Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Hòa Thượng Thích Tịnh Hạnh (1934 - 2015)

20/10/201920:53(Xem: 3180)
Hòa Thượng Thích Tịnh Hạnh (1934 - 2015)
HT Thich Tinh Hanh
HT Thích Tịnh Hạnh 
( 1934 - 2015)

Đức đệ II Tăng Thống Giáo Hội PGLSTG, húy thượng THỊ hạ VIÊN, tự Hạnh Bị, hiệu Tịnh Hạnh
Tăng Thống Giáo Hội Phật Giáo Linh Sơn Thế Giới
Viện Chủ Chùa Linh Sơn Đài Bắc, Đài Loan
Sinh ngày 21 tháng 06 năm 1934

Đã viên tịch tại bệnh viện Đài Bắc, Đài Loan vào lúc 11g30 phút (giờ Đài Loan) ngày 10 tháng 04 năm 2015, nhằm ngày 22 tháng hai năm Ất Mùi, hưởng thọ 82 tuổi, hạ lạp 62, tăng lạp 65.

Tiểu Sử Hòa Thượng Thích Tịnh Hạnh
  (1934-2015)

Hòa thượng sinh năm Giáp Tuất (1934) tại Thôn Mỹ Đức, tỉnh Ninh Thuận. Ngài là con một trong gia đình lại là cháu đích tôn từ đường, thừa hưởng điền sản hương hỏa từ Tổ tiên trong năm đời để lại.

Xuất gia năm Canh Dần (1950) tại chùa Thiên Hưng, thôn Vân Sơn, thuộc dòng Lâm Tế đời thứ 42 và sau đó tu học tại Phật Học Đường Ninh Thuận.

Năm Nhâm Thìn (1952) vào tu học tại Phật Học Đường Nam Việt, chùa Ấn Quang.

Năm Quý Mão (1963) trụ trì chùa Giác Tâm tỉnh Gia Định và giữ chức chủ tịch Ủy ban Liên Phái Bảo Vệ Phật Giáo tỉnh Gia Định trong cuộc tranh đấu Phật Giáo năm 1963.

Năm Bính Ngọ (1966) đậu Cử Nhân Phật Học Viện Đại Học Vạn Hạnh và làm giáo sư dạy trường Trung Học Bồ Đề.

Năm Kỷ Dậu (1969) được học bổng du học Đài Loan tại trường Đại Học Quốc Lập Sư Phạm Đài Loan.

Năm Nhâm Tý (1972) đậu Cao Học Văn Học với tiểu luận "Trung Việt tự âm tỉ giáo nghiên cứu" (Nghiên cứu so sánh âm chữ Hán Việt với âm chữ Trung Quốc).

Năm Kỷ Mùi (1979) thành lập giảng đường Linh Sơn Đài Bắc - khai sáng nguyệt san Hiện Đại Phật Giáo.

Năm Canh Thân (1980) thành lập lớp Cao học Phật học tại Đài Bắc.

Năm Tân Dậu (1981) trình luận án Tiến sĩ Triết học và Văn học với đề tài "Nghiên cứu về Hàn Dũ phê bình Phật Giáo".

Năm Quý Hợi (1983) giảng sư diễn giảng trên đài truyền hình Đài Bắc, liên tục nhiều năm về chủ đề tư tưởng Phật Giáo, mỗi tuần một giờ.

Năm Ất Sửu (1985) sáng lập và trở thành Viện Trưởng Học Viện Phật Giáo Trung Quốc.

Từ năm Bính Dần (1986) tham dự nhiều hội nghị và hội thảo quốc tế.

Năm Mậu Thìn (1988) qua Mỹ vận động thành lập Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất được Đại Hội bầu làm Chủ tịch.

Khai sơn chùa Thiền Lâm Linh Sơn trên 18 mẫu đất tại Thạch Định, Đài Bắc.

Năm Canh Ngọ (1990) giảng dạy môn Đại cương triết học và tỷ giáo tôn giáo tại Trường Quốc Lập Cao Đẳng Sư Phạm Đài Bắc.

Năm Nhâm Thân (1992) được phong chức Giáo sư trường Đại Học Quốc Lập Trung Hưng và trường Đại Học Phùng Giáp.

Năm Giáp Tuất (1994) trở về Việt Nam, đứng ra huy động, tổ chức, đài thọ mọi chi phí, tìm nhân tài, huấn luyện dịch Đại Tạng Kinh từ Trung văn sang Việt ngữ.

Năm Đinh Sửu (1997) được Đại Hội Phật Giáo Đài Bắc bầu làm Ủy viên Thường Trực Hội Phật Giáo Đài Bắc.

Năm Tân Tỵ (2001) nhận chức Xử lý thường vụ Tăng Thống Giáo Hội Phật Giáo Linh Sơn thế giới.

Năm Ất Dậu (2005) sau khi Hoà Thượng Thích Huyền Vi viên tịch được Giáo Hội suy tôn ngôi Đệ Nhị Tăng Thống lãnh đạo toàn bộ GHPGLSTG.

Năm Mậu Tý (2008) tiếp nối hoài bảo giáo dục của Cố Đại Lão HT Thích Huyền Vi, xây dựng Viện Đại Học Đông Phương Linh Sơn Thế giới.

Hóa duyên ký tất, nhân duyên Ta bà quả mãn, Ngài an nhiên thu thần Viên tịch vào lúc 11.30am ngày thứ sáu, 22 tháng 02 năm Ất Mùi (10/04/2015) tại Đài Bắc, Đài Loan.

Trụ thế: 81 Xuân.

Tác phẩm:

- Nhiều bài viết đăng trong Phật Giáo Hiện Đại.

- Trung Việt tự âm tỷ giảo nghiên cứu.

- Nghiên cứu về Hàn Dũ phê bình Phật Giáo.

- So sánh sự tương đồng và dị biệt giữa Pháp tướng Duy thức học và Pháp tánh Bát Nhã học.

- Luận lý học Phật Giáo


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
24/06/2011(Xem: 4194)
Ngài Mật Thể, pháp danh Tâm Nhất, pháp tự Mật Thể, tên thật là Nguyễn Hữu Kê, sinh năm 1912 ở làng Nguyệt Biều, quận Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên. Chánh quán huyện Tống Sơn, Gia Miêu ngoại trang, tỉnh Thanh Hóa, thuộc dòng Thích Lý của Cụ Nguyễn Hữu Độ. Gia đình Ngài qui hướng đạo Phật, cụ thân sinh và người anh ruột đều xuất gia.
23/06/2011(Xem: 4825)
Đọc Thánh Đăng Ngữ Lục, do Sa môn Tánh Quảng, Thích Điều Điều đề tựa trùng khắc, tái bản năm 1750, ta thấy đời Trần có năm nhà vua ngoài việc chăn dân, họ còn học Phật, tu tập và đạt được yếu chỉ của thiền, như vua Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông, Trần Anh Tông và Trần Minh Tông. Và sự chứng ngộ của các Thiền sư đời Trần thì không thấy đề cập ở sách ấy, hoặc có đề cập ở những tư liệu khác mà hiện nay ta chưa phát hiện được, hoặc phát hiện thì cũng phải tra cứu và luận chứng dài dòng rồi mới kết đoán ra được.
23/06/2011(Xem: 5586)
Đọc sử Phật giáo Việt Nam, hẳn chúng ta đều biết nước mình có một ông vua đi tu ngộ đạo, đó là vua Trần Nhân Tông. Ngài làm vua trong thời gian nước nhà đang bị quân Mông Cổ đem đại quân sang xâm lấn nước ta lần thứ ba.
22/06/2011(Xem: 6190)
Trong sáu thập niên qua, TIME đã không ngừng ghi chép lại những vinh quang cùng khổ nhọc của Á châu. Trong số đặc biệt kỷ niệm thường niên hôm nay, chúng tôi muốn bày tỏ lòng kính trọng của mình đến những nhân vật nổi bật đã góp phần vào việc hình thành nên thời đại chúng ta. Những thập niên xáo động nhất của một lục địa đông dân nhất trên trái đất này đã sản sinh ra hàng loạt những nhân vật kiệt xuất. Trong sáu mươi năm qua, kể từ khi TIME bắt đầu cho xuất bản ấn bản Á Châu, chúng tôi đã có cái đặc ân là được gặp gỡ đa số những nhân vật ngoại hạng này –theo dấu cuộc vận động hay trên chiến trường, trong phòng hội hay trong phòng thí nghiệm, tại cơ sở sản xuất hay tại phim trường.
16/06/2011(Xem: 3806)
Tôi có duyên lành gặp được ngài một lần khi ngài đến thăm Hòa thượng chùa Đông Hưng, bổn sư của tôi, cũng là y chỉ sư của Hòa thượng Quảng Thạc, một để tử xuất gia của ngài khi còn ở đất Bắc. Cung cách khiêm cung, ngài cùng Hòa thượng tôi đàm đạo về quá trình tu tập cũng như Phật học, hai ngài đã rất tâm đắc về chí nguyện giải thoát và cùng nhau kết luận một câu nói để đời : “Mục đích tu hành không phải để làm chính trị”. Cũng câu nói này, khi chia tay chư tăng miền Nam, ngài đã phát biểu với hàng pháp lữ Tăng ni đưa tiễn. Khi sưu tập tư liệu về cuộc đời của ngài, tôi may mắn gặp được các bậc tri thức cao đồ của ngài kể lại. Nay, nhân có cuộc hội thảo về phong trào chấn hưng Phật giáo miền Bắc và công hạnh của ngài, tôi xin được góp thêm đôi điều.
14/06/2011(Xem: 5240)
Thiền sư PHÁP THUẬN (Bính Tý 918): Thiền sư đời Tiền Lê, thuộc dòng thiền Tỳ-Ni-Đa-Lưu Chi, không rõ gốc gác quê quán và tên thật, chỉ biết rằng Sư họ Đỗ, xuất gia từ thuở nhỏ ở chùa Cổ Sơn (Thanh Hóa), sau theo học đạo Thiền sư Phù Trì ở chùa Long Thọ, nổi tiếng là uyên thâm đức độ. Tương truyền rằng chính Sư đã dùng nghệ thuật phù sấm, làm cố vấn giúp vua Lê Đại Hành nắm quyền bính, dẹp yên được hỗn loạn trong triều cuối đời nhà Đinh, được vua Lê vô cùng trọng vọng. Năm 990 niên hiệu Hưng Thống thứ 2, Sư không bệnh mà viên tịch, thọ 76 tuổi, để lại cho đời các tác phẩm: “Bồ Tát sám hối văn”, “Thơ tiếp Lý Giác”, và một bài kệ.
14/06/2011(Xem: 5316)
• Thiền sư Chân Không(Bính Tuất -1046): Sư họVương, thế danh Hải Thiềm, quê quán ở làng Phù Đổng (nay là Tiên Sơn-Bắc Ninh), xuất thân trong một gia đình quý tộc. Lúc thân mẫu của ông mang thai, cha ông nằm mộng thấy một vị tăng Ấn Độ trao cho cây tích trượng, sau đó thì ông ra đời. Mồ côi cha mẹ từ thuở niên thiếu, ông siêng chăm đọc sách không màng đến những chuyện vui chơi. Năm 20 tuổi ông xuất gia, rồi đi ngao du khắp nơi để tìm nơi tu học Phật Pháp. Nhân duyên đưa đẩy cho Sư đến chùa Tĩnh Lự ở núi Đông Cứu (Gia Lương-Hà Bắc), nghe Thiền sư Thảo Nhất giảng kinh Pháp Hoa mà ngộ đạo, được nhận làm đệ tử, sớm tối tham cứu thiền học, và được sư thầy truyền tâm ấn, thuộc dòng thiền Tì-ni-đa Lưu -chi, thế hệ thứ 16. Sau, Sư lên núi Phả Lại, trại Phù Lan (nay thuộc huyện Mỹ Văn-Hưng Yên) làm trụ trì chùa Chúc Thánh, ở suốt 20 năm không xuống núi để chuyên trì giới luật, tiếng thơm đồn xa đến cả tai vua.
13/06/2011(Xem: 12950)
Ôi, trong giáo pháp Phật đà của ta, việc trọng đại nhất là gì ? Con người sinh ra không từ cửa tử mà đến, chết không vào cửa tử mà đi. Thế nên người nằm non ở tổ, bỏ ngủ quên ăn, chẳng tiếc thân mạng, đều vì việc lớn sinh tử. Ở thời giáo suy pháp mạt này mà có người vì việc lớn sinh tử như Hòa thượng Liễu Quán, thật là hy hữu.
05/06/2011(Xem: 11519)
Ngôi chùa nhỏ nằm khiêm tốn trong khoảng đất rộng đầy cây trái. Buổi tối, mùi nhang tỏa ra từ chánh điện hòa với mùi thơm trái chín đâu đó trong vườn.
01/06/2011(Xem: 5495)
Cuộc đời và sự nghiệp của Khương Tăng Hội, ta hiểu biết qua hai bản tiểu sử xưa nhất, một của Tăng Hựu (446 - 511) trong Xuất tam tạng ký tập 13 ĐTK 2145 tờ 96a29-97a 17 và một của Huệ Hạo trong Cao Tăng truyện 1 ĐTK 2059 tờ 325a13-326b13. Bản của Huệ Hạo thực ra là một sao bản của bản Tăng Hựu với hai thêm thắt. Đó là việc nhét tiểu sử của Chi Khiêm ở đoạn đầu và việc ghi ảnh hưởng của Khương Tăng Hội đối với Tô Tuấn và Tôn Xước ở đoạn sau, cùng lời bình về sai sót của một số tư liệu. Việc nhét thêm tiểu sử của Chi Khiêm xuất phát từ yêu cầu phải ghi lại cuộc đời đóng góp to lớn của Khiên đối với lịch sử truyền bá Phật giáo của Trung Quốc, nhưng vì Khiêm là một cư sĩ và Cao Tăng truyện vốn chỉ ghi chép về các Cao Tăng, nên không thể dành riêng ra một mục, như Tăng Hựu đã làm trong Xuất tam tạng ký tập 13 ĐTK 2145 tờ 97b13-c18, cho Khiêm.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567