Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Hòa Thượng Thích Huệ Hưng (1917-1990)

20/10/201919:46(Xem: 3955)
Hòa Thượng Thích Huệ Hưng (1917-1990)
ht thich hue hung
Hòa Thượng Thích Huệ Hưng 
(1917-1990) 



THÂN THẾ

Hòa thượng Pháp húy Ngộ Trí, đạo hiệu Thích Huệ Hưng, thế danh Nguyễn Thành Chẩm, thuộc dòng Thiền Lâm Tế đời thứ 39, là đệ tử Sư tổ Vạn An (Sa Đéc).

Hòa thượng sinh năm Đinh Tỵ (1917) tại làng Mỹ Thọ, quận Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp. Thân phụ là cụ Nguyễn Minh Biện, pháp danh Minh Chiếu, thân mẫu là cụ Trần Thị Mậu, pháp danh Diệu Thiệt.

Với vai trò là con trưởng trong gia đình gồm 7 anh em, Hòa thượng đã tận tâm hướng dẫn và dìu dắt các em trong gia đình hướng về con đường xuất gia học Phật như: cố Hòa thượng Thích Huệ Viên, trụ trì chùa Sơn Bửu (Vũng Tàu); cố Hòa thượng Thích Minh Cảnh, trụ trì Tu viện Huệ Quang (Q.Tân Phú), cố Ni sư Thích Nữ Như Trí; Ni trưởng Thích Nữ Như Diệu, trụ trì chùa Diệu Đức (Q.Bình Thạnh).

XUẤT GIA HỌC ĐẠO

Vốn sinh trong gia đình trung lưu phúc hậu, nhiều đời kính tin ngôi Tam bảo, sâu trồng nơi ruộng phước Tăng già, Hòa thượng sớm nhận thức cảnh trần gian ảo mộng, cuộc đời giả huyễn vô thường và đến núi Sập để tìm nơi tu dưỡng, Hòa thượng quyết chí ăn chay trường, hằng ngày lo niệm Phật, tụng kinh. Cơ duyên hội đủ, Hòa thượng được Tổ sư Vạn An cho thế phát năm 1938, lúc 21 tuổi. Từ đó, Hòa thượng luôn nương theo hạnh nguyện Tổ sư, trưởng dưỡng tâm bồ đề, trau dồi kinh luật, gần gũi các bậc minh sư pháp lữ trên bước đường tu học giác ngộ. Vốn thông minh sẵn có và lòng khát ngưỡng lý tưởng Đại thừa, ngày đêm tinh tấn tu hành, phụng trì chánh giới, Hòa thượng được Tổ Vạn An khai đàn trao giới chính thức thọ Sa di vào năm 1942.

Năm 1943, nhận biết Hòa thượng là người có chủng tử pháp khí Đại thừa, Long tượng của Phật pháp, nên Tổ Vạn An cho phép Hòa thượng thọ Tỳ kheo Bồ tát giới tại chùa Viên Giác, tỉnh Vĩnh Long và tu học kinh luật suốt 10 tháng tại đây.

Năm 1945, Hòa thượng đến Phật học đường Lưỡng Xuyên – Trà Vinh tu học 6 tháng, sau đó trở về cầu học với Hòa thượng Thích Hành Trụ tại chùa Long An – Sa Đéc. Vào cuối đông 1947, Ngài cầu học với Hòa thượng Thích Trí Tịnh tại Phật học đường Liên Hải – Sài Gòn.

III. THỜI GIAN HÀNH ĐẠO

Năm 1951, Hòa thượng dưỡng bệnh tại chùa Giác Nguyên – Khánh Hội, đồng thời dạy kinh cho Tăng chúng, phiên dịch kinh Duy Ma Cật và Kim Cang giảng lục.

Năm 1954, với hoài bão “Hoằng pháp là nhà, lợi sanh là sự nghiệp”, Hòa thượng đã phụ giúp Hòa thượng Thích Thiện Hòa, Viện chủ chùa Ấn Quang giảng các bộ kinh Đại thừa.

Năm 1955, Hòa thượng làm Phó Liên trưởng Hội Cực Lạc Liên Hữu do Hòa thượng Thích Trí Tịnh làm Chánh Liên trưởng.
Năm 1956, Ngài sang Nam Vang dạy khóa hạ tại chùa Chuẩn Đề. Khi trở về Việt Nam, Ngài được mời làm trụ trì chùa Kim Huê – Sa Đéc.

Chùa Kim Huê – Sa Đéc, Đồng Tháp

Năm 1957, Giáo hội Tăng già Nam Việt mời Hòa thượng đảm nhiệm chức vụ Phó Trưởng ban kiêm Thư ký của Khóa huấn luyện trụ trì “Như Lai sứ giả” tại chùa Pháp Hội- Sài Gòn do Hòa thượng Thích Thiện Hoa làm Trưởng ban.

Năm 1958, Hòa thượng giảng dạy tại Phật học đường Phước Hòa – Trà Vinh.

Năm 1960, Hòa thượng giao Thượng tọa Thích Huệ Phát chức vụ trụ trì chùa Kim Huê – Sa Đéc để chuyên tâm nhập thất tinh tu tại TP.HCM


Năm 1962, Hòa thượng xây dựng Thiền viện Tập Thành tại Bà Chiểu.

Từ năm 1962 đến 1988, Hòa thượng liên tục làm giới sư Đại giới đàn Phật học đường Nam Việt tại chùa Ấn Quang (1962); Đại giới đàn tại Việt Nam Quốc Tự (1964); Phật học viện Cao đẳng Huệ Nghiêm (1966); Đại giới đàn Huệ Quang – Mỹ Tho (1972); Đại giới đàn Phước Huệ – Nha Trang (1973); Đại giới đàn chùa Quảng Đức – Long Xuyên (1974); Đại giới đàn Thiện Hòa (1975), Đại giới đàn do Thành hội Phật giáo HCM tổ chức tại chùa Ấn Quang (1984, 1988).

Năm 1969, Hòa thượng giảng kinh Viên Giác tại chùa Tuyền Lâm và phụ trách giảng dạy tại Phật học viện Cao đẳng Huệ Nghiêm.
Năm 1970, Hòa thượng khai sơn Tu viện Huệ Quang và tu học hành đạo tại đây cho đến ngày viên tịch.

Năm 1974, Hòa thượng được Giáo hội cung thỉnh làm thành viên Hội đồng Giáo phẩm Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất và được suy cử làm Tổng lý Hội đồng quản trị chùa Ấn Quang.

Năm 1982, Hòa thượng được suy cử chức vụ Phó Trưởng ban Trị sự Thành hội kiêm Ủy viên giáo dục Tăng Ni tại Đại hội Đại biểu Phật giáo thành phố Hồ Chí Minh nhiệm kỳ I (1982 – 1987) và làm Hiệu phó kiêm giảng viên Trường Cao đẳng Phật học Việt Nam cơ sở 2 vào năm 1984.

Năm 1987, Hòa thượng được tái cử chức vụ Phó Trưởng ban Trị sự Thành hội tại Đại hội Phật giáo TP.HCM nhiệm kỳ II (1987 – 1990). Vào ngày 28-29/10/1987, Hòa thượng được Đại hội tấn phong lên hàng giáo phẩm Hòa thượng và được đề cử làm Trưởng ban Tăng sự Trung ương GHPGVN tại Đại hội Đại biểu Phật giáo Toàn quốc nhiệm kỳ II (1987 – 1992) tại Cung Văn hóa hữu nghị Việt-Xô, thủ đô Hà Nội.
Năm 1989, Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam được thành lập, Hòa thượng được Hòa thượng Thích Minh Châu (Viện trưởng) mời làm Trưởng ban Phật giáo chuyên môn.

THỜI GIAN VIÊN TỊCH

Cuộc đời tu học và sự nghiệp hành đạo của Hòa thượng rất bình dị, chơn tu thật học, nghiêm trì giới luật, xiển dương Phật pháp bằng con đường giáo dục tại miền Nam. Hòa thượng thật xứng đáng là bậc Thạch trụ của Thiền gia, bậc Đống lương mẫu mực của Phật giáo, bậc chơn tu khả kính – bậc Tuyên Luật sư gương mẫu – bậc giáo thọ sư lỗi lạc của toàn thể Tăng Ni, Phật tử Giáo hội Phật giáo Việt Nam nói chung và miền Nam nói riêng.

Thời gian cứ lặng lẽ trôi qua, bốn đại của kiếp người theo luật vô thường dần biến đổi, Hòa thượng đã ngã bệnh tại thiền sàng và an nhiên thu thần viên tịch vào lúc 10g45 phút sáng ngày 28 tháng Giêng năm Canh Ngọ. Trụ thế 74 tuổi, hạ lạp 46 năm.

Hòa thượng đã để lại các tác phẩm phiên dịch có giá trị như: kinh Duy Ma Cật, Kim Cang Giảng Lục, Lược sử Đức Lục Tổ, Pháp môn tu chứng Lăng Nghiêm Đại Định. Các tác phẩm chưa xuất bản như: kinh Phật Thuyết Đương Lai Biến, kinh Phật Thuyết Diệt Tận, Tập Tri Kiến Giải Thoát. Tác phẩm đang soạn dịch: kinh Phạm Võng Hiệp Chú.


Phụng vị Việt Nam Phật giáo, Giáo hội Tăng sự Ban trưởng, tự Lâm Tế Chánh tông, Tam thập cửu thế, thượng Huệ hạ Hưng, húy Ngộ Trí, Nguyễn công Hòa thượng giác linh.



ht hue hung-24
Di ngôn cuối đời
của Trưởng lão Hòa thượng
Thích Huệ Hưng (1917 – 1990)

NAM MỔ BỔN SƯ THÍCH CA MÂU NI PHẬT

Cổ Đức có nói: Sanh lão bệnh tử, tự cổ thường nhiên. Phàm chỗ chí đạo, như thu nguyệt chi lưu thông, nhược nhàn vân chi xuất tụ, viên dung tròn trịa, sáng chói rõ ràng, sâu kín diệu màu, vốn không đi cũng không lại, thiệt không sắc cũng không không. Thân tứ đại ngũ uẩn cũng là vật huyễn hóa có chi mà phải bận tâm lo nghĩ. Nhưng vì muốn sắp xếp hậu sự được dễ dàng hầu giúp cho môn nhơn đệ tử khỏi bối rối khi Thầy viên tịch, nên có mấy lời dặn dò như sau:

– Giờ viên tịch: Đại chúng ngồi quanh thiền tòa trợ niệm danh hiệu Đức Phật Thích Ca với tâm chí thành thanh tịnh. Sau đó chư Tăng hợp chúng thành lập Ban tổ chức tang lễ.

Giả như thệ thế an nhiên thị tịch theo cách nằm thì sự nhập quan cúng lễ v.v… đều nên thật là dón gọn mà trang nghiêm. Nếu an tọa thị tịch thì an táng theo nghi thức ngồi.


– Lễ nhập quan: Ban tang lễ định giờ thích hợp sắp đặt kim quan sạch sẽ để vào vị trí chính chủ rồi đem các thứ vải trải ra đều đặn chuẩn bị nhập liệm. Đúng giờ, cung thỉnh chư tôn Hòa thượng, Thượng tọa, Đại đức Tăng an tọa vào các hàng ghế sắp sẵn chung quanh kim quan, thỉnh chư tôn niệm danh hiệu Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật liên tục, đồng thời mời bốn vị tỳ kheo thanh tịnh khỏe mạnh đứng hai bên nâng nhục thể và một vị thừa kế chủ trì đỡ phía đầu, khiêng vào để kim quan. Tất cả đồng thanh niệm Phật đến khi tẩm liệm xong xuôi đậy nắp lại, hoàn thành sự việc nhập quan.

– Tang lễ: Không nên để quá lâu làm nhọc mệt các vị công quả phục dịch.

– Tang phục: Người tu hành không để tang phục áo mũ như người thế tục. Do đó tất cả các Tăng Ni Phật tử nếu muốn tỏ lòng tưởng niệm Thầy thì chỉ để tâm tang là đủ rồi.

Ý nguyện của tôi là không muốn làm rườm rà nghi lễ và khỏi nhọc lòng chư tôn Hòa thượng hàng giáo phẩm, nên khi viên tịch thì lễ tang và kim quan xin quàn tại tu viện Huệ Quang cho thuận tiện sắp xếp và cúng kiến thật đơn giản.

– Nơi an nghỉ: Tôi mong được an nghỉ tại một khu đất cao ráo yên tịnh ngoài Đại Tùng Lâm. Trên nền tháp chỉ xây một cái núm lục giác giản dị, trước mặt tháp chỉ dựng một tấm bia khắc chữ để kỷ niệm là đủ rồi.


I. Đối với ngôi tự viện

Tu viện Huệ Quang được tôi xây năm 1970, mặc dù không nguy nga tráng lệ như các ngôi già lam cổ tự nhưng cũng tạm đủ tiện nghi cho chư tăng tu hành, trước đây đã giao cho thầy Minh Cảnh trụ trì thì nay thầy cũng tiếp tục kế thừa sự nghiệp hóa đạo pháp.


II. Đối với môn nhơn đệ tử

Các môn nhơn đệ tử của tu viện Huệ Quang hàng tại gia hay xuất gia từ trước đến nay đã nương theo Thầy tu học, nay Thầy viên tịch thì các con hãy cố gắng tinh tấn hơn, khắc ghi những lời dạy dỗ của Thầy mà hành trì.

Tất cả các pháp môn không ngoài Giới, Định, Huệ. Giới, Định, Huệ không ngoài Chơn Tâm tự tánh. Vì thế cần phải thực hành thiền định để được minh tâm kiến tánh. Muốn thực hành thiền định phải quán lý Bát Nhã Chơn Không để khỏi lạc vào Ngã pháp nhị biên, mới đạt đến cứu cánh Niết Bàn. Vậy Thầy có bài kệ để lại cho các môn nhơn đệ tử sau đây:

Đường qua bỉ ngạn chẳng đâu xa
Rời khỏi chân tâm chính đó mà
Một niệm chẳng sanh chơn thể hiện
Rõ ràng trước mặt Mật – Ba – La
oOo
Chư pháp tùng bổn lai
Như thị diệc như thị
Phương tiện tùy ứng hóa
Như huyễn phục như huyễn

III. Đối với Giáo hội Phật Giáo Việt Nam


Tôi thành kính đảnh lễ chư tôn Hòa thượng, hàng giáo phẩm Phật giáo Việt Nam. Trong thời gian phục vụ cho Giáo hội, vì tài trí sơ thiển mà đảm nhận trọng trách nặng nề nên không khỏi có nhiều điều khuyết điểm, ngưỡng mong chư tôn từ bi lượng thứ cho. Hoặc nếu làm được điều gì đóng góp cho Giáo hội thì xin hồi hướng công đức đó cho toàn thể Tăng Ni Phật Tử Phật giáo Việt Nam được phần lợi lạc.

Sau đây tôi cũng có một vài ý nguyện chưa được đủ duyên thực hiện nên xin gởi tấm chân tình lại chư tôn Hòa thượng tùy duyên nghiên cứu thực hành.


1. Ban Hoằng Pháp và Ban Giáo Dục Trung Ương nên cho thành lập một lớp hoằng giới để đào tạo một số Luật sư tinh thông Luật Tạng, hầu đáp ứng nhu cầu giới học cho Tăng Ni, làm căn bản cho sự tu hành. “Tỳ Ni tạng trụ Phật pháp diệc trụ, Tỳ Ni tạng diệt Phật pháp diệc diệt”. Do đó việc mở lớp hoằng giới là một điều cần thiết cho Giáo hội hiện nay.

2. Thành lập viện chuyên tu: Phật giáo hiện nay có tín đồ Phật tử rất đông trên 80% dân số, Tăng Ni tứ chúng cũng rất nhiều nhưng đa số chỉ học hiểu để phát triển mặt rộng của Thế Đế hơn là đệ nhất Nghĩa Đế, nên ít có người tu chứng đến chỗ rốt ráo như người xưa đời Trần, đời Lý, Trúc Lâm Tam Tổ v.v… Do đó tôi hằng ao ước thực hiện được một viện chuyên tu để làm phương tiện cho những vị xuất gia phát tâm tu hành đạt ngộ bổn tâm, chứng vô sanh nhẫn hầu làm đèn Thiền, đuốc Tuệ cho hậu tấn noi theo.


3. Mở lớp huấn luyện trụ trì: “Trụ pháp vương gia, trì Như Lai mạng” là nhiệm vụ lớn lao của hàng Tăng sĩ, cần phải có đạo lực tu hành, oai nghi giới hạnh trang nghiêm và có trình độ học lực về nội điển cùng ngoại điển, thì mới có thể lãnh đạo ngôi chùa, tiếp Tăng độ chúng, hướng dẫn Phật tử tu hành. Phật pháp tồn hay vong đều do trách nhiệm của những vị trụ trì. Vì vậy Giáo hội cần phải tổ chức khóa tu nghiệp trụ trì liên tục hàng năm để đào tạo Tăng Ni thành những vị trụ trì tương lai xứng đáng.



Trên đây là những điều ước nguyện của tôi trong cuộc đời hành đạo, mong rằng chư tôn Hòa Thượng Hội Đồng Trị Sự Trung Ương và Thành hội sẽ cứu xét và thực hiện để đem lại lợi ích cho Phật giáo Việt Nam.

Tu Viện Huệ Quang, gày 01/01/1990 (năm Kỷ Tỵ)

Sa Môn Thích Huệ Hưng

 

 

Một vài hình ảnh sinh hoạt
của Đức Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Huệ Hưng


ht hue hung-1ht hue hung-2ht hue hung-3ht hue hung-4ht hue hung-5ht hue hung-6ht hue hung-7ht hue hung-8ht hue hung-9ht hue hung-10ht hue hung-11ht hue hung-13ht hue hung-14ht hue hung-15ht hue hung-16ht hue hung-18
 
ht hue hung-30
ht hue hung-27 ht hue hung-21
ht hue hung-19ht hue hung-20ht hue hung-22ht hue hung-23ht hue hung-25ht hue hung-26



facebook-1

***
youtube


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
09/04/2013(Xem: 5846)
Hòa Thượng pháp danh Thích Tâm Thi, đạo hiệu Tuệ Tạng, thế danh Trần Thanh Thuyên, sinh năm Canh Dần (1889) tại làng Quần Phương Trung, huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định. Thân phụ Ngài là ông Trần Tín tự Phúc Châu, thân mẫu là bà Vũ Thị Tú hiệu Diệu Hòa.
09/04/2013(Xem: 6830)
Hòa thượng Hộ Tông (1893-1981), Maha Thera Vansarakkhita, có thế danh là Lê Văn Giảng, sinhngày 15 tháng 10 năm 1893, tại làng Tân An, quận Tân Châu, tỉnh Châu Đốc. Ngài xuất thân trongmột gia đình trung lưu trí thức, thân phụ là ông Lê Văn Như, thân mẫu là bà Đinh Thị Giêng.
09/04/2013(Xem: 5848)
Hòa Thượng họ Nguyễn, Húy Văn Kính, pháp danh Tâm Như, tự Đạo Giám, pháp hiệu Thích Trí Thủ. Ngày sinh ngày 19 tháng 9 năm Kỷ Dậu, tức ngày 01-11-1909 trong một gia đình nho phong thanh bạch, tại làng Trung Kiên, tổng Bích Xa, phủ Triệu Phong (nay là xã Triệu Thượng, huyện Triệu Phong) tỉnh Quảng Trị. Thân phụ là cụ Nguyễn Hưng Nghĩa, thân mẫu là cụ Lê Thị Chiếu. Hai cụ là người rất kính tín Tam Bảo. Vì vậy, dù là con trai độc nhất trong gia đình, lúc 14 tuổi Ngài đã được song thân cho vào học kinh kệ ở chùa Hải Đức Huế.
09/04/2013(Xem: 10229)
Hòa thượng Thích Tâm Giác, thế danh là Trần Văn Mỹ, sinh năm 1917 tại tỉnh Nam Định, thân phụ là cụ ông Trần Văn Quý, thân mẫu là cụ bà Nguyễn Thị Suôi. Ngài là con trai thứ hai trong gia đình gồm hai trai một gái.
09/04/2013(Xem: 8258)
Hòa thượng húy Trần Thiện Hoa, pháp danh Thiện Hoa, hiệu Hoàn Tuyên, sanh ngày 7-8 năm Mậu Ngọ (1918), tại làng Tân Quy (sau đổi tên là An Phú Tân), quận Cầu Kè, tỉnh Cần Thơ (nay là tỉnh Trà Vinh). Hòa thượng là con út (thứ chín) trong gia đình. Thân phụ Hòa thượng huý Trần Văn Thê, pháp danh Thiện Huệ, thân mẫu húy Nguyễn Thị Sáu, pháp danh Diệu Tịnh. Toàn thể gia đình Hòa thượng đều quy y với tổ Chí Thiền chùa Phi Lai núi Voi, Châu Đốc. Pháp danh Thiện Hoa do Tổ đặt cho Hòa thượng.
09/04/2013(Xem: 13374)
Đại lão Hòa thượng Thích Huyền Quang thế danh là Lê Đình Nhàn, sinh năm Canh Thân, ngày 19-9-1920 (tức ngày mồng 8 tháng 8 năm Canh Thân), quê thôn Háo Đức, xã Nhơn An, huyện An Nhơn, tỉnh Bình Định. Thân phụ là cụ ông Lê Vỵ pháp danh Như Hương, thân mẫu là cụ bà Ngô Thị Tư pháp danh Như Tâm cùng ở làng Háo Đức.
09/04/2013(Xem: 5582)
Hòa Thượng THÍCH BẢO AN, húy thượng THỊ hạ HUỆ tự HẠNH GIẢI, thế danh LÊ BẢO AN, thuộc đơøi Lâm Tế Chánh Tông thứ Bốn mươi hai. Nguyên Hòa Thượng sanh năm 1914 (Giáp dần), tại thôn Tịnh Bình, xã Nhơn Hạnh, huyện An Nhơn, tỉnh Bình Ðịnh, trong gia đình Lê gia thế phiệt, vốn dòng môn phong Nho giáo, đời đời thâm tín Tam Bảo, tôn sùng Ðạo Phật. Thân phụ là cụ ông LÊ PHÚNG, pháp danh NHƯ KINH, thân mẫu cụ bà TỪ THỊ HỮU, pháp danh NHƯ BẰNG, đức mẫu là cụ bà NGUYỄN THỊ CƠ, pháp danh NHƯ DUYÊN.
09/04/2013(Xem: 13363)
HT Thích Giác Trí, húy Nguyên Quán, phương trượng chùa Long Hoa, quận Phù Cát - Bình Định, tuổi Mậu Thìn 1928, năm nay 80 tuổi. Năm 13 tuổi Ngài xuất gia với Đại sư Huyền Giác, là Trụ trì tổ đình Tịnh Lâm Phù Cát. HT Mật Hiển 1907-1992 chùa Trúc Lâm, Huế, thọ giới Tỳ kheo tại đây năm 1935, giới đàn do HT Huyền Giác thành lập, thỉnh Tổ quốc sư Phước Huệ làm Đàn Đầu Hòa Thượng.
09/04/2013(Xem: 6366)
Bác Phạm Đăng Siêu sinh ngày 4 tháng 7 năm Nhâm tý (1912) tại Phú Hòa, kinh đô Phú Xuân, thành phố Huế. Nguyên quán thôn Tân Niên Đông, huyện Tân Hòa, phủ Tân Định, tỉnh Gò Công. Song thân Bác là cụ ông Phạm Đăng Nghiệp và cụ bà Tôn Nữ Thị Uyên, thuộc gia đình quý tộc giàu có.
09/04/2013(Xem: 5595)
Truyện của tôi không đáng gì mà phải ghi. Chỉ vì truyện ấy, hơn vài thập kỷ trước thập kỷ 2530 (1975-1985), có liên quan đến Phật giáo VN, lại bị hư cấu truyện và phim sai quá nên phải ghi. Nhưng ghi như dưới đây thì chỉ là có còn hơn không mà thôi.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567