Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Đài Loan Sử dụng Văn học Phật giáo để Giáo dục Môi trường

12/11/202117:04(Xem: 2172)
Đài Loan Sử dụng Văn học Phật giáo để Giáo dục Môi trường

Đài Loan Sử dụng Văn học Phật giáo để Giáo dục Môi trường 3
Đài Loan Sử dụng Văn học Phật giáo để Giáo dục Môi trường
(How Taiwan uses Buddhist literature for environmental education)
 

Biến đổi khí hậu là một trong những thách thức lớn nhất, mà thế giới nhân loại phải đối mặt. Báo cáo của Liêp Hợp quốc đã cảnh báo rằng, lượng khí phát thải nhà kính do các hoạt động của con người đang ở mức kỷ lục, “không có dấu hiệu thuyên giảm. Rất nhiều quốc gia đã ghi nhận thời tiết khắc nghiệt, nhiệt độ trung bình cao và tăng mực nước biển. Trong khi đó, làn sóng đầu tiên về gia tăng số lượng người tỵ nạn vì biến đổi khí hậu sẽ định hình lại cuộc sống của con người.


Những biến đổi khí hậu từ các thế hệ trước và thế hệ tương lai, phải đương đầu với những hậu quả tồi tệ này. Thế hệ trẻ thanh thiếu niên ngày nay phải đóng một vai trò quan trọng trong việc chăm sóc và bảo vệ môi trường.


Đối mặt với khủng hoảng cần rất nhiều sự thay đổi, và giáo dục là hành trình cấp bách nhất hiện nay.


Như các chuyên gia cho biết, sự giáo dục này cần phải sớm bắt đầu, để hoạt động thân thiện với môi trường trở thành thói quen khi tuổi còn bé thơ.


Đài Loan Sử dụng Văn học Phật giáo để Giáo dục Môi trường 2

Đài Loan đưa ra một ví dụ về cách giáo dục trẻ em quan tâm đến môi trường như thế nàoGiáo dục bảo vệ môi trường cho trẻ mầm non là quá trình giáo dục có mục đích nhằm phát triển ở trẻ những hiểu biết sơ đẳng về môi trường, có sự quan tâm đến vấn đề môi trường phù hợp với lứa tuổi, được thể hiện qua đẳng về môi trường, có sự quan tâm đến vấn đề môi trường phù hợp với lứa tuổi, được thể hiện qua những kiến thức, thái độ hành vi của trẻ đối với môi trường xung quanh.


Thái độ về môi trường tại Đài Loan


Vào cuối thế kỷ 20, của đầu những thập niên 1990, sự phát triển kinh tế nhanh chóng đã dẫn đến sự suy thoái môi trường tại Đài Loan, bán đảo Trung Hoa và là nơi sinh sống của 24 triệu người. Chất lượng không khí ở các thành phố rất nguy hiểm, một phần ba số sông rạch ao ngòi bị ô nhiễm, và rác thải thường không đến bãi chôn lấp.


Ngày nay, người dân Đài Loan tự hào về vẻ đẹp tự nhiên của đảo quốc Phật giáo này, từ vùng đất ngập nước ven biển đến những ngọn núi xanh tươi, và thành công của họ trong việc bảo vệ môi trường.


Đài Loan Sử dụng Văn học Phật giáo để Giáo dục Môi trường 1

Đặc biệt Đài Loan được biết đến với tỷ lệ cao trong tái chế tái sử dụng rác thải, và hệ thống phân loại rác rất tinh vi, ngay cả các chủng loại về thực phẩm thừa dành cho lợn. Theo các số liệu báo cáo, Đài Loan hiện nay tái sử dụng nhiều hơn Hoa Kỳ là 20%, và bất cứ du khách nào cũng có thể chứng thực mức độ nghiêm túc của các nỗ lực tái chế rác thải. 


Là một học giả về Phật giáo Trung Hoa, tôi đã xem xét các nhóm tôn giáo giải quyết các vấn đề đương đại, bao gồm cả chủ nghĩa môi trường, trong văn hóa dành cho trẻ em.  


Giáo dục trẻ em


Một quốc gia cộng hòa lập hiến độc lập, có chủ quyền tại Đông Á, đảo quốc Đài Loan ngày nay, hơn một phần ba số người trưởng thành tự nguyện mình là Phật tử, nhiều hơn bất kỳ tôn giáo nào khác, tạo thành một nỗ lực phát triển văn hóa đáng kể. Các tổ chức Phật giáo đã tiên phong trong nỗ lực chăm sóc và bảo vệ môi trường. Những nỗ lực bao gồm cả văn hóa Phật giáo cho trẻ em, thanh thiếu niên phản ánh qua các mối quan hệ đến môi trường.


Sách minh họa hình ảnh về chủ đề này có hai tiếp cận: "Một là, các vị Bồ tát, những đấng siêu nhiên thông thái, và mạnh mẽ có thể xuất hiện trên thế giới để giúp người, là hình mẫu cho trẻ em trong cách chúng bảo vệ môi trường".


Ví dụ, trong cuốn sách Cuộc đại Thánh chiến Tuyệt vời của Bồ tát Phổ Hiền Xử lý bọn Yêu quái Rác thải" (普賢菩薩大戰垃圾怪獸; Samantabhadra Bodhisattva’s Great Battle against the Trash Monster) được xuất bản bởi tổ chức Phật giáo Pháp Cổ Sơn (Buddhist organization Dharma Drum Mountain), trang đầu tiên giới thiệu vị Bồ tát muốn cải tạo thế giới ô nhiễm thành thế giới thanh tịnh.


Vị Bồ tát này gặp một đứa trẻ khi cậu bé nói rằng, cậu gặp một cơn ác mộng về một con quái vật được chế tạo từ rác. Hóa ra, con yêu quái xuất hiện bởi phòng ở của cậu như một núi rác. Khi cậu bé quét dọn, vị Bồ tát đã quang lâm và chỉ dạy cậu bé cách phân loại những thứ cậu muốn bỏ đi một cách hợp lý, thể hiện hành động thực tế.


Sau đó, cậu bé quyết định trở thành một nhà tiên phong tí hon vì môi trường thế giới” và đồng hành cùng vị Bồ tát trong việc dọp dẹp các công viên và bãi biển. Qua câu chuyện này, sự quan tâm của cậu bé đến từ căn phòng ở của cậu đến với thế giới lớn hơn với hành động từ bi của vị Bồ tát.


Trong lịch sử, các vị Bồ tát thường là đối tượng đấng siêu nhiên được cầu khẩn để giúp đỡ mọi người đang ở những thời điểm khẩn cấp trong nguy hiểm (như bão trên biển) và can thiệp vì lợi ích của môi trường đã được cập nhật trong vai trò của vị Bồ tát ở thời hiện đại.


Trong trường hợp này, Phật giáo là trung tâm của câu chuyện và làm sạch không gian ô nhiễm trở thành một phép ẩn dụ cho việc thanh lọc tâm hồn. Độc giả nhìn vào vị Bồ tát hay Đức Phật như là vị Đạo sư đưa đường dẫn lối, và được truyền cảm hứng để hành động.


Chăm sóc và Bảo vệ Môi trường


Tuy nhiên, với những trường hợp khác, các tổ chức Phật giáo không sử dụng những nhân vật hình tượng như các vị Bồ tát để giáo dục về môi trường.  


Những câu chuyện không phải luôn mô tả Bồ tát như các nhân vật, và những diễn giải không chỉ là Phật giáo lại đưa ra việc giáo dục về môi trường trong phạm vi rộng hơn của giáo dục Phật giáo. Nói một cách khác, là Phật tử toàn diện nghĩa là phải hiểu và tôn trọng môi trường.


Họ có thể dùng những câu chuyện về thực vật và động vật để dạy trẻ em về những điều này như là chu kỳ của than đá và mối quan hệ cộng sinh giữa động vật như là Tê giác và Bò sát, những loài thường được cho là ăn ve hay các loại côn trùng khác, nhưng sự thật thì phức tạp hơn.


Trẻ em học về sinh thái học và các sinh vật liên kết với nhau như thế nào. Điều này giúp trẻ em suy nghĩ một cách tổng thể về môi trường và những hành động này sẽ khuyến khích chúng nhìn về thế giới từ quan điểm của các chúng sinh khác.


Được xuất bản bởi một tổ chức Phật giáo quy mô, cuốn sách "Ghi chép về sự lang thang của những chiếc túi nylon" (Record of the Wanderings of a Plastic Bag) đã tiến một bước xa hơn trong việc trình bày những góc nhìn khác nhau. 


Ban đầu những chiếc túi nylon là đồ chơi của trẻ em, sau đó trở thành nơi để các cậu cô mèo ngủ trưa. Ông gia chủ cho rằng nó dùng để thu hái cà chua, khi gặt hái xong, ông gia chủ rửa sạch chiếc túi nylon và treo lên để phơi khô ráo. Một lát sau, ông gia chủ dùng nó để mang đôi giày cũ đi sửa, lúc này chiếc túi nylon đã bị vứt đi. 


Chiếc túi nylon lang thang một cách vui vẻ như một chiếc lá và một gói kẹo, nhưng cuối cùng lại bị cuốn vào một thùng chứa rác. Một con cho xé thùng đựng rác, và chiếc túi nylon tiếp tục lang thang, chỉ để bị một đứa trẻ nhặt lên coi như một món đồ chơi. Sau khi bị đứa trẻ bỏ rơi 'rất buồn cho chiếc túi nylon' nó được nhặt lại, tái chế và chuyển thành túi mua sắm. Đây là một kết thúc có hậu, được thể hiện bằng nụ cười hạnh phúc của chiếc túi nylon.


Tác giả Lưu Nhữ Quý (劉汝貴) viết rằng, cô đã sử dụng chiếc túi nylon như một nhân vật với hy vọng kích thích từ bi tâm của trẻ em, khiến chúng nó biết trân trọng những đồ vật mà chúng nó sử dụng. Theo tác giả Lưu Nhữ Quý, "Trân trọng" dẫn đến sự hiểu biết sâu sắc hơn về chủ nghĩa môi trường. 


Từ mối liên hệ giữa việc có thể nhìn nhận về một chiếc túi nylon 'mang lại phản ứng cả về trí tuệ và cảm xúc' và định giá đối tượng đó, nếu không thì có thể bị coi là một thứ rác rưởi. 


Độc giả trẻ được khuyến khích để có quan điểm của những nhân vật phi phàm này, họ thay đổi cách tư duy về thế giới và hành động của chính họ. Điều này kết nối với giáo lý từ bi trí tuệ của đạo Phật về nhân quả nghiệp báo và luân hồi, có nghĩa là mọi hành động cố ý đều co hậu quả. 


Điều quan trọng không kém, mặc dù một người không thể tái sinh thành chiếc túi nylon, nhưng một người có thể tái sinh thành côn trùng hoặc động vật có nguy cơ tuyệt chủng. Ở một cấp độ khác, lấy góc nhìn của một chiếc túi nylon giúp người đọc hiểu cách tất cả các yếu tố của vũ trụ đều có sự liên kết với nhau, một giáo lý Hoa Nghiêm mang hình thức triết học phức tạp nhất trong Phật giáo. 


Tác động của Văn học đối với Thiếu nhi


Bằng cách cho trẻ em thấy rằng, chúng nó có trách nhiệm chăm sóc và bảo vệ môi trường, những cuốn sách này có tác dụng tạo ra điều mà Giáo sư Xã hội học kinh tế, Kinh tế và Xã hội học Tiến sĩ Bengt Larson đã gọi là "Bản thân Sinh thái" (ecological selves), trong một bài báo năm 2012. 


Mặc dù các nghiên cứu về tác động lâu dài của văn học dành cho trẻ em còn hạn chế, nhưng có một số bằng chứng cho thấy, cách tiếp cận này có hiệu quả trong việc thúc đẩy sự quan tâm đến các vấn đề quan tâm chăm sóc và bảo vệ môi trường. 


Ví dụ, một nghiên cứu ở Australia đã phát hiện ra rằng thuyết nhân hình, quy định các đặc điểm của con người cho động vật và mọi thứ, làm tăng mối quan tâm của trẻ em đối với các yếu tố của môi trường, cũng như sự đầu tư tình cảm của chúng nó vào các câu chuyện. Có nghĩa là, một số loại sách nhất định đã làm thay đổi thái độ của trẻ em. 


Như trong nghiên cứu tôi dã tìm thấy, đây là điều mà các tổ chức Phật giáo cũng nhận ra và đưa vào sứ mệnh giáo dục của họ. Trưởng thành theo đạo Phật có nghĩa là phát triển thành chủ nghĩa môi trường và quyền công dân toàn cầu. 


Tác giả: Natasha Heller

Biên dịch: Thích Vân Phong 

(Nguồn: Taiwan Insight)


***
facebook
youtube
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
30/12/2010(Xem: 3441)
Tứ Thư và Ngũ Kinh là những bộ sách làm nền tảng cho Nho giáo. Sách này vừa là kinh điển của các môn đồ đạo Nho, vừa là những tác phẩm văn chương tối cổ của nước Tàu.
25/12/2010(Xem: 8035)
Phật giáo là một tôn giáo được đức Thích Ca Mâu Ni (Shakyamuni) truyền giảng ở miền bắc Ấn Độ vào thế kỷ thứ 6 TCN. Do đạo Phật được truyền đi trong một hơn hay 2500 năm và lan ra nhiều nơi cho nhiều chủng tộc nên lịch sử phát triển của nó khá đa dạng về các bộ phái cũng như là các nghi thức và phương pháp tu học. Ngay từ buổi đầu, đức Thích Ca, người truyền đạo Phật, đã thiết lập được một giáo hội với các luật lệ hoạt động chặt chẽ của nó. Nhờ vào sự uyển chuyển của giáo pháp, đạo Phật có thể thích nghi với các hoàn cảnh chế độ xã hội, con người, và tập tục ở các thời kỳ khác nhau, nên ngày nay Phật giáo vẫn tiếp tục tồn tại và phát triển ngay cả trong các nước có nền khoa học tiên tiến như Hoa Kỳ và Tây Âu.
24/12/2010(Xem: 5432)
Nếu ta dở bản đồ thế giới, ta sẽ thấy Á Châu chiếm một vùng đất mênh mông hình mặt trăng lưỡi liềm, hai đầu chỉa về hướng bắc, vòng trong đi theo duyên hải Biển Bắc Cực của xứ Scandinavia và Tây Bá Lợi Á. Vòng ngoài từ đông sang tây là bờ biển Thái Bình Dương Tây Bá Lợi Á qua Trung Quốc, các nước Đông Nam Á, bán đảo lục địa Ấn Độ, Iran, Tiểu Tế Á đến Âu Châu. Giáp ranh vòng ngoài của mặt trăng lưỡi liềm ấy, tại nhiều nơi, nhưng đứng ngoài, ta thấy các nước Ả Rập, Phi Châu và Mỹ Châu.
15/12/2010(Xem: 5458)
Có những người tuy không hiểu biết nhiều về Phật Giáo nhưng lại có phần nào quen thuộc với giáo lý bất bạo động và từ bi của đao Phật, những người này thường hay lầm tưởng rằng giới Phật tử đều ăn chay. Họ có phần nào ngạc nhiên pha chút thất vọng khi khám phá ra rằng rất đông Phật tử ở cả phương Đông lẫn phương Tây vẫn thường ăn thịt (ăn mặn), cho dù không nhất thiết là tất cả Phật tử ai ai cũng ăn thịt như vậy.
03/12/2010(Xem: 3618)
Mùa Thu năm 334 trước Tây Lịch (TTL), vua A-Lịch-Sơn Đại-Đế (Alexander the Great) của nước Hy-Lạp bắt đầu cuộc chinh phạt Đông tiến. Nhà vua thấy nhà hiền triết Aristotle – cũng là ông thầy dậy học mình – nói về Ấn-Độ như là một dải đất mênh mông xa tít mù tắp tận chân trời, nên cảm thấy hứng thú phải đi chiếm lấy và để đem nền văn minh Hy-Lạp reo rắc cho các dân bản xứ.
28/11/2010(Xem: 4659)
Ngày nay, các nhà nghiên cứu lịch sử võ học đều thừa nhận, Thiếu Lâm không những là cội nguồn của nhiều môn võ khác, mà còn được tôn xưng là Ngôi Sao Bắc Đẩu trong nền võ học.
23/10/2010(Xem: 12168)
Đại Diễn giải về Mật thừa của Tsongkapa (1357-1419), nhà sáng lập phái Gelukpa của Phật giáo Tây Tạng, trình bày những đặc trưng chính của tất cả những hệ thống của tantra Phật giáo cũng như sự khác biệt giữa Kinh và Tantra, hai bộ phận của lời Phật dạy.
22/10/2010(Xem: 6299)
Khi tìm những bài nói về về tương lai Phật giáo hoặc Phật giáo và tuổi trẻ, tôi lấy làm ngạc nhiên vì không dễ kiếmđược nhiều bài nói về đề tài phức tạp này để cốnghiến cho đọc giả của đặc san. Có lẽ do vì thống kê sinhhoạt Phật pháp không được đầy đủ và nền sinh hoạttại các chùa không mấy liên quan với nhau.
20/10/2010(Xem: 5127)
Tích Lan (Sri Lanka) là một xứ sở Phật giáo lâu đời nhất, Phật giáo Theravada là một tôn giáo lớn tại đảo quốc này từ thế kỷ thứ hai trong triều đại vua Devanampiya-Tissa đã được vị tu sĩ Ngài Mahinda, con trai của vua Ashoka, bên Ấn Độ sang truyền giáo. Sau đó, Ni Sư Sanghamitta, con gái của vua Asoka, được biết rằng đã mang một nhánh cây Bồ Đề trích từ cây Bồ Đề nguyên thuỷ tại Bồ Đề Đạo Tràng và đã được trồng tại Anuradhapua. Bắt đầu từ đó cho đến ngày hôm nay, Phật giáo tại Tích Lan đã từng và vẫn còn một lòng kính trọng cây Bồ Đề mà ở dưới bóng cây đó Đức Phật đã Giác Ngộ. Những vị tu sĩ Tích Lan đã đóng vai trò quan trọng trong việc truyền bá đạo pháp cho cả hai tông phái Nguyên Thủy và Đại Thừa khắp suốt Đông Nam Á Châu. Tại Tích Lan, vào thế kỷ thứ nhất trước CN trong triều
15/10/2010(Xem: 8022)
Hôm nay Đạo Phật đang chuyển đến một hướng mới, và có hàng ngàn người phương Tây đang cố gắng thực hành lời dạy của Đức Phật như một phương pháp sống.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567