Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tưởng Niệm Thầy Nhất Hạnh: Đọc “Đạo Bụt Nguyên Chất”

28/01/202208:24(Xem: 2545)
Tưởng Niệm Thầy Nhất Hạnh: Đọc “Đạo Bụt Nguyên Chất”


dao but nguyen chat
Tưởng Niệm Thầy Nhất Hạnh:
Đọc “Đạo Bụt Nguyên Chất”

Nguyên Giác

 

Bài này được viết để tưởng niệm Thiền sư Nhất Hạnh (1926-2022), một vị Thầy lớn của Phật Giáo vừa viên tịch. Chủ đề chính của bài này sẽ bày tỏ lòng biết ơn Thầy Nhất Hạnh bằng cách dẫn ra để suy nghĩ về một bài kệ  trong sách “Đạo Bụt Nguyên Chất – Kinh Nghĩa Túc” ấn bản Đạo Tràng Mai Thôn 2011, do Thầy dịch và chú giải, và sẽ đối chiếu tương đương trong Tạng Pali.

Thầy Nhất Hạnh gọi Kinh Nghĩa Túc là Đạo Bụt Nguyên Chất vì bản Kinh này là một Kinh nhật tụng cho giới tu sĩ trong những năm đầu Đức Phật hoằng pháp, lúc đó phương pháp dạy thời kỳ này y hệt Thiền Trúc Lâm của Việt Nam, tập trung vào giáo lý Bát Nhã. Tất cả các bài kệ trong Kinh Nghĩa Túc đều sâu thẳm, đều chỉ thẳng tâm giải thoát, không nói gì về phương tiện. Tương đương với Kinh Nghĩa Túc là Phẩm thứ 4 (Atthaka Vagga – Phẩm Tám) trong Kinh Tập của Tạng Pali, và luận thư của Theravada ghi rằng các đương cơ 16 vị hỏi pháp Đức Phật, ngay sau khi  nghe Đức Phật trả lời liền tức khắc đắc quả A La Hán.

Tất cả các Kinh trong nhóm Kinh Nghĩa Túc đều uyên áo, bài kệ nào cũng đầy sức mạnh của chân lý, chỉ thẳng vào tâm giải thoát. Bài kệ phân tích nơi đây sẽ là bài Kệ 20 trong Kinh Chuyển Hóa Bạo Động và Sợ Hãi (Duy Lâu Lạc Vương Kinh) -- Nghĩa Túc Kinh, kinh thứ 16, Đại Tạng Tân Tu 198. Bài Kệ 20 Kinh Nghĩa Túc của Hán Tạng tương đương với bài Kệ 954 trong Kinh Tập của Tạng Pali (tất cả các liên kết mạng cần thiết đều để ở cuối bài này).

Bài kệ 20 do Thầy Nhất Hạnh phiên âm, và Việt dịch thành văn xuôi như sau.

Thượng bất kiêu hạ bất cụ
Trụ tại bình vô sở kiến
Chỉ tịnh xứ vô oán tật
Tuy thừa kiến cố bất kiêu.

Nhìn xuống không thấy hãnh diện, nhìn lên không thấy sợ hãi, vị mâu ni an trú nơi tự tính bình đẳng, không còn bị vướng vào một kiến chấp nào. Bấy giờ tất cả mọi tranh chấp đều đã được ngưng lại, oán thù và tật đố không còn có mặt, vị ấy tuy đứng trên tuệ giác mà chẳng thấy mảy may tự hào.” (hết trích)

.

Riêng bài Kệ 20 vừa dẫn đã mang trọn đủ pháp hành Bát Chánh Đạo, với đầy đủ nghĩa của Tâm Kinh Bát Nhã. Tương đương là bài Kệ 954 trong Phẩm thứ tư trong Kinh Tập của Tạng Pali. Nơi đây sẽ ghi lại cách dịch sang tiếng Anh của nhiều bậc Thầy, và người viết tuần tự sẽ dịch nghĩa sang tiếng Việt. Lý do phải đối chiếu nhiều bản Anh dịch là để bảo đảm sẽ không sai chệch một nghĩa nào.

Bản dịch của Bhikkhu Sujato: “A sage doesn’t speak of themselves as being among superiors, inferiors, or equals. Peaceful, rid of stinginess, they neither take nor reject.” (Nghĩa: Một bậc trí tuệ không tự nói về họ như một hữu thể giữa những người cao quý hơn, những người thấp kém hơn, hay những người đồng đẳng. Lòng bình an, xa lìa tâm hà tiện bủn xỉn, họ không nắm giữ mà cũng không đẩy ra.)

Bản dịch của Laurence Khantipalo Mills: “A sage speaks not as though / ’Mong equal, low or high, / Serene, devoid of avarice, / Does not accept or reject.” (Nghĩa: Một bậc trí tuệ không tự nói về mình như là giữa những người đồng đẳng, những người thấp kém hơn, hay những người cao quý hơn. Tịch lặng, không còn hà tiện tham lam, [họ] không nhận lấy gì, cũng không xua đẩy ra.)

Bản dịch của của John D. Ireland: “A sage does not speak in terms of being equal, lower or higher. Calmed and without selfishness he neither grasps nor rejects." (Nghĩa: Một bậc trí tuệ không hề nói trong cái nhìn [thấy mình] đồng đẳng, thấp kém hơn hay cao quý hơn. Bình lặng, không còn ích kỷ nữa, người này không nắm giữ gì mà cũng không xua đẩy ra.)

Bản dịch của Thanissaro Bhikkhu: “The sage doesn't speak of himself as among those who are higher, equal, or lower. At peace, free of selfishness, he doesn't embrace, doesn't reject," the Blessed One said.” (Nghĩa: Lời Đức Phật dạy: Bậc trí tuệ không tự nói về họ như nằm trong những người cao quý hơn, hay đồng đẳng, hay thấp kém hơn. Tâm bình an, xa lìa ích kỷ, vị này không ôm lấy cũng không xua đẩy đi.”

Bản dịch của Bhante Varado: “The sage does not speak of himself as someone equal, inferior or superior. At peace, unselfish, He neither clings nor relinquishes.” (Nghĩa: Bậc trí tuệ không tự nói về mình như là đồng đẳng, thấp kém hơn hay cao quý hơn. Tâm bình an, không ích kỷ, vị này không không dính vào [pháp nào] mà cũng không xua đẩy [pháp nào].”

 

Người không tự nói về mình như là đồng đẳng, cao quý hay thấp kém với bất kỳ ai, với bất kỳ giới nào. Bản chữ Hán viết: “Thượng bất kiêu, hạ bất cụ / Trụ tại bình, vô sở kiến.” Nghĩa là, không thấy có gì là tôi, không thấy có gì là người, không chỗ để thấy, để trụ vào (vô sở kiến). Đó là lời Đức Phật nói tóm tắt.

Trong Bát Nhã Tâm Kinh giải thích:  thấy 5 uẩn là không là giải thoát. Nói thấy sắc là không, tức là cái được thấy là không, cái được nghe là không, cái được ngửi là không, cái được nếm là không, cái được cảm thọ là không, cái được tư lường là không. Đức Phật dạy trong Kinh SA 265 (Hán Tạng) và Kinh SN 22.95 (Tạng Pali) rằng những gì thuộc về sắc, hoặc quá khứ, hoặc vị lai, hoặc hiện tại đều là không, y hệt bong bóng nước theo mưa mà sinh ra; tương tự, tưởng y hệt như quáng nắng sinh khởi khi trời nắng gắt… Toàn thân mình cả 5 uẩn đều thấy là không, và nhìn người khác cũng thế, do vậy không có cái gì là “tôi” hay “người” và do vậy, trong thực tướng, không có cái gì để gọi được là cái gì, để gọi là đồng đẳng, hay cao quý hơn, hay thấp kém hơn. Do vậy, Bát Nhã Tâm Kinh nói rằng khi thực hành thâm sâu về trí tuệ Bát Nhã Ba la mật, thì soi thấy năm uẩn đều là không, do đó vượt qua mọi khổ đau ách nạn. Thấy 5 uẩn là không tức là giải thoát. Cũng là thấy Đạo Đế, vì khổ không còn chỗ nào trong 5 uẩn để bám vào.

Như thế, ngay khi thấy 5 uẩn là không tức là cũng hoàn thành Bát Chánh Đạo, vì đã thành tựu Chánh kiến (thấy Vô thường, Vô ngã), Chánh tư duy (tâm xả ly, không vướng vào ba cõi Dục, Sắc hay Vô Sắc), Chánh ngữ (không thấy gì để nói về tôi hay người, tức lời nói lìa ba cõi), Chánh nghiệp (thấy 5 uẩn là không là được tự tánh giới, tâm không thấy có ta hay người, tức là xa lìa sát sanh, trộm cắp…), Chánh mệnh (thấy các pháp bình đẳng, do vậy không thể làm các nghề hại người hay hại mình), Chánh tinh tấn (thấy thường trực 5 uẩn là không tức là chánh tinh tấn), Chánh niệm (tình thức thấy “trụ tại bình vô sở kiến”, cũng là hoàn tất tứ niệm xứ, nghĩa là tỉnh thức với tâm vô niệm mới là Chánh niệm -- Kinh SN 22.63: by not clinging one is freed from the Evil One / Niệm vô trụ là giải thoát.), Chánh định (Khi thấy thường trực là không, tức thời thấy thực tướng là không, thấy thức không chỗ nương bám. Và đó là Chánh định. Kinh SN 12.59: When consciousness ceases, name and form cease.… That is how this entire mass of suffering ceases./ Do thức diệt nên danh sắc diệt… Như vậy là toàn bộ khổ uẩn này đoạn diệt.).

Phần sau bài Kệ là: Tịch lặng, không còn hà tiện tham lam, [họ] không nhận lấy gì, cũng không xua đẩy ra. Đã thấy là vô sở kiến, tức là thấy thức không chỗ nương bám, thấy các pháp là không, thì tâm tham tự động lìa. Cũng không thấy có gì để nắm giữ hay đẩy ra, không thủ và không xả, vì không có người thủ và không có người xả. Kinh AN 9.3: Này Meghiya, với Tỷ-kheo có tưởng vô thưởng, tưởng vô ngã được tồn tại. Có tưởng vô ngã, thời ngã mạn bị phá hoại, ngay trong hiện tại đạt được Niết-bàn.

Giải thích theo Thiền Trúc Lâm sẽ là: Thủ và xả còn có nghĩa là khi tương tác với nội xứ và ngoại xứ (tức là, tương tác với thân thọ tâm pháp) chúng ta lại thủ và xả tức là tự thấy mình có tự ngã để muốn thế này, để muốn thế kia, muốn tâm mình phải tăng thịnh hay nắm giữ pháp này hay pháp kia, muốn tâm mình phải xua đẩy thế kia. Thủ và xả là do tâm phân biệt, không thấy tự tánh các pháp là vô ngã, là không, là rỗng rang. Muốn thủ hay xả là chưa thấy bình đẳng trong thực tướng vô ngã, vô thường, tức nơi tự tánh không. Tất cả như thế đều sai. Thấy được thực tướng là không rồi, thì chỉ cần giữ tâm tịch lặng, vô sở kiến, không thủ, không xả, không nắm giữ, không xua đẩy.

Kinh SN 1.1, bản dịch Thầy Thích Minh Châu trích: “Này Hiền giả, khi Ta đứng lại, thời Ta chìm xuống. Này Hiền giả, khi Ta bước tới, thời Ta trôi giạt; do vậy, này Hiền giả, không đứng lại, không bước tới, Ta vượt khỏi bộc lưu.”

Bước tới, bước lui là còn thấy có cái ta để muốn tăng thịnh, muốn xua đẩy. Đứng lại là còn thấy có danh sắc để đứng lại. Không đứng lại, không bước tới, không bước lui, là không thấy có cái 5 uẩn nào của ta đang dấy động.

Một nghĩa khác: bước tới là mơ mộng về tương lai, bước lui là nuối tiếc quá khứ, đứng lại là chấp vào vị ngọc của cái hiện tiền. Khi thấy các pháp là không, thấy 5 uẩn là không, thì sẽ tự động lìa cả 3 thời (quá-hiện-vị lai), tức là giải thoát.

Nhìn chung, Kinh Nghĩa Túc bài kệ nào cũng là giải thoát. Và đó là tận cội nguồn của Phật Giáo Sơ Thời, với lời dạy của Thế Tôn trong thời kỳ chỉ dạy nhìn vào thực tướng vô ngã của các pháp để giải thoát, mà không cần mài giũa gì.

Kinh Kim Cang và Kinh Pháp Bảo Đàn viết rằng giữ tâm vô sở trụ là giải thoát. Kinh SA 926 (A Hàm) và Kinh AN 11.9 (Tăng Chi Bộ) cũng viết như thế.

Đức Phật gọi vô sở trụ là Thiền pháp của tuấn mã. Kinh AN 11.9, bản dịch của Thầy Minh Châu viết, trích: "...này Sandha, con người hiền thiện, thuần thục, khi đi đến khu rừng, khi đi đến gốc cây, khi đi đến ngôi nhà trống, trú với tâm không bị dục tham ám ảnh, không bị dục tham chinh phục, như thật quán tri sự xuất ly khỏi dục tham đã khởi lên. Vị ấy an trú với tâm không bị sân ám ảnh… Vị ấy an trú với tâm không bị si ám ảnh… Vị ấy an trú với tâm không bị hôn trầm thụy miên ám ảnh… Vị ấy an trú với tâm không bị trạo hối ám ảnh… Vị ấy an trú với tâm không bị nghi hoặc ám ảnh, không bị nghi hoặc chinh phục, như thật rõ biết sự xuất ly ra khỏi nghi hoặc đã khởi lên. Vị ấy Thiền tư không y chỉ vào đất, Thiền tư không y chỉ vào nước, Thiền tư không y chỉ vào lửa, Thiền tư không y chỉ vào gió, Thiền tư không y chỉ vào Không vô biên xứ, Thiền tư không y chỉ vào Thức vô biên xứ, Thiền tư không y chỉ vào Vô sở hữu xứ, Thiền tư không y chỉ vào Phi tưởng phi phi tưởng xứ, Thiền tư không y chỉ vào thế giới này, Thiền tư không y chỉ vào thế giới sau, phàm điều gì được thấy, được nghe, được cảm giác, được thức tri, được đạt đến, được tầm cầu đến, được ý suy tư, Thiền tư không y chỉ vào cái ấy. Tuy vậy, vị ấy vẫn có Thiền tư. Lại nữa, này Sandha, với vị ấy Thiền tư như vậy, chư Thiên với Thiên chủ, các Phạm thiên với chúng Phạm thiên, dầu từ xa, đảnh lễ con người hiền thiện thuần thục."

Toàn bộ các lời dạy trong kinh trên được Thầy Nhất Hạnh dịch trong Đạo Bụt Nguyên Chất là: Trụ tại bình vô sở kiến.

Và Thầy Nhất Hạnh ghi rõ nghĩa: “…vị mâu ni an trú nơi tự tính bình đẳng, không còn bị vướng vào một kiến chấp nào.”

Nơi đây, người viết xin ghi lời thành kính cảm ơn Thầy Nhất Hạnh đã dịch một bản Kinh rất mực quý giá, ghi lại được văn phong của Thế Tôn: Trực chỉ nhân tâm, kiến Tánh thành Phật.

Nơi đây, người viết cũng xin ghi lại một bài thơ làm năm 2015 để cúng dường Thầy Nhất Hạnh, lúc đó khi biết Thầy lâm bệnh nặng. Bài thơ song ngữ như sau.

.

Đôi Dòng
Viết đôi dòng thư pháp
ca ngợi Đức Thế Tôn
mực loang như nước mắt
ngấm ơn sâu vào hồn.

Viết đôi dòng thư pháp
cúng dường Thầy Làng Mai
ngẩng đầu nghe tiếng hạc
lưng trời gọi tên ai.

Từ đôi dòng thư pháp
nét mực hóa rừng hoa
ướp lời thơ thơm ngát
khắp trời hát đạo ca.

---- Thơ Nguyên Giác, 2015.

 

The Two Lines
Praising the Buddha
with two calligraphic lines
I saw the ink flow like
thankful tears warming my heart

Making offerings to Thay Lang Mai
with two calligraphic lines
I raised my head, hearing on high
a crane creak a mystic name.

Flowing from the two calligraphic lines
the ink became a floral sea
added fragrance on words of poetry
and echoed far on high a dharma melody.

---- By Nguyen Giac, 2015

Hậu học cẩn bút, thành kính tưởng niệm.

GHI CHÚ:

- Bản dịch Thầy Nhất Hạnh: https://thuvienhoasen.org/p16a9949/giang-kinh-chuyen-hoa-bao-dong-va-so-hai

- Bản dịch Sujato: https://suttacentral.net/snp4.15/en/sujato

- Bản dịch Mills: https://suttacentral.net/snp4.15/en/mills

- Bản dịch Ireland: https://accesstoinsight.org/tipitaka/kn/snp/snp.4.15.irel.html

- Bản dịch Thanissaro: https://accesstoinsight.org/tipitaka/kn/snp/snp.4.15.than.html

- Bản dịch Varado: http://suttas.net/english/suttas/khuddaka-nikaya/sutta-nipata/atthakavagga%20-%20php%20version%201.4/15-violence.php

- Kinh SN 1.1: https://suttacentral.net/sn1.1/vi/minh_chau

- Kinh AN 11.9: https://suttacentral.net/an11.9/vi/minh_chau

 

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
26/12/2022(Xem: 2105)
Thầy chào đời cuối Đông. Phủ Xuân Trường, Nam Định. Đất Bắc Hà - Thăng Long. Ngàn năm xưa hưng thịnh. Lập chí nguyện xuất trần, Thuở đồng chơn nhập đạo. Cội Đức Nhuận thắm nhuần. Đượm hồng ân Tam bảo.
24/12/2022(Xem: 2560)
Sư bà Hải Triều Âm là một bậc tu hành mẫu mực, một tấm gương sáng ngời cho tất cả những hành giả đang bước theo con đường Đức Phật đã chỉ dạy, cho cả ni lẫn tăng xuất gia và hàng cư sĩ tại gia. Ngài được xem như là hiện thân của một Sư Tổ Kiều Đàm Di thời hiện đại. Bài viết dưới đây có tựa là “Di Chúc Của Sư Bà Hải Triều Âm” được phổ biến trên mạng trong những tháng năm sau ngày Sư Bà mất 31 tháng 7, 2013.
14/11/2022(Xem: 2296)
Ngày 12,13-11 (19,20-10-Nhâm Dần), BTS GHPGVN tỉnh Khánh Hòa và môn đồ pháp quyến đã trọng thể tổ chức lễ Đại tường Trưởng lão Hòa thượng Thích Ngộ Tánh, nguyên UV HĐTS, Trưởng BTS kiêm Trưởng ban Tăng sự GHPGVN tỉnh Khánh Hòa, viện chủ chùa Thiên Bửu (thôn Bình Thành, xã Ninh Bình, thị xã Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hòa) và chùa Đức Hòa, phường Ninh Hiệp.
11/11/2022(Xem: 2415)
Sáng ngày 09/11/2022 (nhằm ngày 16 tháng 10 Nhâm Dần), môn đồ pháp quyến chùa Diên Thọ đã trang nghiêm tổ chức lễ húy nhật lần thứ 31 cố Hoà thượng Thích Hải Tuệ - Trừng San (Tân Mùi 1991- Nhâm Dần 2022). Đến tham dự lễ tưởng niệm có sự hiện diện của Chư tôn Hoà thượng: - Hoà thượng Thích Trừng Thi (chùa Tòng Lâm Lô Sơn) - Hoà thượng Thích Thiện Thông (chùa Sắc Tứ Minh Thiện) - Hoà thượng Thích Phước An (chùa Hải Đức) - Hoà thượng Thích Tâm Trí (chùa An Dưỡng) - Hoà thượng Thích Chí Viên (Linh Phong Cổ Tự) - Hoà thượng Thích Như Minh (chùa Sắc Tứ Liên Hoa) - Hoà thượng Thích Đức Thành (chùa Pháp Tánh) - Hoà thượng Thích Nguyên Minh (chùa Sắc Tứ Kim Sơn)
11/11/2022(Xem: 1574)
Sáng nay 11-11-2022 (18-10-Nhâm Dần), tại chùa Đức Hòa - Văn phòng Ban Trị sự GHPGVN thị xã Ninh Hòa, lễ tưởng niệm Đại tường có Trưởng lão Hòa thượng Thích Ngộ Tánh, nối dòng Lâm Tế đời thứ 45, Ủy viên Hội đồng Trị sự, Trưởng ban Trị sự GHPGVN tỉnh Khánh Hòa, kiêm Trưởng ban Tăng sự tỉnh; viện chủ Tổ đình Thiên Bửu và chùa Đức Hòa.
07/11/2022(Xem: 2233)
Trong giai đoạn đầu thế kỷ XVII, các chúa Nguyễn với quá trình mở đất xuống phương Nam, ngoài việc lưu tâm đến khai hoang, mở đất, lập làng, phát triển kinh tế xã hội, xây dựng luật nghi phép tắc nhưng các vị cũng không quên xây dựng và sử dụng Phật giáo như một hệ tư tưởng chuẩn mực cho đạo đức xã hội.
30/10/2022(Xem: 1677)
Sáng nay, mồng 5 tháng 10 Nhâm Dần (29/10/2022), bầu trời xám xịt, mưa bay lất phất những hạt nhẹ li ti gây nên cảm giác buồn man mác cho những người con xa Cha, vắng Mẹ, nhớ thương Thầy... Môn đồ Pháp quyến Tổ đình Linh Sơn Pháp Bảo đã thiết lễ Huý nhật lần thứ nhất cố Trưởng lão Hoà thượng Thích Như Ý - Nguyên Thành viên Hội đồng Chứng minh Trung Ương GHPGVN, Chứng minh Ban Trị sự GHPGVN Tỉnh Khánh Hoà, Viện chủ Tổ Đình Linh Sơn Pháp Bảo - Thành phố Nha Trang, Tỉnh Khánh Hoà.
27/10/2022(Xem: 1739)
Cố Ni trưởng Thích nữ Như Phương, thế danh Lê thị Thanh Cúc, sinh năm Mậu Tý (1948), xuất thân trong một gia đình nông nghiệp, tin Phật và phụng thờ Tam Bảo tại làng Tam Tân, xã Tân Tiến, thị xã LaGi, tỉnh Bình Thuận. Thân phụ là cụ ông Lê Thanh Trước -Pháp danh Minh Tiền, thân mẫu là cụ bà Nguyễn Thị Đặng- Pháp danh Thục Bông. Ni trưởng là con gái trưởng trong một gia đình có 6 chị em. Thuở nhỏ, Ni trưởng đã mến mộ Phật Pháp và tham gia sinh hoạt gia đình Phật tử tại chùa làng. Năm Canh Tý ( 1960) nhân ngày vía đức Bồ Tát Quán Thế Âm, Ni trưởng cùng thân phụ và em trai lên núi Tà Cú lễ Phật tại tổ đình Linh Sơn Long Đoàn (chùa dưới). Ni trưởng được duyên lành đảnh lễ Đại lão Hòa thượng Quảng Nhơn- Ấn Tâm làm thầy truyền tam quy giới, ban cho tự Thục Hương, từ đó tâm bồ đề khai mở, chí cắt ái ly gia ngày thêm mạnh mẽ.
22/10/2022(Xem: 1609)
Dấu tình chiếc áo nâu sòng, Ôm ngàn hạnh nguyện, giữa dòng thiền tâm. Mây bay vạn dặm dư âm, Hương xưa đọng lại, lặng thầm thế gian. Lãng Vân quê cũ âm ban, Thác sanh chú bé, cười vang giữa đời. Xuân Phương danh ứng thành người, Học lên thâm hiểu, nhặt lời xuất gia.
21/10/2022(Xem: 2005)
Tỉnh Khánh Hòa xưa vốn là vùng đất của người Chăm. Sau cuộc chiến tranh biên giới vệ quốc chống quân Chiêm Thành năm Quý Tỵ [1653] đời chúa Nguyễn Phúc Tần, Khánh Hòa chính thức trở thành vùng trấn biên mới của Đại Việt. Từ đó, lãnh thổ nước ta kéo dài thêm về Nam từ núi Đá Bia đến phía Đông sông Phan Rang đặt làm dinh Thái Khang.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567