Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Cuộc đời và Hành trạng của Hòa Thượng Thích Liễu Minh

05/09/202217:28(Xem: 2454)
Cuộc đời và Hành trạng của Hòa Thượng Thích Liễu Minh


ht lieu minh 1

Cuộc đời và Hành trạng của
Hòa Thượng Thích Liễu Minh




1. THÂN THẾ
Hòa thượng Thích Liễu Minh, tên thật là Lê Văn Hiến, Pháp danh Thị Huyền, Pháp tự Liễu Minh, hiệu Trí Hải, sinh ngày 7/3/1934 (nhằm ngày 3/2 năm Giáp Tuất), tại thôn An Hòa, xã Nhơn Khánh, huyện An Nhơn, tỉnh Nghĩa Bình (tức tỉnh Bình Định ngày nay).

Thân phụ là cụ ông Lê Cấm (tự Chấn), thân mẫu là cụ bà Nguyễn Thị Nhĩ (tự Sĩ), Hòa thượng là con trai một trong gia đình có hai chị em, được sinh ra trong một gia đình nho phong lễ giáo, tin sâu nhân quả, kính thờ Tam Bảo. Từ thuở nhỏ, cậu bé Hiến thường được cha mẹ hướng dẫn đi chùa. Trong những lần đi chùa, cậu bé Hiến được diện kiến Hòa thượng chùa Linh Sơn. Hòa thượng thấy cậu bé có Tuệ căn thông minh hơn những đứa trẻ khác nên gởi cho Hòa thượng Thích Như Từ chùa Thiên Bình xoa đảnh thọ ký xuất gia khi tuổi đời vừa lên 10. Tuy tuổi còn khá nhỏ nhưng với Tuệ căn sẵn có và được Hòa thượng un đúc ý chí xuất gia, sau 5 năm công quả tập sự tại chùa Thiên Bình, chú Liễu Minh được Hòa thượng Bổn sư cho phép thọ giới Sa Di tại chùa Thiên Bình, do Hòa thượng Thích Tâm Đạt làm Hòa thượng đàn đầu truyền giới vào ngày 8/4/1950 (năm Canh Dần).



Từ đây, thầy Sa-di Liễu Minh lại thêm tinh tấn vượt trội, Thầy thuộc nằm lòng hai thời công phu sớm chiều, Thầy còn nhuần nhuyễn 4 bộ Luật Trường hàng, ngày đêm siêng năng chẳng sao lãng việc chấp tác tại bổn Tự được giao phó. Xét thấy đệ tử mình là một học trò giỏi và đủ giới hạnh, có thể dự vào hàng Tăng chúng Thích tử của Như Lai nên Hòa thượng bổn sư đã hoan hỷ gởi Thầy Liễu Minh vào miền Nam đăng đàn cụ túc thọ giới Tỳ Kheo do Đại lão Hòa thượng Thích Khánh Anh làm Hòa thượng đàn đầu truyền giới Tỳ Kheo tại chùa Ấn Quang – Sài Gòn ngày 8/4/1956 (năm Ất Mùi), ban cho Pháp danh Thị Huyền, tự Liễu Minh, hiệu Trí Hải, thuộc dòng Lâm Tế Chánh Tông đời thứ 42. Ôi:

Hoa nở giữa trời không vướng bận,
Lòng vui chào đón bậc Trung Tôn!

2. THỜI GIAN TU HỌC VÀ HÀNH ĐẠO

Khi còn ở quê nhà Bình Định, Hòa thượng Thích Liễu Minh đã được theo học tốt nghiệp các lớp Phật học, và lại tiếp tục theo đuổi con đường học vấn tại Phật học viện Nha Trang. Với chí học không mệt mỏi, thành tích học lực vượt trội nên Ban Giám Hiệu tại Phật học viện Nha Trang đã giới thiệu Hòa thượng vào trường cao học Phật học đường Nam Việt tại chùa Ấn Quang – Sài Gòn năm 1965.

Khi tốt nghiệp ra trường, Hòa thượng đạt thành tích tương đương Tiến sĩ Đông Phương học ngày nay, không chỉ giỏi về Phật học mà Ngài còn thông suốt cả thế học. Với sự tinh thông nhạy bén Đạo – Đời, ai hỏi gì Ngài liền trả lời ngay nên mọi người lúc ấy rất nể trọng, xem Ngài như một quyển Tự điển sống. Với sự tin tưởng của các bậc Trưởng lão Hòa thượng, Ngài được mời về Viện hóa đạo phục vụ làm việc ở thập niên 70, đem Giáo Pháp của Phật phổ hóa đến khắp nơi, hàng Tăng Ni và Phật tử được thấm nhuần giáo lý mà Ngài đã ban bố. Ai đã từng tiếp xúc với Ngài đều hoan hỷ với nụ cười luôn nở trên môi, luôn sống hạnh giản dị, xả kỷ vị tha của Ngài.

Khi đất nước hòa bình, Ngài xuôi về miền Tây tiếp tục con đường hoằng Pháp lợi Sanh, Ngài đến chùa Thanh Quang tại Thành phố Mỹ Tho lưu trú một thời gian trên bước đường du phương hoằng hóa của người con Phật.

Nhất bát thiên gia phạn
Cô thân vạn lý du
Chỉ vi sanh tử sự
Giáo hóa độ xuân thu.



Ban ho tri An QuangH.T Lieu Minh & H.T Hộ GiacH.T Lieu Minh
H.T Lieu-Minh 2


Vào thập niên 80, trong một vùng xa xôi hẻo lánh của chợ Bưng, một ngôi tự viện rêu phong đổ nát, không có thầy hương khói tụng niệm và hoạt động Phật sự, môn đồ tứ chúng đã bày tỏ ý nguyện và cung thỉnh Ngài về Trụ trì chùa Nhơn Phước, ấp 1, xã Tam Hiệp, huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang vào năm 1988. Quán xét nhân duyên hóa độ chúng sanh đã đến nên Ngài đã nhận lời về chùa Nhơn Phước làm Trụ trì cho đến ngày viên tịch.

Trải qua 27 năm ở tại chùa, Ngài đã trùng tu hoàn toàn lại ngôi chùa và ngôi đình Nhơn Hội được xây dựng khang trang tốt đẹp, có nơi trang nghiêm cho hàng Phật tử về chiêm bái và tu học. Về mặt công tác từ thiện cứu đời, Ngài luôn tiên phong và ủng hộ hết lòng qua những việc xây dựng cầu đường, tặng nhà tình thương, nhà tình nghĩa, nhà đại đoàn kết, tặng quà cho bà con nghèo và trẻ em nghèo hiếu học tại địa phương. Với Bi tâm rộng lớn, Ngài dùng Y Phương Minh (Vô Vi Ấn Pháp) để trị bệnh cứu đời. Ai cần gì đến Ngài, Ngài liền hoan hỷ ban bố từ vật chất đến giáo lý Phật đà.



Cố Hòa thượng Mật giả Thích Liễu Minh bên mái chùa Nhơn Phước từng là nơi Ngài mật hạnh hóa độ biết bao chúng sanh quy Phật tu hành…

Trong những năm hành đạo, Ngài đã tế độ hàng nghìn Phật tử quy y Tam Bảo, độ chúng xuất gia nương theo đức hạnh của Ngài trên bước đường tu học, trong đó có những vị đệ tử xuất gia đã được tiếp nối theo ý nguyện của Ngài, “tác Như Lai sứ, hành Như Lai sự” như:

– Thượng tọa Thích Đức Thành
– Đại đức Thích Nhuận Đức
– Đại đức Thích Trung Chánh
– Đại đức Thích Minh Phước
– Đại đức Thích Viên Trí

3. THỜI KỲ THỊ TỊCH

Khi mãn mùa An cư kiết Hạ PL.2559 – DL.2015 (Ất Mùi), Ngài cảm thấy thân tứ đại giả hợp đến hồi tan hoại, Ngài sắp xếp và dặn dò mọi chuyện với hàng đệ tử những việc làm sau này khi Ngài viên tịch.

Ngày 15/10/2015 (tức ngày 3/9 năm Ất Mùi), Ngài thấy thân tứ đại bất hòa, hàng đệ tử muốn đưa Ngài đến bệnh viện để tịnh dưỡng nhưng Ngài nhất định không đồng ý.

Tuy thân tứ đại sắp hoại diệt nhưng Ngài vẫn hoan hỷ dạy bảo các đệ tử những lời Pháp nhũ sau cùng, và Ngài đã xả báo an tường, an nhiên thị tịch vào lúc 17:30 ngày 20/10/2015 (nhằm ngày 8/9 năm Ất Mùi).

Kính bạch chư Tôn Đức!

Kính thưa Quý liệt vị!

Cuộc đời của Hòa thượng Thích Liễu Minh là một tấm gương sáng cho hậu thế noi theo, là ánh đuốc trong đêm đen cho người lạc lối tìm về. Nay tuy Ngài đã về cõi Niết Bàn Vô Sanh nhưng chúng con luôn khắc ghi hình bóng và lời dạy của Ngài trong tâm khảm của hàng đệ tử chúng con.

Chúng con nguyện sẽ mãi mãi tinh tấn tu học để không phụ công ơn giáo dưỡng của Ngài.

Nam mô Việt Nam Phật Giáo Phụng vì từ Lâm Tế Chánh Tông Tứ thập nhị thế Húy Thị Huyền Hiệu Trí Hải Thượng Liễu Hạ Minh Hòa thượng Ân Sư Giác Linh Đài Tiền chứng giám!










Đôi dòng tiểu sử trên không thể nói hết công hạnh tu hành và hóa độ chúng sanh của Ngài, vị Mật giả có mật hạnh thâm sâu, vô ngã vô tướng độ tử – độ sanh biết bao người và chúng sanh khắp mọi cảnh giới quy Phật tu hành. Được tận mắt chứng kiến những mật hạnh của Ngài như:

– Ăn uống chỉ tự mình lo mà không phiền đến bất cứ ai dù tuổi rất cao, lại cách 3 – 4 ngày mới dùng 1 bát cháo lỏng hay nước của các loại rau củ nấu cùng để uống dần.

– Mặc áo thun rách, quần vải ú, đi chân trần. Nhiều năm không tắm mà người chẳng hôi.

– Chỗ ngủ nghỉ chỉ giản đơn 1 tấm chiếu bạc, cái gối và mùng.

– Mỗi sáng hay chiều thường hay tự đi kiếm củi về dùng. Chiều đến chỉ trụ tại chùa 1 mình để tọa thiền độ chúng sanh trong Thập phương Tam cõi, không cho ai ở lại.

– Với bao người bệnh do nghiệp duyên, oán trái, bùa ngãi, thư ếm, Tà lậm… đến nhờ thì Ngài trì mật chú chư Phật để hóa độ mọi thành phần nương vào, cho âm siêu dương thới chỉ bằng 2 bàn tay với Vô Vi Ấn Pháp của nhà Phật.

– Trọn đời Ngài không thủ giữ tiền bạc cúng dường của Thập phương Thiện – Tín. Ngài chỉ chuyên tâm lo trị bệnh độ chúng như mật nguyện mà thôi.

Người bệnh đến chùa nhờ Ngài hóa độ gồm đủ mọi tầng lớp trong xã hội, từ bình dân đến trí thức, cư sĩ đến cả tu sĩ trong và ngoài nước. Có người bệnh ung thư do nghiệp sát nhiều đời; có người trí thức đang làm việc bỗng bị tâm thần mà không rõ lý do; có người làm kinh doanh bị thư ếm vì cạnh tranh trên thương trường; có người vì oan gia trái chủ đời nào mà bị đòi mạng, nương gá vào thân sanh đủ chứng bệnh nan y, tâm loạn điên đảo; có vị cán bộ xã mang người thân bệnh đến nhờ Ngài giúp… Điển hình cho tầng lớp trí thức là vị Giám đốc Bệnh viện Phú Thọ (vừa là bác sĩ vừa là võ sư, theo đạo Chúa) bị bệnh nan y ra nước ngoài chữa trị nhưng vô phương cứu chữa, đành trở về sống trong tuyệt vọng. May thay, vợ ông có người bạn là Phật tử (đã từng nhờ Ngài độ cho dứt bệnh) khuyên bảo tận tình: “hãy tới nhờ Ngài giúp cho, y học phương Tây đã bó tay, mạng xem như không còn thì có gì phải chấp nhất (đạo) nữa” nên vợ chồng ông thu xếp xuống chùa, nhờ Ngài hóa độ. Kiên trì một thời gian nhờ Ngài độ cho mà ông đã hết bệnh, từ đó cải đạo chuyển sang kính tín Tam Bảo, quy y Phật đà, hỗ trợ tịnh tài tu sửa chùa nghèo cho thập phương Thiện Tín có ngôi Tam Bảo trang nghiêm đảnh lễ, có nơi nghỉ trưa trong thời gian chờ trị. Ngoài ra, tại tầng trên cùng của Bệnh viện Phú Thọ, ông còn tự mình thiết lập 1 bàn thờ Phật trang nghiêm để thuận tiện lễ Phật, sám hối mỗi ngày. Về phía tu sĩ, có không ít vị là trụ trì Chùa, Tịnh xá, điển hình như Hòa thượng Thích Giác Thới (trụ trì Tịnh xá Ngọc Thuận), Hòa thượng Thích Giác Giới (trụ trì Tịnh xá Ngọc Viên), Hòa thượng Thích Nhất Hạnh (Làng Mai – Pháp)… đều đã từng đến nhờ Ngài trị bệnh, hóa giải oan khiên chướng duyên nhiều đời, trợ lực cho đạo tâm được vững vàng, tinh tiến.

Để trị bệnh, Ngài dùng Vô Vi Ấn Pháp Tam Muội để gia trì, Từ tâm để hóa độ giúp chúng sanh khắp cõi đang nương gá nơi thân người bệnh được khai tâm mở trí, thấu rõ nghiệp duyên oán báo tuần hoàn vay trả – trả vay biết bao giờ dứt mà tự tâm hoan hỷ buông xả, tỏ lòng sám hối, quy Phật tu hành, gọi là âm siêu. Còn người bệnh do nhờ nghiệp duyên oán trái được Ngài hóa giải, “chủ nợ” nhẹ “siêu” nên hết bệnh, thân tâm an hòa, từ đó thấu rõ vô thường, nhân quả nghiệp báo mà càng tín tâm nơi Tam Bảo, dốc lòng sám hối tu hành, làm lành lánh dữ…, gọi là dương thới. Đó chính là nghĩa âm siêu – dương thới nhà Phật, và chỉ có bậc chơn tu đạo hạnh xuất thế, hạnh nguyện tương ưng với Chư Phật mới có thể làm được như vậy mà thôi!

Những mật chú Ngài thường trì để trị bệnh độ chúng là Tịnh Pháp Giới Chơn Ngôn, Vãng Sanh Chơn Ngôn, Lục Tự Đại Minh Chơn Ngôn, Chuẩn Đề Chơn Ngôn…, hay đơn giản chỉ là câu niệm: Nam mô A Di Đà Phật. Rõ thấy, bậc chơn tu chỉ Tâm trì chú (hay niệm Phật) cùng hai tay với Vô Vi Ấn Pháp nhà Phật (Tam mật) mà đã hóa độ “âm siêu dương thới” cho tỉnh giác, hướng Phật tu hành, thật là bất khả tư nghì. Nhớ lời Ngài năm xưa đã từng bảo ban: “Khi trị bệnh, Sen từ người Thầy bay qua người bệnh đó con. Sen này đâu phải dễ có, nếu không có công phu Giới – Định – Huệ, tâm Từ hải hà vô lượng. Sen từ Thầy bay qua, đó gọi là gieo chủng tử Phật cho người sống cũng như đã khuất”, nào phải câu nệ nơi sắc tướng lễ nghi rình rang, đàn tràng gấm hoa lòe loẹt… trong mê sự. Thế mới biết hạnh nguyện và tâm hành hóa độ chúng sanh rốt ráo của bậc Đại sĩ là bất khả tư nghì! Thế mới biết Đạo Phật vi diệu nhiệm mầu, không thể nghĩ bàn; và chỉ có Phật đạo mới giải nghiệp rốt ráo, độ tận chúng sanh mà thôi!

Nhớ có lần Ngài chia sẻ: tại những nơi thường xảy ra tai nạn giao thông chết người thường rất dễ bị tai nạn xảy ra do các vong người chết tại đó gây ra. Có lần, vong nương gá nơi người bệnh kể rằng tại ngã 4 Đồng Tâm, Tiền Giang, hôm đó do nghiệp oan trái nhiều đời với vài người trên xe (16 chỗ) mà vong muốn hất tung cho xe ngã để họ chết, nhưng trên xe có vị Phật tử cứ niệm Phật hoài, khiến cho vong dù cố hết sức đòi mạng cũng không sao làm được. Đó cũng là lý do vì sao tại những nơi ấy, người dân thường đặt Miễu thờ. Vì vậy, Ngài dạy rằng hãy nhớ niệm Phật khi đi trên đường đến bất cứ đâu, và tại những nơi xảy ra tai nạn, đừng bao giờ khởi tâm tội nghiệp vì họ (người mới mất) sẽ lập tức đeo bám theo ngay. Thay vào đó, hãy miên mật tâm niệm Phật chứ đừng nghĩ tưởng gì thì tất cả, người sống cũng như kẻ khuất, tự nhiên được Pháp lạc mà thôi!

Chùa xưa cảnh cũ còn đây, nhưng Thầy đã vắng bóng. Đệ tử Cổ Thiên viết những dòng này, tâm thư tưởng niệm ân đức Thầy trọn đời vì Phật Pháp và chúng sanh. Một ngày gần đây, khi Phật sự in Kinh hoàn thành, con sẽ về thăm và kính dâng quyển “Đường Lối Tu Phật” để đảnh lễ Giác linh Thầy thùy từ chứng giám. Thầy trò ta, dẫu không theo lễ nghi “nhận Thầy – chọn Trò” như thường tình tại thế gian, nhưng tâm mật tương ưng, cảm ứng đạo giao, hỏi còn gì bằng. Con sẽ tiếp bước Thầy và Chư Phật vì mạng mạch Phật Pháp và độ tận Chúng sanh!

Đệ tử Cổ Thiên quỳ kính đảnh lễ Giác linh Thầy!

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật _()_
Nam Mô A Di Đà Phật _()_



————————————————


LƯU Ý

Như đã giảng trong bài VÔ NIỆM – SỰ QUY NHẤT CỦA THIỀN TỊNH MẬT, chỉ khi niệm Phật đến Vô Niệm, tức Niệm Phật Tam Muội, mới có thể ĐỘ SANH – ĐỘ TỬ (âm siêu dương thới) như Ngài. Nếu đạo hạnh chưa đến, đừng tự làm theo mà trị bệnh cho ai, sẽ tự chướng ngại mình, lợi bất cập h

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
24/06/2011(Xem: 4202)
Ngài Mật Thể, pháp danh Tâm Nhất, pháp tự Mật Thể, tên thật là Nguyễn Hữu Kê, sinh năm 1912 ở làng Nguyệt Biều, quận Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên. Chánh quán huyện Tống Sơn, Gia Miêu ngoại trang, tỉnh Thanh Hóa, thuộc dòng Thích Lý của Cụ Nguyễn Hữu Độ. Gia đình Ngài qui hướng đạo Phật, cụ thân sinh và người anh ruột đều xuất gia.
23/06/2011(Xem: 4825)
Đọc Thánh Đăng Ngữ Lục, do Sa môn Tánh Quảng, Thích Điều Điều đề tựa trùng khắc, tái bản năm 1750, ta thấy đời Trần có năm nhà vua ngoài việc chăn dân, họ còn học Phật, tu tập và đạt được yếu chỉ của thiền, như vua Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông, Trần Anh Tông và Trần Minh Tông. Và sự chứng ngộ của các Thiền sư đời Trần thì không thấy đề cập ở sách ấy, hoặc có đề cập ở những tư liệu khác mà hiện nay ta chưa phát hiện được, hoặc phát hiện thì cũng phải tra cứu và luận chứng dài dòng rồi mới kết đoán ra được.
23/06/2011(Xem: 5593)
Đọc sử Phật giáo Việt Nam, hẳn chúng ta đều biết nước mình có một ông vua đi tu ngộ đạo, đó là vua Trần Nhân Tông. Ngài làm vua trong thời gian nước nhà đang bị quân Mông Cổ đem đại quân sang xâm lấn nước ta lần thứ ba.
22/06/2011(Xem: 6198)
Trong sáu thập niên qua, TIME đã không ngừng ghi chép lại những vinh quang cùng khổ nhọc của Á châu. Trong số đặc biệt kỷ niệm thường niên hôm nay, chúng tôi muốn bày tỏ lòng kính trọng của mình đến những nhân vật nổi bật đã góp phần vào việc hình thành nên thời đại chúng ta. Những thập niên xáo động nhất của một lục địa đông dân nhất trên trái đất này đã sản sinh ra hàng loạt những nhân vật kiệt xuất. Trong sáu mươi năm qua, kể từ khi TIME bắt đầu cho xuất bản ấn bản Á Châu, chúng tôi đã có cái đặc ân là được gặp gỡ đa số những nhân vật ngoại hạng này –theo dấu cuộc vận động hay trên chiến trường, trong phòng hội hay trong phòng thí nghiệm, tại cơ sở sản xuất hay tại phim trường.
16/06/2011(Xem: 3816)
Tôi có duyên lành gặp được ngài một lần khi ngài đến thăm Hòa thượng chùa Đông Hưng, bổn sư của tôi, cũng là y chỉ sư của Hòa thượng Quảng Thạc, một để tử xuất gia của ngài khi còn ở đất Bắc. Cung cách khiêm cung, ngài cùng Hòa thượng tôi đàm đạo về quá trình tu tập cũng như Phật học, hai ngài đã rất tâm đắc về chí nguyện giải thoát và cùng nhau kết luận một câu nói để đời : “Mục đích tu hành không phải để làm chính trị”. Cũng câu nói này, khi chia tay chư tăng miền Nam, ngài đã phát biểu với hàng pháp lữ Tăng ni đưa tiễn. Khi sưu tập tư liệu về cuộc đời của ngài, tôi may mắn gặp được các bậc tri thức cao đồ của ngài kể lại. Nay, nhân có cuộc hội thảo về phong trào chấn hưng Phật giáo miền Bắc và công hạnh của ngài, tôi xin được góp thêm đôi điều.
14/06/2011(Xem: 5244)
Thiền sư PHÁP THUẬN (Bính Tý 918): Thiền sư đời Tiền Lê, thuộc dòng thiền Tỳ-Ni-Đa-Lưu Chi, không rõ gốc gác quê quán và tên thật, chỉ biết rằng Sư họ Đỗ, xuất gia từ thuở nhỏ ở chùa Cổ Sơn (Thanh Hóa), sau theo học đạo Thiền sư Phù Trì ở chùa Long Thọ, nổi tiếng là uyên thâm đức độ. Tương truyền rằng chính Sư đã dùng nghệ thuật phù sấm, làm cố vấn giúp vua Lê Đại Hành nắm quyền bính, dẹp yên được hỗn loạn trong triều cuối đời nhà Đinh, được vua Lê vô cùng trọng vọng. Năm 990 niên hiệu Hưng Thống thứ 2, Sư không bệnh mà viên tịch, thọ 76 tuổi, để lại cho đời các tác phẩm: “Bồ Tát sám hối văn”, “Thơ tiếp Lý Giác”, và một bài kệ.
14/06/2011(Xem: 5319)
• Thiền sư Chân Không(Bính Tuất -1046): Sư họVương, thế danh Hải Thiềm, quê quán ở làng Phù Đổng (nay là Tiên Sơn-Bắc Ninh), xuất thân trong một gia đình quý tộc. Lúc thân mẫu của ông mang thai, cha ông nằm mộng thấy một vị tăng Ấn Độ trao cho cây tích trượng, sau đó thì ông ra đời. Mồ côi cha mẹ từ thuở niên thiếu, ông siêng chăm đọc sách không màng đến những chuyện vui chơi. Năm 20 tuổi ông xuất gia, rồi đi ngao du khắp nơi để tìm nơi tu học Phật Pháp. Nhân duyên đưa đẩy cho Sư đến chùa Tĩnh Lự ở núi Đông Cứu (Gia Lương-Hà Bắc), nghe Thiền sư Thảo Nhất giảng kinh Pháp Hoa mà ngộ đạo, được nhận làm đệ tử, sớm tối tham cứu thiền học, và được sư thầy truyền tâm ấn, thuộc dòng thiền Tì-ni-đa Lưu -chi, thế hệ thứ 16. Sau, Sư lên núi Phả Lại, trại Phù Lan (nay thuộc huyện Mỹ Văn-Hưng Yên) làm trụ trì chùa Chúc Thánh, ở suốt 20 năm không xuống núi để chuyên trì giới luật, tiếng thơm đồn xa đến cả tai vua.
13/06/2011(Xem: 12958)
Ôi, trong giáo pháp Phật đà của ta, việc trọng đại nhất là gì ? Con người sinh ra không từ cửa tử mà đến, chết không vào cửa tử mà đi. Thế nên người nằm non ở tổ, bỏ ngủ quên ăn, chẳng tiếc thân mạng, đều vì việc lớn sinh tử. Ở thời giáo suy pháp mạt này mà có người vì việc lớn sinh tử như Hòa thượng Liễu Quán, thật là hy hữu.
05/06/2011(Xem: 11526)
Ngôi chùa nhỏ nằm khiêm tốn trong khoảng đất rộng đầy cây trái. Buổi tối, mùi nhang tỏa ra từ chánh điện hòa với mùi thơm trái chín đâu đó trong vườn.
01/06/2011(Xem: 5500)
Cuộc đời và sự nghiệp của Khương Tăng Hội, ta hiểu biết qua hai bản tiểu sử xưa nhất, một của Tăng Hựu (446 - 511) trong Xuất tam tạng ký tập 13 ĐTK 2145 tờ 96a29-97a 17 và một của Huệ Hạo trong Cao Tăng truyện 1 ĐTK 2059 tờ 325a13-326b13. Bản của Huệ Hạo thực ra là một sao bản của bản Tăng Hựu với hai thêm thắt. Đó là việc nhét tiểu sử của Chi Khiêm ở đoạn đầu và việc ghi ảnh hưởng của Khương Tăng Hội đối với Tô Tuấn và Tôn Xước ở đoạn sau, cùng lời bình về sai sót của một số tư liệu. Việc nhét thêm tiểu sử của Chi Khiêm xuất phát từ yêu cầu phải ghi lại cuộc đời đóng góp to lớn của Khiên đối với lịch sử truyền bá Phật giáo của Trung Quốc, nhưng vì Khiêm là một cư sĩ và Cao Tăng truyện vốn chỉ ghi chép về các Cao Tăng, nên không thể dành riêng ra một mục, như Tăng Hựu đã làm trong Xuất tam tạng ký tập 13 ĐTK 2145 tờ 97b13-c18, cho Khiêm.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
50,000,000