

XƯNG TÁN CÔNG HẠNH HOẰNG PHÁP
CỦA ĐỨC TRƯỞNG LÃO HÒA THƯỢNG THÍCH TỪ THÔNG
Nam Mô Tiếp Dẫn Đạo Sư A Di Đà Phật
Kính bạch Giác linh Đức Trưởng Lão Hòa Thượng Ân Sư Thích Từ Thông, bậc cao Tăng thạc đức đã phụng hiến trọn gần một thế kỷ cho nền giáo dục Phật học Việt Nam.
Từ xứ Nam Bán Cầu – Úc Đại Lợi, chiều ngày 17/10/2025, chúng con kính nhận tin buồn Đức Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Từ Thông, bậc long tượng của Phật giáo Việt Nam, vị Thầy mô phạm của nhiều thế hệ Tăng Ni, đã thu thần viên tịch lúc 12 giờ 45 phút, ngày 17 tháng 10 năm 2025 (nhằm ngày 26 tháng 8 năm Ất Tỵ, Phật lịch 2569) tại Trường Trung Cấp Phật Học Sài Gòn, nơi Ngài gắn bó suốt 4 thập niên với cương vị Hiệu Trưởng, trụ thế 98 năm, hạ lạp 77 năm
Ôn Viện Chủ Tu Viện Quảng Đức Thích Thông Mẫn đã bay từ Nha Trang vào viếng tang và đảnh lễ Giác Linh Đức Trưởng Lão Hòa Thượng.
Trong tuần qua, vì bận Phật sự tang lễ cho Phật tử địa phương, hôm nay Tu Viện Quảng Đức chúng con mới có thể trang nghiêm cử hành Lễ Tưởng Niệm Đức Ân Sư, ngưỡng mong Giác linh Đức Trưởng Lão Hòa Thượng từ bi hoan hỷ chứng tri cho lòng thành của hàng đệ tử chúng con nơi viễn xứ.
01/ Hành Trạng và Công Đức Hoằng Pháp
Sau khi tốt nghiệp Cao Đẳng Phật Học năm 1958, Hòa Thượng phát nguyện dấn thân hoằng pháp khắp các tỉnh miền Nam, đem ánh sáng Phật pháp soi rọi đến tận những vùng quê hẻo lánh, gieo mầm tuệ giác giữa lòng dân gian.
Không như nhiều pháp hữu cùng khóa, như Hòa Thượng Thanh Từ, Hòa Thượng Huyền Vi, Hòa Thượng Thiền Định, đều có tự viện riêng và hàng đệ tử xuất gia, Ngài vẫn thủy chung với chí nguyện ban đầu:“Chỉ một đời cống hiến cho giáo dục và thuyết pháp.”
Chính nhờ hạnh nguyện ấy, suốt hơn bảy mươi năm hành đạo, Hòa Thượng chuyên tâm duy nhất vào sự nghiệp giáo dục Tăng Ni, mở trường, đào tạo Tăng tài, tiếp dẫn hậu lai, báo Phật ân đức và duy trì mạng mạch chánh pháp.
Dù không có đệ tử xuất gia trực tiếp, nhưng Ngài lại là Sư Phụ chung của hàng ngàn Tăng Ni học chúng, những người từng thọ pháp và học đạo từ Ngài, rồi tỏa đi khắp nơi từ quốc nội và hải ngoại, để tiếp nối sứ mệnh hoằng truyền chánh pháp.
Đức Trưởng Lão Hòa Thượng là một nhà Phật học uyên bác, một pháp sư lỗi lạc, và cũng là một nhà giáo dục mẫu mực. Pháp âm của Ngài vang vọng suốt nhiều thập niên, từ các giảng đường, trường Phật học cho đến khắp tự viện toàn quốc.
Tính đến ngày viên tịch, Ngài đã để lại hơn một ngàn bài giảng dưới dạng băng, đĩa, và video, được phổ biến rộng rãi trên các nền tảng truyền thông toàn cầu như YouTube và Facebook. Một số bộ băng giảng lưu lại cho đời gồm có:
- Kinh Pháp Hoa: 68 CD
- Kinh Bát Nhã: 30 CD
- Kinh Thủ Lăng Nghiêm: 80 CD
- Kinh Như Lai Viên Giác: 19 CD
- Kinh Duy Ma Cật: 50 CD
- Kinh Đại Bát Niết Bàn: 298 băng
- Chứng Đạo Ca: 47 băng
- Phật Pháp Vấn Đáp: 39 CD
- Duy Thức Học: 30 CD
- Hướng Dẫn Tu Học – Tham Thiền – Ngón Tay Chỉ Trăng: 216 CD
Không chỉ là một giảng sư danh tiếng, Hòa Thượng còn là một dịch giả, tác giả và luận sư uyên thâm, đã để lại cho đời nhiều tác phẩm kinh luận Đại Thừa có giá trị cả về học thuật lẫn hành trì, giúp người học tìm thấy an lạc trong hiện tại và hướng đến giải thoát tối hậu.
02/ Tinh Thần “Trực Chỉ Đề Cương”của HT Thích Từ Thông:
Hòa Thượng Thích Từ Thông được tôn xưng là một luận sư Đại Thừa tiêu biểu của Phật giáo Việt Nam. Phong cách giảng giải kinh tạng của Ngài mang dấu ấn riêng biệt: vừa sâu sắc, vừa trực nhận, luôn đi thẳng vào tinh yếu lời Phật dạy. Ngài thường dùng cụm từ “Trực chỉ đề cương” để chỉ ra phương pháp khai mở cốt tủy giáo pháp, giúp hành giả nắm bắt tinh thần chân thật của Kinh tạng, vượt lên trên hình thức văn tự mà thể nhập ý nghĩa giải thoát của Như Lai.
- “Trực chỉ”: Đi thẳng vào nghĩa lý thực hành, không sa vào văn cú, lịch sử.
- “Đề cương”: Hệ thống hóa nội dung Kinh, giúp người học dễ nhớ, dễ giảng, dễ hành trì.
Các luận bản trực chỉ đề cương của Ngài để lại cho đời:
1/“Bát Nhã Ba La Mật Kinh Trực Chỉ Đề Cương”: nêu rõ ý nghĩa của “Ba La Mật”, Đáo bỉ ngạn, tức trí tuệ vượt bờ mê sang bờ giác. Hòa Thượng dùng phương pháp “trực chỉ” để chỉ thẳng vào: bản chất của trí tuệ Phật, và cách hành giả ứng dụng trí tuệ ấy trong đời sống và tu tập. Ngài không giảng theo lối phân tích triết học phức tạp, mà lập “đề cương” súc tích, minh bạch để người học: “Thấy rõ đường đi của tâm thức – từ vô minh đến Bát Nhã, từ mê đến giác, từ hữu chấp đến vô trụ.”
2/““Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật Kinh Trực Chỉ Đề Cương”, là bản tinh yếu, cô đọng nhất, được Đức Phật giảng để phá chấp, hiển chân như. Hòa Thượng sớ giải “Trực chỉ đề cương” nhằm giúp hành giả: thấy thẳng cốt tủy Kim Cang là phá ngã chấp và pháp chấp, thấy rằng trí tuệ chân thật là vô sở đắc, và Bồ Tát hành đạo là hành mà không thấy có người hành.
3/“Duy Ma Cật Sở Thuyết Kinh Trực Chỉ Đề Cương: Hòa Thượng chỉ thẳng chỗ tinh yếu: Cư sĩ Duy Ma là hình ảnh của trí tuệ giữa đời thường, không phải tu trong núi rừng mà vẫn sống được chánh pháp. Hành Bồ Tát đạo là hành trong đời sống, “ở chợ mà không nhiễm chợ”, đó chính là Bát Nhã sống.
4/“Thủ Lăng Nghiêm Kinh Trực Chỉ Đề Cương: được Hòa Thượng giảng giải với mục tiêu chỉ thẳng bản tâm chân thật: “Lăng Nghiêm đại định” là nền tảng của mọi công phu tu tập. Ngài nêu rõ 25 pháp viên thông, nhưng chỉ quy về Trực tâm kiến tánh, nhận ra tự tánh thanh tịnh bản nhiên. “Trực chỉ đề cương” của bộ kinh này giúp người học nắm mạch lý – quán – hành, không lạc vào triết lý rườm rà.
5/“Như Lai Viên Giác Kinh Trực Chỉ Đề Cương: nói về tánh Viên Giác vốn sẵn đủ trong tất cả chúng sanh. Hòa Thượng trình bày theo tinh thần: “Tánh giác vốn thường hằng, mê vốn không thật”. Phật chỉ thẳng vào nguồn tâm Viên Giác, để hành giả biết mê tức giác, không cần cầu bên ngoài. Kinh này được xem như “kim chỉ nam” cho hành giả thiền – quán – Bát Nhã.
6/“Chứng Đạo Ca Trực Chỉ Đề Cương: Tác phẩm của Thiền sư Huyền Giác, được Hòa Thượng giảng lại với tinh thần: Ca tụng sự giác ngộ tự chứng, giải thích nghĩa lý Thiền – Bát Nhã – Duy thức bằng lời bình rõ ràng, thẳng thắn. “Trực chỉ đề cương” trong tập này giúp Tăng Ni thấy rõ tiến trình tu tập từ mê đến giác ngộ.
7/“Duy Thức Học Yếu Luận Trực Chỉ Đề Cương: vốn sâu và rất khó, Hòa Thượng dùng phương pháp “trực chỉ” để giải thích ngắn gọn tám thức, ba tánh, hai thủ, năm vị…Nêu cương yếu giúp hành giả thấy rõ tâm vận hành ra sao và làm thế nào chuyển thức thành trí. Sách được xem là cẩm nang nhập môn Duy Thức học cho Tăng Ni sinh các trường Phật học.
(những tác phẩm này con đều online và lưu trữ đầy đủ trên trang nhà Quảng Đức, mời xem trang tác phẩm của Ôn:
https://quangduc.com/author/about/9907/ht-thich-tu-thong)
03/ Kỷ Niệm Dưới Mái Trường Vĩnh Nghiêm
Con sinh trưởng nơi miền duyên hải Nha Trang, đầu năm 1989 nhờ duyên lành được theo học Khóa I Trường Cơ Bản Phật Học Vĩnh Nghiêm. Do hộ khẩu ở Nha Trang, nên con cùng khoảng hai mươi vị khác ở Khánh Hòa, chỉ được xếp vào diện tăng sinh dự thính, nhưng lòng hân hoan vô hạn. Ngôi trường Phật học đầu tiên sau năm 1975 là ánh sáng đạo pháp chiếu rọi cả nước, khiến từ Bắc chí Nam, Tăng Ni đều quy tụ về, cầu học pháp âm nơi cửa Thiền.
Chỉ hơn một tháng sau ngày khai giảng, số lượng học tăng từ 200 đã tăng vọt lên gần 1000 vị. Ai cũng tha thiết được vào học ngôi trường Phật học đầu tiên của Thành hội Phật giáo Sài Gòn này.
Trong tinh thần phóng khoáng và bao dung, Ôn Hiệu Trưởng, Đức Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Từ Thông đã mở rộng vòng tay đón nhận tất cả, không hề ngại khó, không sợ trách nhiệm, chỉ với tâm từ bi muốn tạo điều kiện cho hàng hậu học có cơ hội được học Phật. Vì số lượng quá đông nên chúng con phải học ngay tại giảng đường lớn, chứ không đủ phòng lớp như dự tính ban đầu.
Chuyện gì đến phải đến, cuối cùng Ban Tôn giáo thành phố đến làm việc và yêu cầu nhà trường phải giảm số lượng, chỉ giữ lại những Tăng Ni có hộ khẩu tại Sài Gòn, buộc hơn 500 vị ngoài tỉnh phải rời khỏi trường. Khung cảnh ngày chia tay hôm ấy vô cùng xúc động, nhiều Tăng Ni bật khóc vì tiếc nuối giấc mơ học Phật nơi Vĩnh Nghiêm. Riêng con, nhờ nhân duyên lành, được Hòa Thượng giảng viên Thích Thiện Tâm từ bi bảo lãnh nên được phép ở lại học trọn bốn năm, đó là một nhân duyên hi hữu, là gốc rễ cho con tiếp tục thi tuyển vào Cao Cấp Phật Học Vạn Hạnh (1993–1997), mở lối hành đạo cho đến ngày hôm nay.
Con ghi lại những dòng này để thành kính tri ân Ôn Hiệu Trưởng Thích Từ Thông, người đã có tấm lòng quảng đại, thương yêu và đùm bọc các Tăng Ni sinh ngoài tỉnh, trong giai đoạn đầy khó khăn những ngày đầu của phong trào chấn hưng nền Phật học sau 1975.
Bốn năm dưới mái trường ấy, Ôn vừa là Hiệu Trưởng, vừa là giảng sư trực tiếp đứng lớp, từng lời Ôn dạy đều thấm đượm đạo tình và trí tuệ. Ôn có phong cách giảng dạy sinh động, vừa nói vừa viết, vừa vẽ minh họa trên bảng, khiến cho pháp nghĩa trở nên sáng tỏ, dễ hiểu mà khó quên.
Trong quyển vở học trò năm ấy, con vẫn còn ghi lại những lời pháp ngữ, những câu đối Ôn dạy, những câu mà Ôn bắt buộc chúng con phải học thuộc lòng để nuôi dưỡng chí nguyện tu hành. Có những lời dạy của Ôn mà con vẫn nhớ mãi, chẳng hạn như:
“Quả Vô Thượng Niết Bàn của Đức Như Lai chỉ là kết quả của quá trình đấu tranh với dục vọng, và chiến thắng hoàn toàn bọn giặc phiền não, vô minh.”
Đó là lời cảnh tỉnh cho người tu, rằng đạo quả không từ lý luận mà từ chiến thắng chính bản thân mình.
Hay câu pháp ngữ thường xuyên của Ngài: “Quả Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác của Đức Như Lai chỉ là một quá trình cải tạo và xây dựng, sống theo, sống đúng và sống hợp với Chân Lý.”
Thật vậy, Ngài đã âm thầm gieo trồng hạt giống Bồ-đề cho hàng ngàn học Tăng, học Ni. Với phong thái nghiêm từ mà khoan dung, Ngài từng dạy rằng: “Học Phật không phải để biết nhiều, mà để sống đúng; Hành đạo không phải để nổi danh, mà để độ sinh.”
Bao lớp Tăng Ni đã trưởng thành từ những pháp ngữ ấy, nay là những giảng sư, trụ trì, giáo thọ, và Phật sự viên khắp nơi trên thế giới. Mỗi người, trong tâm khảm, đều mang bóng dáng của một bậc Thầy từ hòa, giản dị, minh triết, trọn đời vì pháp.
Rồi đến những câu đối Ôn truyền dạy:
01/Câu đối về giáo nghĩa Tịnh Độ:
佛 號 彌 陀 法 界 藏 身 隨 淨 處 現
國 名 極 樂 寂 光 真 境 在 玄 心 開
Phật hiệu Di Đà, Pháp giới tàng thân, tùy xứ hiện
Quốc danh Cực Lạc, tịch quang chơn cảnh, cá trung huyền
Dịch nghĩa Việt:
Phật hiệu Di Đà thân ẩn pháp giới tùy chỗ tịch tịnh liền ứng hiện
Nước tên Cực Lạc cõi chơn tịch quang nơi tâm nhiệm mầu chóng phô bày (Thích Chúc Hiền dịch)
02/ Câu đối về ngũ thừa Phật Giáo:
覽 五 時, 八 教, 行 持 經 律 論, 入 真 三昧海
照 七 大, 四 科, 結 合 聞 思 修, 明 第一義天
-Lãm ngũ thời bát giáo hành trì Kinh Luật Luận nhập chân tam muội hải.
-Chiếu thất đại tứ khoa kết hợp văn tư tu đệ nhất nghĩa thiên.
Dịch nghĩa Việt:
-Xem năm thời, tám giáo, hành trì kinh luật luận, vào biển tuệ chơn thiền
-Chiếu bảy đại, bốn khoa, kết hợp văn tư tu, rõ trời đệ nhất nghĩa (Thích Chúc Hiền dịch)
03/Câu đối về Đức Thế Tôn:
暦 劫 為 明 君 為 良 將 為 孝 子 為 導 師 軍 用 真 如 結 界 良 善 緣 莊 嚴 福 海
現 世 棄 真 寶 棄 妻 孥 棄 國 城 棄 王 位 圓 成 大 覺 說 怛 沙 妙 法 拔 濟 迷 流
-Lịch kiếp vi minh quân, vi lương tướng, vi hiếu tử, vi đạo sư, vận dụng chân như, kết giới lương thiện duyên, trang nghiêm phúc hải.
-Hiện thế khí chân bảo, khí thê noa, khí quốc thành, khí vương vị, viên thành đại giác, thuyết hằng sa diệu pháp, bạt tế mê lưu.
Dịch nghĩa Việt:
-Nhiều kiếp là minh quân, là tướng giỏi, là con hiếu, là đạo sư, vận dụng chơn như, kết cõi duyên lành, trang nghiêm biển phước.
-Hiện đời bỏ chơn bảo, bỏ vợ con, bỏ nước thành, bỏ ngôi vị, thành tựu đại giác, thuyết hằng sa diệu pháp, cứu vớt dòng mê. (Thích Chúc Hiền dịch)
04/ Câu đối của Cụ Nguyễn Sinh Sắc phê bình Phật Giáo và Cao Đài:
禪家教養龜毛縛樹頭風
大道廣開兔 角撬潭底月
Thiền gia giáo dưỡng quy mao phược thọ đầu phong,
Đại đạo quảng khai thố giác khiêu đàm đế nguyệt.
Dịch nghĩa Việt:
-Giáo dưỡng nhà thiền tựa dùng lông rùa buộc gió ở đầu cây
-Hoằng khai Đại đạo (*) như lấy sừng thỏ khều trăng nơi đáy nước. (Thích Chúc Hiền dịch)
* Đại đạo: Đạo Cao Đài
Con ghi nhớ lời giảng và ý cảnh tỉnh của Hòa Thượng Hiệu Trưởng. HT cho biết Cụ Nguyễn Sinh Sắc (1862–1929), thân sinh của Hồ Chí Minh, sinh tại làng Hoàng Trù, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An. Ông thi đỗ Phó bảng năm 1901 (Tân Sửu), trong khoa thi Hội cùng năm với nhiều nhân tài đương thời.
Sau khi đỗ đạt, ông được bổ làm Thư lại Bộ Lễ, rồi Tri huyện Bình Khê (Bình Định) — nhưng bị cách chức do vụ xử án sai (khoảng năm 1910–1911). Sau đó, ông rời quan trường, chọn con đường dạy học, tu thân và hành đạo cứu đời. Từ khoảng 1915–1925, Cụ vào hẳn miền Nam, ở nhiều nơi như Gò Công, Mỹ Tho, Cao Lãnh, Sa Đéc, Hòa An (Đồng Tháp). Ông ở chùa, dạy chữ Nho, giảng đạo lý cho dân nghèo, và giao du với các tu sĩ Phật giáo, đạo sĩ Cao Đài sơ kỳ, trong đó có những người sau này lập đạo. Cũng trong thời gian này, Cụ sáng tác nhiều câu đối, thi kệ, và lời phê bình tôn giáo mê tín, như câu đối trên.
Hòa Thượng nói rằng câu đối này không nhằm bài bác Phật Giáo hay Cao Đài, mà cụ Phó bảng chỉ trích những người tu hành hình thức, giáo lý thì cao siêu mà không ứng dụng vào đời sống nhân sinh. “Lông rùa trói gió” là biểu trưng cho sự vô ích, dạy đạo mà không hợp cơ duyên, nói pháp cao xa mà không cứu được khổ đau thực tế. “Sừng thỏ khều trăng” là chuyện ảo tưởng, đạo lý nói rộng mà không có căn bản hành trì, chỉ là hình bóng hư huyễn. Hòa Thượng Hiệu Trưởng trích câu đối này trong các buổi giảng để nhắc hàng Tăng Ni và Phật tử: “Nếu chúng ta chỉ lo nói suông về giáo lý, mà không đem đạo vào đời, không giúp chúng sanh chuyển mê khai ngộ, thì đạo Phật cũng sẽ bị người đời xem như "lông rùa trói gió.” Ngài khuyến tấn đại chúng: Học Phật không phải chỉ để hiểu suông, mà phải ứng dụng pháp hành Tứ Diệu Đế, Bát Chánh Đạo vào đời sống. Tu không phải chỉ để cầu an, cầu phước, mà để chuyển hóa thân tâm, làm lợi ích cho mình và cho người. Giáo lý nhà Phật chỉ thật sự có giá trị khi trở thành hơi thở, nếp sống và hành động cụ thể trong đời.
Thật vậy, những câu đối trên không chỉ là tác phẩm ngôn từ, mà còn là thông điệp tâm linh, tinh túy của cả một đời tu học và giảng dạy của Ôn muốn truyền trao cho thế hệ trẻ. Đó là ngọn đèn trí tuệ soi sáng cho các thế hệ tăng ni trên bước đường tu học, là kim chỉ nam để chúng con hành trì, không lạc lối giữa biển pháp mênh mông.
Những dòng chữ ấy là pháp âm vô tận, huyền nhiệm mà cũng rất thực tiễn, khai mở cho chúng con thấy rằng pháp học chẳng hề xa cách đời sống; ngay trong từng hơi thở, từng niệm tâm, đều là con đường đưa vào cảnh giới giác ngộ.
Kính bạch Giác Linh Hòa Thượng,
Sau gần một thế kỷ sống và hành đạo, huyễn thân tứ đại tuy hoại diệt, nhưng tâm nguyện độ sanh của Ngài vẫn bất diệt.
Ngài là tấm gương sáng ngời về hạnh khiêm cung, thanh bạch, giản dị, trọn đời cống hiến cho đạo pháp và dân tộc.
Hôm nay, trong khói hương tưởng niệm, hàng đệ tử xuất gia và tại gia Tu Viện Quảng Đức, Melbourne, Úc Châu, đồng thành kính dâng lên Giác linh Đức Ân Sư lòng tri ân vô lượng.
Ân giáo dưỡng của Ôn Hiệu Trưởng như trời cao biển rộng, muôn đời không thể đền đáp. Chúng con nguyện tinh tấn tu học, hoằng truyền chánh pháp, lấy sự hành trì để đền báo ân sâu.
Nguyện cầu Giác linh Đức Trưởng Lão Hòa Thượng cao đăng Phật quốc, sớm tái hiện đàm hoa, tái sanh trở thế giới Ta Bà, để tiếp tục công cuộc hoằng Pháp lợi sanh.
Nam Mô Ma Ha Tỳ Kheo Bồ Tát Giới thượng Từ hạ Thông Trưởng Lão Hòa Thượng Giác Linh Tôn Sư Thùy Từ Chứng Giám.