Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Biography of The Most Venerable Thich Quang Do (1928 - 2020), the Fifth Patriarch of the Unified Buddhist Church of Vietnam

06/03/202016:40(Xem: 5348)
Biography of The Most Venerable Thich Quang Do (1928 - 2020), the Fifth Patriarch of the Unified Buddhist Church of Vietnam

 

Chan Dung HT Thich Quang Do

Biography of The Most Venerable THÍCH QUẢNG ĐỘ

The Fifth Patriarch of the Unified Buddhist Church of Vietnam

(1928 - 2020)

 

 

 

Most Venerable Thích Quảng Độ was born with the name Đặng Phúc Tuệ in the Thai Binh province of northern Vietnam on 27 November 1928. Both his parents were farmers and devout Buddhists.Together, they had 4 boys and the Most Venerablewas the youngest of the siblings.

 

 

Most VenerableThich Quang Dobecame ordained as amonk at the age of 14 with his master The Most Venerable Thích Đức Hải at Linh Quang temple. In the early 1950s, he was nominated by the newly formed General Association of Vietnamese Buddhism to study in Sri Lanka and India to further his Buddhist training along with a number of his fellow Buddhist scholars.

 

Most VenerableThich Quang Do returned to Vietnam in 1958 and focused on his Buddhist teaching and translation. In addition, he had also become an activist, fighting against the anti-Buddhist policies of the then Diem government. After a military raid of Buddhist monasteries in Hue and Saigon, he was arrested on 20 August 1963. Most VenerableThich Quang Doand thousands of other Buddhists endured torture and persecution while being imprisoned by the Diem government.

 

 

After the Diem regime was toppled in a military coup on November 1963, Most VenerableThich Quang Do was released. However, as a result of his savage imprisonment, he struggled with tuberculosis before having a lung operation in Japan in 1966. On his recovery and return to Vietnam in 1967 to continue his Buddhist work of sutra translations and teaching, he also visited Taiwan, Hong Kong, Thailand and Burma to observe the conditions of Buddhism in Asia.

 

 From1972, Most VenerableThich Quang Do held several positions within the Unified Buddhist Church of Vietnam, including Secretary-General of the Institute for the Dissemination of Dharma.

 

In 1975, Vietnam felt to the Communist government, and Most VenerableThich Quang Dohad again became a target of persecution by the Communist government along with his fellow Buddhist monks and nuns due to their work in fighting for religious freedom in Vietnam. He was arrested in April 1977 and spent 20 months in prison in solitary confinement, before he was tried and released in December 1978 with assistance from European governments and the media. In 1982, he and his mother were expelled from Saigon and forced to live in the Thai Binh province in northern Vietnam.

 

 After 10 years, Most Venerable Thich Quang Do returned to the south of Vietnam against the government’s order to continue his fight for religious freedom. He was re-arrested and sentenced to five years in prison and a further five years of probation on the grounds of 'undermining the policy of unity and exploiting the rights of freedom to impede the interests of the state'. In 1998, under the pressure of the US government, he was released but remained under close surveillance by the Communist government.

 

 

In 2003, Most Venerable Thich Quang Do became the President of the Unified Buddhist Church of Vietnam’s Institute for the Dissemination of the Dharma. Over the years, he had also beenhonoured with a number of awards, including:

  • 1978 - nominated by Betty Williams and Mairead Maguire to receive the Nobel Peace Prize
  • 2003 –received the Homo Homini Award for human rights activism by the Czech group People in Need.
  • 2006 –received the ThorolfRafto Memorial Prize, in recognition of "personal courage and perseverance through three decades of peaceful opposition against the communist regime in Vietnam, and as a symbol for the growing democracy movement"

 

After 20 years of living at Thanh Minh Monastery in the south of Vietnam, Most Venerable Thich Quang Do was forced to leave and return to his home province of Thai Binh in northern Vietnam. In November 2018, he returned to the south of Vietnam and remained at TừHiếu Temple until his death.

  

Despite spending years in prison, Most Venerable Thich Quang Do’smajor commitment was to the propagation of theBuddha-Dharma through his teaching and publishing of numerous Buddhist books and translations.

 

 Most Venerable Thích Quảng Độ passed away on 22 February 2020 at age 93 at Từ Hiếu Temple in the south of Vietnam. According to his will, he requested a “simple funeral, not more than three days” and that “there will be no final words, no biographies, no emotional showings … just praying.” After cremation, his ashes would be scattered at sea.

Over the course of his life, The Most Venerable Thích Quảng Độ had never ceased to propagate the Dharma and fought for religious freedom in Vietnam. His life’s work and especially his fearlessqualities of a Boddhisatva,make him a shining example of practicing the Buddha-truth for current and future generations of monks, nuns and Buddhists to follow.

May Most Venerable Thich Quang Do attain the supreme bliss of Nirvana.

Namo Shakyamuni Buddha.Namo Amitabha Buddha.

 

 

 Thanh Kim & Thanh Nguyen (Translated into English)

References used in support of translation:

https://en.wikipedia.org/wiki/Th%C3%ADch_Qu%E1%BA%A3ng_%C4%90%E1%BB%99

https://www.japantimes.co.jp/news/2020/02/23/asia-pacific/vietnamese-dissident-monk-nobel-dies/#.XlSag2gzY2w

http://thewashingtonpost.newspaperdirect.com/epaper/viewer.aspx

 

*****


(Vietnamese version)





Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
30/05/2012(Xem: 7660)
Tín Nghĩa tôi đến định cư Hoa Kỳ vào ngày 19 tháng 09 năm 1979, do nhị vị Hòa thượng Thích Thiên Ân và Hòa thượng Thích Mãn Giác bảo lãnh từ trại tỵ nạn Hongkong. Ngồi tính sổ thời gian thì cũng đã gỡ gần ba chục cuốn lịch. Giá như thời gian này mà ở trong tù thì cũng mục xương và chẳng bao giờ được thấy ánh sáng của thiên nhiên.
27/05/2012(Xem: 18505)
Tác phẩm Trí Quang Tự Truyện bản pdf và bài viết "Đọc “Trí Quang Tự Truyện” của Thầy Thích Trí Quang" của Trần Bình Nam
15/05/2012(Xem: 5239)
Trong đạo lập thân của người xưa – lập công, lập đức, lập ngôn– thì lập ngôn thường được cho là quan trọng nhất, vì đó là phần “hình nhi thượng”, là tinh hoa tư tưởng cá biệt của một dòng đời mang tính truyền thừa lâu dài và sâu xa cho hậu thế. Người đem hết năng lực tinh thần và tri thức của đời mình để lập ngôn thì thành nhà tư tưởng, triết gia. Người đem chất liệu đời mình để viết lại thì thành tác giả tự truyện, hồi ký.
09/05/2012(Xem: 7232)
Sự xuất hiện của Tổ sư Liễu Quán (1667-1742) như là một Bồ tát bổ xứ, thực hiện sứ mệnh lịch sử: Không chỉ duy trì và phát triển mạch sống Phật giáo Việt Nam giữa bối cảnh xã hội tối tăm, Phật pháp suy đồi mà còn thể hiện sự xả thân vì đạo; lập thảo am, ăn rong, uống nước suối, hơn mười năm tham cứu công án, tu hành đắc đạo.
28/04/2012(Xem: 4341)
Nhà văn cư sĩ Huỳnh Trung Chánh, còn có bút hiệu Hư Thân, sanh năm 1939 tại Trà Vinh, quê nội của ông. Suốt quảng đời niên thiếu ông sống nơi quê ngoại tại Cao Lãnh, tỉnh Sa-Đéc, Nam Việt Nam. - Tốt nghiệp Cử nhân Luật Khoa( 1961 ), Đại Học Luật Khoa Saigon. - Tốt nghiệp Cử nhân Phật Học (1967), Phân Khoa Phật Học và Triết Học Đông Phương, Viện Đại Học Vạn Hạnh, Saigon. Là một công chức dưới thời Việt Nam Cộng Hoà, ông đã nổi tiếng thanh liêm, chánh trực và hết lòng dấn thân để phục vụ đại đa số dân chúng Việt Nam theo hạnh Bồ Tát của Phật giáo. Ông đã từng giữ các chức vụ sau đây: - Lục sự tại Toà Án Saigon và Long An (1960 – 1962). - Chuyên viên nghiên cứu tại Phủ Tổng Thống (1962 – 1964). - Thanh Tra Lao Động tại Bộ Lao Động (1964 – 1965). - Dự Thẩm tại Toà Sơ Thẩm An Giang (1965 - 1966). - Chánh Án tại Toà Sơ Thẩm Kiên Giang (1966 – 1969) và Toà Án Long An (1969 – 1971). - Dân Biểu Quốc Hội VNCH tại Thị Xả Rạch Giá (1
26/04/2012(Xem: 17081)
Mùa Phật Đản 1963, có máu, lửa, nước mắt và xương thịt của vô số người con Phật ngã xuống. Nhưng từ trong đó lại bùng lên ngọn lửa Bi Hùng Lực của Bồ Tát Thích Quảng Đức
20/04/2012(Xem: 8160)
Hòa thượng Thích Thiên Ân, thế danh Đoàn Văn An, sinh ngày 22 tháng 9 năm Ất Sửu 1925, tại làng An Truyền, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên. Thân phụ của Ngài là Đoàn Mễ, sau xuất gia là Thượng tọa Thích Tiêu Diêu một bậc tử đạo Vị pháp thiêu thân, thân mẫu là một tín nữ chuyên lo công quả ở chùa Báo Quốc và tu viện Quảng Hương Già Lam, Ngài là con trai thứ trong một gia đình có 4 anh em. Ngài xuất thân trong một gia đình thế gia vọng tộc, có truyền thống kính tin Phật pháp lâu đời. Nhờ duyên gần gũi Tam bảo từ thuở nhỏ, Ngài đã sớm mến cảnh thiền môn với tiếng kệ câu kinh, nên năm lên 10 tuổi (1935), Ngài theo bước phụ thân xin xuất gia đầu Phật tại chùa Báo Quốc, làm đệ tử của Hòa thượng Phước Hậu, được Bổn sư ban pháp danh là Thiên Ân, Ngài tinh tấn chấp tác, học tập thiền môn qui tắc, hầu cận sư trưởng. Năm Tân Tỵ 1941, khi được 16 tuổi, Ngài được Bổn sư cho thọ giới Sa di tại giới đàn chùa Quốc Ân – Huế, do Hòa thượng Đắc Quang làm Đường đầu truyền giới.
08/04/2012(Xem: 4626)
Hòa thượng thế danh Đoàn Thảo, sinh ngày 10 tháng Giêng năm Kỷ Dậu (1909), niên hiệu Duy Tân năm thứ 3 trong một gia đình nhiều đời theo Phật tại xứ Đồng Nà, tổng Phú Triêm Hạ, xã Thanh Hà, huyện Diên Phước, phủ Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam (Nay là thôn Đồng Nà, xã Cẩm Hà, thị xã Hội An, tỉnh Quảng Nam). Thân phụ là cụ ông Đoàn Văn Nhơn pháp danh Chơn Quang, thân mẫu là cụ bà Nguyễn Thị Có. Gia đình Ngài gần chùa Vạn Đức, lại thêm cụ thân sinh là tín đồ thuần thành của chùa, nên từ thuở nhỏ, Ngài thường theo cha đến chùa hàng đêm tụng kinh niệm Phật. Từ đó, chủng tử Bồ Đề lớn dần trong tâm và Ngài tỏ ra những biểu hiện rất có căn duyên với cửa Không môn của nhà Phật.
31/03/2012(Xem: 5395)
Hòa thượng thế danh Dương Đức Thanh, tự Liễu, pháp danh Như Nhàn, tự Giải Lạc, hiệu Trí Giác, nối pháp đời thứ 41 dòng Lâm Tế, thế hệ thứ 8 pháp phái Chúc Thánh. Ngài sinh năm Ất Mão (1915) tại làng Cẩm Văn, huyện Điện Bàn tỉnh Quảng Nam, trong một gia đình nhiều đời kính tín Tam Bảo. Thân phụ là cụ ông Dương Đức Giới pháp danh Chương Đồ, thân mẫu là cụ bà Nguyễn Thị Phụng pháp danh Chơn Loan. Năm lên 3 tuổi, thân phụ Ngài qua đời, thân mẫu tảo tần nuôi con và cho Ngài theo học chữ Nho với các cụ đồ trong làng, được 5 năm mới chuyển sang học Việt văn.
23/03/2012(Xem: 5057)
Đức Đại Lão Hòa Thượng Chánh Thư Ký Xử Lý Viện Tăng Thống GHPGVNTN là thế hệ thứ 8 của phái Thiền Thiệt Diệu Liễu Quán, Pháp danh Trừng Nguyên, Hiệu Đôn Hậu. Xuất gia và thọ cụ túc với Hòa Thượng Bổn sư là Tổ Tâm Tịnh, khai sơn chùa Tây Thiên Huế, sau các Pháp huynh là quý Hòa Thượng Giác Nguyên, Giác Viên, Giác Tiên, Giác Nhiên...
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567