Xứng Tán Công Hạnh Hoằng Pháp của Đức Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Từ Thông (1928-2025)

26/10/202508:17(Xem: 584)
Xứng Tán Công Hạnh Hoằng Pháp của Đức Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Từ Thông (1928-2025)

ht thich tu thong (1)ht thich tu thong (53)

XƯNG TÁN CÔNG HẠNH HOẰNG PHÁP
CỦA ĐỨC TRƯỞNG LÃO HÒA THƯỢNG THÍCH TỪ THÔNG

 

 

Nam Mô Tiếp Dẫn Đạo Sư A Di Đà Phật

 

Kính bạch Giác linh Đức Trưởng Lão Hòa Thượng Ân Sư Thích Từ Thông, bậc cao Tăng thạc đức đã phụng hiến trọn gần một thế kỷ cho nền giáo dục Phật học Việt Nam.

 

Từ xứ Nam Bán Cầu – Úc Đại Lợi, chiều ngày 17/10/2025, chúng con kính nhận tin buồn Đức Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Từ Thông, bậc long tượng của Phật giáo Việt Nam, vị Thầy mô phạm của nhiều thế hệ Tăng Ni, đã thu thần viên tịch lúc 12 giờ 45 phút, ngày 17 tháng 10 năm 2025 (nhằm ngày 26 tháng 8 năm Ất Tỵ, Phật lịch 2569) tại Trường Trung Cấp Phật Học Sài Gòn, nơi Ngài gắn bó suốt 4 thập niên với cương vị Hiệu Trưởng, trụ thế 98 năm, hạ lạp 77 năm

 

Ôn Viện Chủ Tu Viện Quảng Đức Thích Thông Mẫn đã bay từ Nha Trang vào viếng tang và đảnh lễ Giác Linh  Đức Trưởng Lão Hòa Thượng.

 

Trong tuần qua, vì bận Phật sự tang lễ cho Phật tử địa phương, hôm nay Tu Viện Quảng Đức chúng con mới có thể trang nghiêm cử hành Lễ Tưởng Niệm Đức Ân Sư, ngưỡng mong Giác linh Đức Trưởng Lão Hòa Thượng từ bi hoan hỷ chứng tri cho lòng thành của hàng đệ tử chúng con nơi viễn xứ.

 

 

01/ Hành Trạng và Công Đức Hoằng Pháp

 

Sau khi tốt nghiệp Cao Đẳng Phật Học năm 1958, Hòa Thượng phát nguyện dấn thân hoằng pháp khắp các tỉnh miền Nam, đem ánh sáng Phật pháp soi rọi đến tận những vùng quê hẻo lánh, gieo mầm tuệ giác giữa lòng dân gian.

 

Không như nhiều pháp hữu cùng khóa, như Hòa Thượng Thanh Từ, Hòa Thượng Huyền Vi, Hòa Thượng Thiền Định, đều có tự viện riêng và hàng đệ tử xuất gia, Ngài vẫn thủy chung với chí nguyện ban đầu:“Chỉ một đời cống hiến cho giáo dục và thuyết pháp.”

 

Chính nhờ hạnh nguyện ấy, suốt hơn bảy mươi năm hành đạo, Hòa Thượng chuyên tâm duy nhất vào sự nghiệp giáo dục Tăng Ni, mở trường, đào tạo Tăng tài, tiếp dẫn hậu lai, báo Phật ân đức và duy trì mạng mạch chánh pháp.

 

Dù không có đệ tử xuất gia trực tiếp, nhưng Ngài lại là Sư Phụ chung của hàng ngàn Tăng Ni học chúng, những người từng thọ pháp và học đạo từ Ngài, rồi tỏa đi khắp nơi từ quốc nội và hải ngoại, để tiếp nối sứ mệnh hoằng truyền chánh pháp.

 

Đức Trưởng Lão Hòa Thượng là một nhà Phật học uyên bác, một pháp sư lỗi lạc, và cũng là một nhà giáo dục mẫu mực. Pháp âm của Ngài vang vọng suốt nhiều thập niên, từ các giảng đường, trường Phật học cho đến khắp tự viện toàn quốc.

 

Tính đến ngày viên tịch, Ngài đã để lại hơn một ngàn bài giảng dưới dạng băng, đĩa, và video, được phổ biến rộng rãi trên các nền tảng truyền thông toàn cầu như YouTube và Facebook. Một số bộ băng giảng lưu lại cho đời gồm có:

  • Kinh Pháp Hoa: 68 CD
  • Kinh Bát Nhã: 30 CD
  • Kinh Thủ Lăng Nghiêm: 80 CD
  • Kinh Như Lai Viên Giác: 19 CD
  • Kinh Duy Ma Cật: 50 CD
  • Kinh Đại Bát Niết Bàn: 298 băng
  • Chứng Đạo Ca: 47 băng
  • Phật Pháp Vấn Đáp: 39 CD
  • Duy Thức Học: 30 CD
  • Hướng Dẫn Tu Học – Tham Thiền – Ngón Tay Chỉ Trăng: 216 CD


Không chỉ là một giảng sư danh tiếng, Hòa Thượng còn là một dịch giả, tác giả và luận sư uyên thâm, đã để lại cho đời nhiều tác phẩm kinh luận Đại Thừa có giá trị cả về học thuật lẫn hành trì, giúp người học tìm thấy an lạc trong hiện tại và hướng đến giải thoát tối hậu.

 

 02/ Tinh Thần “Trực Chỉ Đề Cương”của HT Thích Từ Thông:

 

Hòa Thượng Thích Từ Thông được tôn xưng là một luận sư Đại Thừa tiêu biểu của Phật giáo Việt Nam. Phong cách giảng giải kinh tạng của Ngài mang dấu ấn riêng biệt: vừa sâu sắc, vừa trực nhận, luôn đi thẳng vào tinh yếu lời Phật dạy. Ngài thường dùng cụm từ “Trực chỉ đề cương” để chỉ ra phương pháp khai mở cốt tủy giáo pháp, giúp hành giả nắm bắt tinh thần chân thật của Kinh tạng, vượt lên trên hình thức văn tự mà thể nhập ý nghĩa giải thoát của Như Lai.

 

  • Trực chỉ”: Đi thẳng vào nghĩa lý thực hành, không sa vào văn cú, lịch sử.
  • “Đề cương”: Hệ thống hóa nội dung Kinh, giúp người học dễ nhớ, dễ giảng, dễ hành trì.


Các luận bản trực chỉ đề cương của Ngài để lại cho đời:

 

1/“Bát Nhã Ba La Mật Kinh Trực Chỉ Đề Cương: nêu rõ ý nghĩa của “Ba La Mật”, Đáo bỉ ngạn, tức trí tuệ vượt bờ mê sang bờ giác. Hòa Thượng dùng phương pháp “trực chỉ” để chỉ thẳng vào: bản chất của trí tuệ Phật, và cách hành giả ứng dụng trí tuệ ấy trong đời sống và tu tập. Ngài không giảng theo lối phân tích triết học phức tạp, mà lập “đề cương” súc tích, minh bạch để người học: “Thấy rõ đường đi của tâm thức – từ vô minh đến Bát Nhã, từ mê đến giác, từ hữu chấp đến vô trụ.”

 

2/“Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật Kinh Trực Chỉ Đề Cương”, là bản tinh yếu, cô đọng nhất, được Đức Phật giảng để phá chấp, hiển chân như. Hòa Thượng sớ giải “Trực chỉ đề cương” nhằm giúp hành giả: thấy thẳng cốt tủy Kim Cang là phá ngã chấp và pháp chấp, thấy rằng trí tuệ chân thật là vô sở đắc, và Bồ Tát hành đạo là hành mà không thấy có người hành.

 

3/“Duy Ma Cật Sở Thuyết Kinh Trực Chỉ Đề Cương: Hòa Thượng chỉ thẳng chỗ tinh yếu: Cư sĩ Duy Ma là hình ảnh của trí tuệ giữa đời thường, không phải tu trong núi rừng mà vẫn sống được chánh pháp. Hành Bồ Tát đạo là hành trong đời sống, “ở chợ mà không nhiễm chợ”, đó chính là Bát Nhã sống.

 

4/“Thủ Lăng Nghiêm Kinh Trực Chỉ Đề Cương: được Hòa Thượng giảng giải với mục tiêu chỉ thẳng bản tâm chân thật: “Lăng Nghiêm đại định” là nền tảng của mọi công phu tu tập. Ngài nêu rõ 25 pháp viên thông, nhưng chỉ quy về Trực tâm kiến tánh, nhận ra tự tánh thanh tịnh bản nhiên. “Trực chỉ đề cương” của bộ kinh này giúp người học nắm mạch lý – quán – hành, không lạc vào triết lý rườm rà.

 

5/“Như Lai Viên Giác Kinh Trực Chỉ Đề Cương: nói về tánh Viên Giác vốn sẵn đủ trong tất cả chúng sanh. Hòa Thượng trình bày theo tinh thần: “Tánh giác vốn thường hằng, mê vốn không thật”. Phật chỉ thẳng vào nguồn tâm Viên Giác, để hành giả biết mê tức giác, không cần cầu bên ngoài. Kinh này được xem như “kim chỉ nam” cho hành giả thiền – quán – Bát Nhã.

 

6/“Chứng Đạo Ca Trực Chỉ Đề Cương: Tác phẩm của Thiền sư Huyền Giác, được Hòa Thượng giảng lại với tinh thần: Ca tụng sự giác ngộ tự chứng, giải thích nghĩa lý Thiền – Bát Nhã – Duy thức bằng lời bình rõ ràng, thẳng thắn. “Trực chỉ đề cương” trong tập này giúp Tăng Ni thấy rõ tiến trình tu tập từ mê đến giác ngộ.

 

7/“Duy Thức Học Yếu Luận Trực Chỉ Đề Cương: vốn sâu và rất khó, Hòa Thượng dùng phương pháp “trực chỉ” để giải thích ngắn gọn tám thức, ba tánh, hai thủ, năm vị…Nêu cương yếu giúp hành giả thấy rõ tâm vận hành ra sao và làm thế nào chuyển thức thành trí. Sách được xem là cẩm nang nhập môn Duy Thức học cho Tăng Ni sinh các trường Phật học.

(những tác phẩm này con đều online và lưu trữ đầy đủ trên trang nhà Quảng Đức, mời xem trang tác phẩm của Ôn: 

https://quangduc.com/author/about/9907/ht-thich-tu-thong) 

 

03/ Kỷ Niệm Dưới Mái Trường Vĩnh Nghiêm

 

Con sinh trưởng nơi miền duyên hải Nha Trang, đầu năm 1989 nhờ duyên lành được theo học Khóa I Trường Cơ Bản Phật Học Vĩnh Nghiêm. Do hộ khẩu ở Nha Trang, nên con cùng khoảng hai mươi vị khác ở Khánh Hòa, chỉ được xếp vào diện tăng sinh dự thính, nhưng lòng hân hoan vô hạn. Ngôi trường Phật học đầu tiên sau năm 1975 là ánh sáng đạo pháp chiếu rọi cả nước, khiến từ Bắc chí Nam, Tăng Ni đều quy tụ về, cầu học pháp âm nơi cửa Thiền.

 

Chỉ hơn một tháng sau ngày khai giảng, số lượng học tăng từ 200 đã tăng vọt lên gần 1000 vị. Ai cũng tha thiết được vào học ngôi trường Phật học đầu tiên của Thành hội Phật giáo Sài Gòn này.

 

Trong tinh thần phóng khoáng và bao dung, Ôn Hiệu Trưởng, Đức Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Từ Thông đã mở rộng vòng tay đón nhận tất cả, không hề ngại khó, không sợ trách nhiệm, chỉ với tâm từ bi muốn tạo điều kiện cho hàng hậu học có cơ hội được học Phật. Vì số lượng quá đông nên chúng con phải học ngay tại giảng đường lớn, chứ không đủ phòng lớp như dự tính ban đầu.

 

Chuyện gì đến phải đến, cuối cùng Ban Tôn giáo thành phố đến làm việc và yêu cầu nhà trường phải giảm số lượng, chỉ giữ lại những Tăng Ni có hộ khẩu tại Sài Gòn, buộc hơn 500 vị ngoài tỉnh phải rời khỏi trường. Khung cảnh ngày chia tay hôm ấy vô cùng xúc động, nhiều Tăng Ni bật khóc vì tiếc nuối giấc mơ học Phật nơi Vĩnh Nghiêm. Riêng con, nhờ nhân duyên lành, được Hòa Thượng giảng viên Thích Thiện Tâm từ bi bảo lãnh nên được phép ở lại học trọn bốn năm, đó là một nhân duyên hi hữu, là gốc rễ cho con tiếp tục thi tuyển vào Cao Cấp Phật Học Vạn Hạnh (1993–1997), mở lối hành đạo cho đến ngày hôm nay.

hoc tang vinh nghiem-1

 

hoc tang vinh nghiem-2
Nhóm Tăng Sinh Vạn Hạnh (1993-1997) xuất thân từ Vĩnh Nghiêm (1989-1992)
do Đức Trưởng Lão Thích Từ Thông làm Hiệu Trưởng




 

Con ghi lại những dòng này để thành kính tri ân Ôn Hiệu Trưởng Thích Từ Thông, người đã có tấm lòng quảng đại, thương yêu và đùm bọc các Tăng Ni sinh ngoài tỉnh, trong giai đoạn đầy khó khăn những ngày đầu của phong trào chấn hưng nền Phật học sau 1975.

 

Bốn năm dưới mái trường ấy, Ôn vừa là Hiệu Trưởng, vừa là giảng sư trực tiếp đứng lớp, từng lời Ôn dạy đều thấm đượm đạo tình và trí tuệ. Ôn có phong cách giảng dạy sinh động, vừa nói vừa viết, vừa vẽ minh họa trên bảng, khiến cho pháp nghĩa trở nên sáng tỏ, dễ hiểu mà khó quên.

 

Trong quyển vở học trò năm ấy, con vẫn còn ghi lại những lời pháp ngữ, những câu đối Ôn dạy, những câu mà Ôn bắt buộc chúng con phải học thuộc lòng để nuôi dưỡng chí nguyện tu hành. Có những lời dạy của Ôn mà con vẫn nhớ mãi, chẳng hạn như:

 

“Quả Vô Thượng Niết Bàn của Đức Như Lai chỉ là kết quả của quá trình đấu tranh với dục vọng, và chiến thắng hoàn toàn bọn giặc phiền não, vô minh.”

 

Đó là lời cảnh tỉnh cho người tu, rằng đạo quả không từ lý luận mà từ chiến thắng chính bản thân mình.

 

Hay câu pháp ngữ thường xuyên của Ngài:  “Quả Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác của Đức Như Lai chỉ là một quá trình cải tạo và xây dựng, sống theo, sống đúng và sống hợp với Chân Lý.”

 

Thật vậy, Ngài đã âm thầm gieo trồng hạt giống Bồ-đề cho hàng ngàn học Tăng, học Ni. Với phong thái nghiêm từ mà khoan dung, Ngài từng dạy rằng: “Học Phật không phải để biết nhiều, mà để sống đúng; Hành đạo không phải để nổi danh, mà để độ sinh.”

 

 Bao lớp Tăng Ni đã trưởng thành từ những pháp ngữ ấy, nay là những giảng sư, trụ trì, giáo thọ, và Phật sự viên khắp nơi trên thế giới. Mỗi người, trong tâm khảm, đều mang bóng dáng của một bậc Thầy từ hòa, giản dị, minh triết, trọn đời vì pháp.

 

Rồi đến những câu đối Ôn truyền dạy:

 

01/Câu đối về giáo nghĩa Tịnh Độ:

 

佛 號 彌 陀 法 界 藏 身 隨 淨 處 現
國 名 極 樂 寂 光 真 境 在 玄 心 開

 

Phật hiệu Di Đà, Pháp giới tàng thân, tùy xứ hiện
Quốc danh Cực Lạc, tịch quang chơn cảnh, cá trung huyền

 

Dịch nghĩa Việt:

 

Phật hiệu Di Đà thân ẩn pháp giới tùy chỗ tịch tịnh liền ứng hiện

Nước tên Cực Lạc cõi chơn tịch quang nơi tâm nhiệm mầu chóng phô bày (Thích Chúc Hiền dịch)

 

02/ Câu đối về ngũ thừa Phật Giáo:

 

覽 五 時, 八 教, 行 持 經 律 論, 入 真 三昧海
照 七 大, 四 科, 結 合 聞 思 修, 明 第一義天

 

-Lãm ngũ thời bát giáo hành trì Kinh Luật Luận nhập chân tam muội hải.

-Chiếu thất đại tứ khoa kết hợp văn tư tu đệ nhất nghĩa thiên.

 

Dịch nghĩa Việt:

-Xem năm thời, tám giáo, hành trì kinh luật luận, vào biển tuệ chơn thiền

-Chiếu bảy đại, bốn khoa, kết hợp văn tư tu, rõ trời đệ nhất nghĩa (Thích Chúc Hiền dịch)

 

03/Câu đối về Đức Thế Tôn:

 

暦 劫 為 明 君 為 良 將 為 孝 子 為 導 師 軍 用 真 如 結 界 良 善 緣 莊 嚴 福 海

現 世 棄 真 寶 棄 妻 孥 棄 國 城 棄 王 位 圓 成 大 覺 說 怛 沙 妙 法 拔 濟 迷 流

 

-Lịch kiếp vi minh quân, vi lương tướng, vi hiếu tử, vi đạo sư, vận dụng chân như, kết giới lương thiện duyên, trang nghiêm phúc hải. 

-Hiện thế khí chân bảo, khí thê noa, khí quốc thành, khí vương vị, viên thành đại giác, thuyết hằng sa diệu pháp, bạt tế mê lưu.

 

Dịch nghĩa Việt:

 

-Nhiều kiếp là minh quân, là tướng giỏi, là con hiếu, là đạo sư, vận dụng chơn như, kết cõi duyên lành, trang nghiêm biển phước.

 -Hiện đời bỏ chơn bảo, bỏ vợ con, bỏ nước thành, bỏ ngôi vị, thành tựu đại giác, thuyết hằng sa diệu pháp, cứu vớt dòng mê. (Thích Chúc Hiền dịch)

 

04/ Câu đối của Cụ Nguyễn Sinh Sắc phê bình Phật Giáo và Cao Đài:

禪家教養龜毛縛樹頭風
大道廣開兔 角撬潭底月


Thiền gia giáo dưỡng quy mao phược thọ đầu phong,
Đại đạo quảng khai thố giác khiêu đàm đế nguyệt.

Dịch nghĩa Việt:

-Giáo dưng nhà thin ta dùng lông rùa buc gió đu cây

-Hong khai Đi đo (*) như ly sng th khu trăng nơi đáy nưc. (Thích Chúc Hiền dịch)

* Đi đo: Đo Cao Đài

Con ghi nhớ lời giảng và ý cnh tnh ca Hòa Thưng Hiệu Trưởng. HT cho biết Cụ Nguyn Sinh Sc (18621929), thân sinh ca H Chí Minh, sinh ti làng Hoàng Trù, huyn Nam Đàn, tnh Ngh An. Ông thi đ Phó bng năm 1901 (Tân Su), trong khoa thi Hi cùng năm vi nhiu nhân tài đương thi.

Sau khi đ đt, ông đưc b làm Thư li B L, ri Tri huyn Bình Khê (Bình Đnh) nhưng b cách chc do v x án sai (khong năm 19101911). Sau đó, ông ri quan trưng, chn con đưng dy hc, tu thân và hành đo cu đi. T khong 19151925, C vào hn min Nam, nhiu nơi như Gò Công, M Tho, Cao Lãnh, Sa Đéc, Hòa An (Đng Tháp). Ông chùa, dy ch Nho, ging đo lý cho dân nghèo, và giao du vi các tu sĩ Pht giáo, đo sĩ Cao Đài sơ k, trong đó có nhng ngưi sau này lp đo. Cũng trong thi gian này, C sáng tác nhiu câu đi, thi k, và li phê bình tôn giáo mê tín, như câu đi trên.

Hòa Thượng nói rằng câu đi này không nhm bài bác Phật Giáo hay Cao Đài, mà cụ Phó bảng ch trích nhng ngưi tu hành hình thc, giáo lý thì cao siêu mà không ng dng vào đi sng nhân sinh. “Lông rùa trói gió” là biu trưng cho s vô ích, dy đo mà không hp cơ duyên, nói pháp cao xa mà không cu đưc kh đau thc tế“Sng th khều trăng” là chuyện o tưng, đo lý nói rng mà không có căn bn hành trì, ch là hình bóng hư huyn. Hòa Thưng Hiệu Trưởng trích câu đi này trong các bui ging đ nhc hàng Tăng Ni và Pht t“Nếu chúng ta ch lo nói suông v giáo lý, mà không đem đo vào đi, không giúp chúng sanh chuyn mê khai ng, thì đo Pht cũng s b ngưi đi xem như "lông rùa trói gió.” Ngài khuyến tn đi chúng: Hc Pht không phi ch đ hiu suông, mà phi ng dng pháp hành T Diu Đế, Bát Chánh Đo vào đi sng. Tu không phi ch đ cu an, cu phưc, mà đ chuyn hóa thân tâm, làm li ích cho mình và cho ngưi. Giáo lý nhà Pht ch tht s có giá tr khi tr thành hơi th, nếp sng và hành đng c th trong đi.

Thật vậy, những câu đối trên không chỉ là tác phẩm ngôn từ, mà còn là thông điệp tâm linh, tinh túy của cả một đời tu học và giảng dạy của Ôn muốn truyền trao cho thế hệ trẻ.  Đó là ngọn đèn trí tuệ soi sáng cho các thế hệ tăng ni trên bước đường tu học, là kim chỉ nam để chúng con hành trì, không lạc lối giữa biển pháp mênh mông.

 

Những dòng chữ ấy là pháp âm vô tận, huyền nhiệm mà cũng rất thực tiễn, khai mở cho chúng con thấy rằng pháp học chẳng hề xa cách đời sống; ngay trong từng hơi thở, từng niệm tâm, đều là con đường đưa vào cảnh giới giác ngộ.

 

Kính bạch Giác Linh Hòa Thượng,

Sau gần một thế kỷ sống và hành đạo, huyễn thân tứ đại tuy hoại diệt, nhưng tâm nguyện độ sanh của Ngài vẫn bất diệt.
Ngài là tấm gương sáng ngời về hạnh khiêm cung, thanh bạch, giản dị, trọn đời cống hiến cho đạo pháp và dân tộc.

 

Hôm nay, trong khói hương tưởng niệm, hàng đệ tử xuất gia và tại gia Tu Viện Quảng Đức, Melbourne, Úc Châu, đồng thành kính dâng lên Giác linh Đức Ân Sư lòng tri ân vô lượng.


Ân giáo dưỡng của Ôn Hiệu Trưởng như trời cao biển rộng, muôn đời không thể đền đáp. Chúng con nguyện tinh tấn tu học, hoằng truyền chánh pháp, lấy sự hành trì để đền báo ân sâu.

 

Nguyện cầu Giác linh Đức Trưởng Lão Hòa Thượng cao đăng Phật quốc, sớm tái hiện đàm hoa, tái sanh trở thế giới Ta Bà, để tiếp tục công cuộc hoằng Pháp lợi sanh.

 

Nam Mô Ma Ha Tỳ Kheo Bồ Tát Giới thượng Từ hạ Thông Trưởng Lão Hòa Thượng Giác Linh Tôn Sư Thùy Từ Chứng Giám.

 

 

Tỳ Kheo Thích Nguyên Tạng
-Cựu học tăng Khóa I, Trường Cơ Bản Vĩnh Nghiêm (1989–1992)
-Trụ Trì Tu Viện Quảng Đức, Melbourne, Úc Châu








ht thich tu thong (12)
ht thich tu thong (10)

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
11/11/2025(Xem: 156)
Thế Danh Trần Thanh Hùng Tiểu Sử Cá Nhân, Quá Trình Xuất Gia, và Học Vấn • Sinh ngày 12 tháng 8 năm 1935 tại Nam Định, Việt Nam • Trở thành Chú Tiểu, vào chùa tu học với thầy bổn sư là Hoà Thượng Thích Đức Hải (thế danh Nguyễn Bỉnh Nam), ngày 6/2/1943 • Học tại Trường Trung học Chu Văn An, Hà Nội • Tốt nghiệp Phật Học Đường Quán Sứ ở Hà Nội, Việt Nam – năm 1954 • Tị nạn chính trị từ Hà Nội vào Sài Gòn năm 1954 khi Việt Nam bị chia cắt 2 giữa miền Bắc và Nam • Tốt nghiệp Viện Phật học Hải Đức ở Nha Trang, Việt Nam – năm 1960 • Sang Hoa Kỳ du học năm 1965, tốt nghiệp Thạc sĩ và Tiến sĩ Chính trị học và Nghiên cứu Á châu tại Đại học Claremont Graduate, Claremont, CA năm 1969
08/11/2025(Xem: 146)
Thuở đức Phật ngồi dưới cội bồ đề Đêm gần tàn sáng sao mai xanh biếc Khai mở con đường minh triết phương Đông Sư tử hống chấn động mười ngàn thế giới Giặc ngu tối rùng mình rũ rượi Người vượt thoát tử sinh đến bến bờ tịch tinh Trí tuệ quang minh bừng lên rạng rỡ
21/10/2025(Xem: 575)
20/10/2025: Đêm Thắp nến tưởng niệm Sư Bà Như Trí (Khai Sơn Chùa Thiên Long) nhân Lễ Húy Nhật lần 19
21/10/2025(Xem: 542)
Từ thời say mê đọc sách trong các năm trung học, tôi đã nhìn thấy chung quanh mình như là một cõi phân đôi: thế giới thần thoại và thế giới đời thường. Cái nhìn đó vẫn theo tôi không rời, và tôi tin thật rằng các nhân vật trong truyện về các nàng Mị Nương, truyện Bích Câu Kỳ Ngộ của Việt Nam vẫn đang đi lại bên các vị thần của cổ tích Hy Lạp bên ngoài hiên nhà của tôi. Hễ tôi hé cửa nhìn ra là họ biến mất, nhưng khi khép cửa lại, tôi nghe được tiếng họ thì thầm như thúc giục tôi mở ra các trang sách để đọc về những cõi rất là thơ mộng.
17/10/2025(Xem: 1189)
Thượng tọa Thích Minh Thành, Phó Hiệu trưởng kiêm Chánh Thư ký Trường Trung cấp Phật học TP.HCM thông tin với Báo Giác Ngộ, sau thời gian khiếm an do tuổi cao, Trưởng lão Hòa thượng Thích Từ Thông đã thu thần viên tịch vào lúc 12 giờ 40 phút hôm nay, 17-10-2025 (nhằm ngày 26 tháng 8 năm Ất Tỵ) tại Trường Trung cấp Phật học TP.HCM (Đường số 8, P.Phước Long).
08/10/2025(Xem: 604)
Trăng Thiền Tuệ, Tiễn Ngài Hồi Cố. Chốn Linh Phong, Đức Tổ Truyền Lưu. Thanh Tu Trượng Khí Chân Như, Thong Dong Vạn Nẽo, Diễn Từ Pháp Âm. Chốn Trung Hậu, Ươm Mầm Tánh Phật. Hạnh Thanh Bần, Chân Thật Uy Nghi. Âm thanh Tán Tụng Trường Thi, Tay Cầm Thủ Phất, Dáng Thì Trượng Phu.
06/10/2025(Xem: 693)
Cuộc đời và đạo nghiệp HT Thích Minh Châu
20/09/2025(Xem: 1054)
Vào lúc 8h30 ngày 18/9/2025 (nhằm 27 tháng 7 năm Ất Tỵ), môn đồ hiếu quyến đã trang nghiêm tổ chức lễ Tưởng niệm - Huý nhật Trưởng lão Hoà thượng Thích Liễu Pháp, Tổ khai sơn chùa Thiên Xá (Vĩnh Phước, P. Bắc Nha Trang). Quang lâm tham dự lễ có Hoà thượng Thích Quảng Thiện, HT. Thích Nguyên Quang, đồng Thành viên HĐCM, Chứng minh BTS GHPGVN tỉnh Khánh Hoà; HT. Thích Đức Thành, Phó Trưởng Ban Trị sự GHPGVN tỉnh; HT. Thích Trí Khải, trụ trì chùa Quy Chơn (Phước Đồng, P. Nam Nha Trang)... cùng chư tôn Thượng toạ, Đại đức Tăng-Ni và đồng đảo Phật tử tề tựu tụng kinh, tưởng niệm...
22/08/2025(Xem: 862)
Giáo sư Trần Ngọc Ninh (1923–2025) là cựu giáo sư y khoa của Y khoa Đại học Đường Sài Gòn ngày xưa. Ông cũng là một cựu Thuyền Nhân, vượt biên năm 1977. Ông vừa mới qua đời ở California, và Bs Ngô Thế Vinh có viết một bài bằng tiếng Anh về cuộc đời và sự nghiệp của ông. Trong cuộc đời kéo dài hơn một thế kỷ, ông là hiện thân của một trí thức đích thực, kết hợp hài hòa giữa chuyên môn y khoa và những đóng góp cho văn hóa, giáo dục, và văn học Việt Nam. Từ những ngày đầu là sinh viên y khoa tại Hà Nội, đến vai trò giáo sư danh tiếng về phẫu thuật chỉnh hình và nhi khoa tại Sài Gòn, và sau này là một học giả văn hóa tại Mỹ, hành trình của ông phản ảnh sự tận tụy không ngừng nghỉ cho giấc mơ về một Việt Nam hiện đại, giàu bản sắc văn hóa. Qua bài viết này, Bs Ngô Thế Vinh ghi lại di sản đáng kinh ngạc của ông – sự nghiệp y khoa tiên phong, những tác phẩm ảnh hưởng về văn hóa Việt Nam, và tầm ảnh hưởng trường tồn với tư cách một học giả và nhà nhân văn, kết thúc bằng sự ra đi thanh thản ở t