Giáo Việt Nam không để ra một tiêu chuẩn học Phật nào cho một Tỳ kheo. Hiện tại chưa đủ điều kiện chăng? Hay Giáo hội thấy rằng việc tiêu chuẩn hóa Tăng Già như Phật giáo Tây Tạng, Nhật Bản là không cần thiết? Phật Tử chúng ta đều thừa nhận rằng Giáo Lý Đạo Phật là sâu rộng, là siêu việt mà tăng sĩ là người có trách nhiệm truyền bá lại không phải học hỏi thì truyền bá cái gì? Một vị Sa Môn là bậc Thầy của các Thầy trong xã hội thế mà thiếu học thì không ai có thể chấp nhận được. 

Do thiếu một chương trình đào tạo bắt buộc ai cũng có thể làm Sa Môn, cho nên tình trạng Tăng Già Việt Nam chúng ta rất phức tạp. Giáo hội lại thiếu tính chất giáo quyền, tổ chức không chặt chẽ, trình độ văn hóa thấp kém là những nguyên nhân phát sinh hạng tu sĩ lệch lạc, phạm giới. Chúng ta than phiền về những việc làm phi pháp của một số Tăng như khất thực phi thời, đi dự trai tăng mà không cần mời thỉnh, làm ăn trái luật, cư trú tự do,... nói chung là vi phạm nhiều giới cấm, là vì Giáo Hội chúng ta chưa có một hệ thống tổ chức chặt chẽ, để đưa họ vào khuôn khổ. Chưa có kế hoạch đào tạo Tăng Ni bắt buộc để xây dựng hàng ngũ Tăng Già chuyên chính. Việc nhận người xuất gia còn tùy tiện, như những người có bệnh tâm thần, lục căn khiếm khuyết đôi khi vẫn trở thành sa môn, Giáo Hội lại không cứng rắn xử phạt những tu sĩ biến chất phạm luật để làm trong sáng giới đức của một Tỳ kheo thậm chí có người đã hoàn tục hay chưa có quá trình xuất gia mà vẫn đắp y và hành pháp sự. Những thành phần này còn nằm ngoài Giáo Hội. 

Tất cả những biểu hiện phi luật trái phép nói trên là hậu quả của những thời kỳ Phật giáo suy vi mà ngày nay với đà phát triển của thời đại, Giáo Hội chúng ta phải có trách nhiệm chấn chỉnh lại. Nếu Giáo Hội chưa có tổ chức tu viện tập trung, chưa có chương trình giáo dục bắt buộc thì hiện tượng mạnh ai lo chùa nấy vẫn còn rất phổ biến. 

Tăng hay Tăng Già là dịch âm chữ Sangha của Ấn Độ có nghĩa là một tập thể sống hòa hợp có bốn thứ Tăng: Tăng 4 người, Tăng 5 người, Tăng 10 người và Tăng 20 người, sống chung trong những tổ như thế theo pháp chế Luật Hòa để giúp đỡ, nương tựa, kiểm soát lẫn nhau trên đường tu học. Chính môi trường tập thể có tổ chức, có kỷ luật sẽ hun đúc những đức tính cần thiết cho một người đang đi trên đường giải thoát. 

Hôm nay Phật Giáo Việt Nam đã chuyển mình vươn lên, bằng chứng là các Trường Phật học đang được khai giảng khắp nơi trong nước. Đây là cơ hội để chúng ta chấn chỉnh nề nếp sinh hoạt của Tăng già, bằng cách tổ chức nếp sống và sinh hoạt tập thể, cũng như ra sức giáo dục đào tạo Tăng tài để dần dần đi đến tiêu chuẩn hóa hàng ngũ xuất gia. Có như thế một vị Tỳ kheo mới đủ sức và có uy tín đóng vai trò lãnh đạo tinh thần của một Sứ giả Như Lai. 


---o0o---

Trình bày: Nhị Tường

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
13/07/2011(Xem: 3509)
Ở quê tôi, đa phần các làng đều có chùa và đình. Ngày xưa lúc còn bé, tôi và những đứa trẻ trong làng hay đến chùa và đình vào những dịp lễ để vui đùa và ăn ké theo người lớn. Những hình ảnh về các sinh hoạt lễ hội của chùa và đình vẫn còn in đậm trong ký ức tôi cho đến ngày nay.
07/07/2011(Xem: 28125)
Lời Ban Biên Tập: Nhằm mục đích góp phần giúp thế hệ trẻ Việt Nam ở trong nước cũng như ở hải ngoại biết rõ lịch sử Việt Nam trong năm 1963 xảy ra như thế nào và nhất là để có nhận thức sâu sắc hơn về điều mà dân tộc đã khẳng định: “Phật giáo Việt Nam với dân tộc như hình với bóng, tuy hai mà một”. Cho nên chúng tôi lưu trữ vào Thư Viện Hoa Sen CÁC BẢN DỊCH TỪ KHO DỮ LIỆU BỘ NGOẠI GIAO, BỘ QUỐC PHÒNG, CƠ QUAN TÌNH BÁO TRUNG ƯƠNG & CÁC NGUỒN KHÁC đã giải mật. Các tư liệu này có liên quan đến sự kiện lớn trong lịch sử Việt Nam hiện đại. Sự việc này chắc chắn sẽ có những ý kiến ủng hộ và chống đối, nhưng lịch sử vẫn là lịch sử. Ban biên tập website Thư Viện Hoa Sen chân thành cảm tạ nhà văn Cư sĩ Nguyên Giác, Cư sĩ Nguyễn Kha, và Nhà Xuất Bản Thiện Tri Thức Publications đã gửi tặng các phiên bản vi tính điện tử và trân trong giới thiệu đến toàn thể quý độc gỉa trong và ngoài nước.
02/07/2011(Xem: 8323)
Trải qua hơn 25 thế kỷ, đạo Phật tồn tại đến ngày nay là do sự truyền thừa từ đức Phật đến chư tổ. Tổ lại truyền cho tổ, ‘Tổ tổ tương truyền’ tiếp diễn từ đời nầy sang đời khác. Sự truyền thừa được thể hiện qua hai phương diện giáo lý và thật hành. Về phần giáo lý thì mỗi tông phái đều sáng lập giáo nghĩa, tông chỉ riêng biệt và đều lấy kinh điển của Phật làm nền tảng. Về phần thật hành hay phần sự có khác biệt là tùy theo giáo nghĩa và tư tưởng của mỗi tông. Mỗi tông phái đều truyền bá và xiển dương pháp môn của mình trong tông môn và quần chúng Phật tử. Mỗi tông phái của đạo Phật được ví như mỗi loại hoa của vườn hoa Phật pháp. Mỗi loại hoa có nét đẹp và hương thơm riêng biệt, để khoe sắc hương, nhưng tất cả đều ở trong vườn tịnh của Phật pháp. Cũng như vậy, mỗi tông phái đều là của đạo Phật và đều cùng mang một vị, đó là vị ‘giải thoát’. Trong phần sưu tập về tông phái Thiên thai, chúng tôi chia thành hai giai đoạn chính. Đó là sự sáng lập tông phái ở Trung Quốc, sau nhiều thế kỷ
23/06/2011(Xem: 3497)
Phật giáo từ Ấn Độ truyền vào Việt Nam từ rất sớm có thể từ trước công nguyên. Tuy là một tôn giáo ngoại nhập nhưng các nhà nghiên cứu thường thống nhất rằng mỗi dân tộc đều có một ông Phật của riêng mình. Vậy thì cái riêng, bản sắc Phật giáo Việt Nam là gì ? Các nhà nghiên cứu đã thừa nhận Phật giáo thời Lý Trần là tinh hoa, đỉnh cao của Phật giáo Việt Nam và văn hóa Việt Nam. Chính Phật giáo Lý Trần đã góp phần làm nên cái chất Đại Việt, làm nên cái hào khí Đông A của thời đại, tạo nên bước nhảy vọt về tư tưởng của dân tộc ta lúc bấy giờ, làm nên sự hồi sinh mạnh mẽ của dân tộc sau hơn một ngàn năm bị nô lệ phương Bắc từ năm 111 TCN đến năm 938 SCN. Để góp phần giải đáp cái nét riêng của văn hóa Phật giáo Việt Nam, đặc biệt là Phật giáo thời Lý Trần có lẽ cần đặt nó trong mối giao lưu, tiếp biến với Phật giáo Ấn Độ, Phật giáo Trung Quốc và tín ngưỡng - văn hóa dân gian bản địa.
23/06/2011(Xem: 4243)
Việt Nam là cái lưng của bán đảo Ấn Trung, vị trí của bán đảo nầy nằm giữa Ấn Độ và Trung Hoa. Vì địa thế nằm giữa hai nước lớn có nền văn hóa cổ xưa nhất của nhân loại nên đương nhiên Việt Nam có ảnh hưởng cả hai nền văn hóa đó, kể cả tôn giáo. Từ phương Bắc, Trung Quốc đã tràn xuống chiếm cứ đất đai với âm mưu đồng hóa dân Việt, biến Việt Nam thành một phần lãnh thổ của họ. Do đó dân Việt chiến đấu không ngừng để sống còn và giữ gìn sự độc lập của mình, thế nhưng không tránh khỏi sự ảnh hưởng qua lại về ngôn ngữ, văn hóa và tôn giáo ...
20/06/2011(Xem: 7214)
Vào năm 1949, tôi đã cùng thầy Trí Hữu, một vị Thượng tọa từ Đà Nẵng thành lập nên Phật Học Đường Ấn Quang ở Sài Gòn. Tôi dạy lớp sơ cấp đầu cho các vị Sadi. Hồi đó tên chùa là Ứng Quang. Chùa vách tre lợp lá rất đơn sơ. Khi đó chiến tranh đang diễn ra giữa quân đội Pháp và lực lượng kháng chiến Việt Minh.
18/06/2011(Xem: 4841)
Ký giả được xem công văn này trước nhất, liền cho mời Ông Viên Quang là Tổng thư ký của Hội Việt Nam Phật giáo đến bàn việc triệu tập Hội đồng để thảo luận việc quan trọng đó. Nhưng đến buổi họp thì ký giả chẳng may vừa bị cảm nặng, nhân có Cụ BÙI THIỆN CƠ, Hội trưởng Hội Việt Nam Phật giáo đến thăm, bèn dặn với Cụ rằng: “Nếu Hội đồng có cử đến tôi, thì nhờ Cụ cố từ chối cho, vì tôi mới bị bệnh, hơn nữa còn bận nhiều công việc”. Sau buổi họp đó, Cụ BÙI THIỆN CƠ và Cụ TRẦN VĂN ĐẠI lại đến phòng bệnh cho biết rằng: “Hội đồng đã đề cử một vài vị Thượng toạ, nhưng các Ngài đều viện cớ rằng: Thượng toạ là Hội trưởng Hội Tăng Ni Bắc Việt lại là Phó Hội trưởng Hội Việt Nam Phật giáo, phải lấy tư cách ấy mà ứng phó với thơ mời của Chính phủ để gia nhập Phái đoàn Phật giáo Việt Nam thì đối với cả trong Thuyền gia lẫn người ngoài Thiện tín mới được danh chính ngôn thuận.
16/06/2011(Xem: 14053)
Thế Giới chỉ bắt đầu chú ý nhiều tới vấn đề Việt Nam và tới "những người Phật Giáo '' sau khi Hoà Thượng Thích Quảng Đức tự thiêu tại ngã tư Phan Đình Phùng ở Sài Gòn ngày 11.6.1963 để kêu gọi dư luận thế giới chú ý đến những khổ đau của dân chúng Việt Nam dưới những đàn áp của chính quyền Ngô Đình Diệm . Sở dĩ sự tự thiêu của Hoà Thượng Quảng Đức đã khiến Tây phương xúc động và ngạc nhiên nhiều hơn Đông Phương là vì hoàn cảnh văn hoá và tôn giáo Tây phương khác với hoàn cảnh văn hoá và tôn giáo Đông phương.
15/06/2011(Xem: 5864)
Năm ngoái khi ghé thăm nhà nuôi trẻ em nghèo của vợ chồng anh Trần Quang Lãm ở trên đường Ngũ Tây Xã Thủy An gần chùa Thuyền Tôn , tôi nói với anh là tôi muốn ghé lại thăm ngôi chùa nổi tiếng này , anh Lãm liền tặng tôi một cuốn tiểu sử thiền sư Liễu Quán và dặn là tôi nên ghé lại thăm ngôi bảo tháp của ngài Lúc bấy giờ tôi chỉ đi thăm thú các nơi trong chùa mà không để ý đến cảnh vật chung quanh chùa lắm , khi về nhà mới đọc cuốn sách được tặng. Thật vô cùng thú vị khi đọc đến đoạn huyền thoại về thiền sư phải ăn rong để sống và rong đó được vớt tại con sông trước chùa , tôi vội vàng chạy xe lên lại chùa và đi tìm con sông .
15/06/2011(Xem: 2540)
1. Tín-ngưỡng ở Giao-châu Trước khi các tông-giáo tràn vào, người Việt chắc đã tôn-sùng những mãnh-lực thiên-nhiên, như núi sông, sấm chớp. Những di-tích còn lại không những ở trong tập-tục của dân-gian, mà trong điển-lệ tế-tự, nay còn những vị thần, được thờ tại rất nhiều nơi, mà không ai biết rõ gốc-tích từ đâu tới. Thần Cao-sơnchắc cũng là đức-thánh Tản-viên, thần Long-thủy có lẽ gốc ở thác Bờ. Lại như các đền hay "chùa" Pháp-Vân, Pháp-Vũ, Pháp-Lôi, Pháp-Điệnhẳn là di-tích các thần mây, mưa, sấm, chớp.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567