Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Thơ Trong Tù của HT Quảng Độ ( Từ ngày 06.04.1977 đến ngày 10.12.1978 (từ tháng 3 năm Đinh Tỵ đến tháng 11 năm Mậu Ngọ)

27/02/202014:44(Xem: 7305)
Thơ Trong Tù của HT Quảng Độ ( Từ ngày 06.04.1977 đến ngày 10.12.1978 (từ tháng 3 năm Đinh Tỵ đến tháng 11 năm Mậu Ngọ)
 
htquangdo
Tho Tu_HT Thich Quang DoTho Tu_HT Thich Quang Do-2


THƠ TRONG TÙ
Từ ngày 06.04.1977 đến ngày 10.12.1978
(từ tháng 3 năm Đinh Tỵ đến tháng 11 năm Mậu Ngọ)

 



  

TỰ THUẬT

(Thơ Tù: Sa Môn Thích Quảng Độ)

 Thân ta trong chốn lao tù

Tâm ta vằng vặc trăng thu mặt hồ

Bao trùm khắp cõi hư vô

Lao tù đâu thể nhiễm ô tâm này

Mặc cho thế sự vần xoay

Tâm ta vẫn chẳng chuyển lay được nào

Ngọc thiêu màu thắm biết bao (*)

Sương càng phủ trắng tùng cao ngất trời

Trăng tròn khuyết biển đầy vơi

Mây bay gió thoảng cuộc đời sợ chi!

 (*) Lấy ý trong câu: “Ngọc phần sơn thượng sắc thường nhuận” của Thiền sư Ngộ Ấn, đời Lý.

Đại ý: viên ngọc ở trên núi bị đốt màu sắc vẫn tươi thắm.

 
ÁC MỘNG

(Thơ Tù: Sa Môn Thích Quảng Độ)

 Vào một đêm trời không trăng sao bóng tối ngập tràn

Tôi bắt đầu cuộc hành trình từ đó luân hồi mấy độ

Lang thang khắp nẻo mịt mù

Lần mò quờ quạng trong kiếp sống phù du

 
Không gian tôi thở toàn mùi tử khí

Chặng đường tôi đi xương trắng ngổn ngang

Những vũng máu từ nghìn xưa còn đọng lại

Bên những thành quách hoang tàn

 
Chắc hẳn nơi đây là chiến địa, nơi đây là trần gian

Rồi băng qua một miền đất lạnh

Bát ngát mênh mông gió thổi vù vù

Tôi thấy những nấm mồ nằm la liệt

Giữa những đám cỏ úa vàng đìu hiu quạnh quẽ

Và qua đốm lửa lập lòe trên những tấm bia tôi nhìn rõ

Từ các Đế vương đến những người cùng khổ

Tất cả chỉ còn lại nắm xương tàn

Chắc hẳn nơi đây là nghĩa địa, nơi đây là trần gian

Tiếp tục cuộc hành trình tôi đi sâu vào một vùng u tịch

Tường cao cửa kín bóng tối dày đặc đượm mùi hôi tanh

Những dẫy nhà màu xám chìm trong im lặng

Và dưới ánh đèn ma trơi tôi nhìn ra những cảnh tượng hãi hùng

Tôi thấy những người mà không ra người nhưng giống đười ươi

Nằm trong gọng cùm xiềng xích cũi sắt kẹp kìm trên tường

Tôi thấy những vết máu đào loang lổ

Trông như những con vật không đầu hay những hình thù ma quái

Mặt ngựa đầu trâu phồng mang trợn mắt

Như muốn ăn tươi nuốt sống khách bàng quan

Và từ đâu đây vọng lại tiếng kêu cầu cứu thất thanh

Tiếng rên la quằn quại và những tiếng kêu “oan”

Chắc hẳn nơi đây là địa ngục nơi đây là trần gian

Tôi bàng hoàng sực tỉnh cơn ác mộng vừa tàn

Nhìn ra ngoài đầy trời trăng sao và vui mừng

Tôi reo lên:

Ôi trần gian sáng đẹp biết bao!

Ôi trần gian sáng đẹp biết bao!

 Sa Môn Thích Quảng Độ

 

MƠ ƯỚC NGÀY VỀ

(Thơ Tù: Sa Môn Thích Quảng Độ)

 Ngày trở về đường tôi đi thênh thang rộng mở

Ánh nắng chan hòa mùa xuân tươi sáng

Và đầy vườn hoa nở chim ca

Gió thổi vi vu nghìn khúc nhạc hòa

Qua những hàng cây sum suê trải dài bóng mát

Thoang thoảng không gian một mùi thơm ngát

Của hương trời lá thắm cỏ non

Khắp nẻo đường tôi đi

Những tà áo xinh tươi vờn theo ngọn gió

Dưới nắng vàng cành liễu thiết tha

Tiếng cười vui vang lên từ khắp mọi nhà

Hòa lẫn tiếng trẻ thơ ê a tập

Mọi người nhìn nhau qua ánh mắt

Của tình người của trìu mến thiết tha

Sau hàng phượng vĩ dưới mái trường xưa

Thầy trò hoan ca ngày mở Hội

Thôi hết rồi những năm dài tăm tối

Sống đọa đày tủi nhục lầm than

Những năm dài áp bức bạo tàn

Đã vĩnh viễn chôn vùi trong dĩ vãng

Đất nước hôm nay muôn màu rực sáng

Đời tự do hoa nở thắm tươi

Hạnh phúc trên môi hé nở nụ cười

Như chào đón một mùa xuân bất tận

Thôi hết rồi những tháng năm thù hận

Tình thương yêu mở lối tương lai

Người với người tay trong tay

Cùng ước mơ xây dựng ngày mai

Trong thanh bình ấm no hạnh phúc

Cùng điểm tô non sông gấm vóc

Sáng đẹp muôn đời Tổ Quốc Việt Nam!

 Sa Môn Thích Quảng Độ  

 

 ĐÊM PHẬT ĐẢN

(Thơ Tù: Sa Môn Thích Quảng Độ)

 Đêm Phật Đản ánh trăng rằm huyền ảo

Khắp không gian như tỏa ngát mùi hương

Tinh tú ba nghìn tụ lại một phương

Để chào đón đấng Siêu nhiên xuất thế

 

Nơi ngục thất tôi nhìn vào hiện thể

Khắp quanh tôi tràn ngập bóng vô minh

Từ xa xưa vì nghiệp lực chúng sinh

Đã tạo dựng nhân gian thành địa ngục

 

Tôi cười vang  trong đêm trường u tịch

Bốn bức xà lim như sụp đổ dưới chân tôi

Ôi đau thương đây thế giới Sa Bà 

Cực Lạc Niết Bàn cũng là đây hiện thực

 

Ánh Đạo rọi giữa lòng tôi sáng rực

Bao ưu phiền trút sạch tựa mây tan

Kia gông cùm xiềng xích cảnh trần gian

Trong khoảnh khắc cháy tan thành tro bụi

 

Tôi vận dụng sức "hiện tiền Tam muội"

Ngồi an nhiên như sen nở giữa than hồng

Thời gian trôi lặng lẽ đã hừng đông

Tôi bừng tỉnh thấy bình minh ló rạng

 

Thế giới ngày mai mùa xuân tươi sáng

Đạo từ bi nhuần thấm khắp năm châu.

 15.4 Đinh Tỵ (1977)

Sa Môn Thích Quảng Độ  

 

ĐÊM XUẤT GIA

(Thơ Tù: Sa Môn Thích Quảng Độ)

 Đêm nay kinh thành Tỳ la yên lặng

Mảnh trăng thượng tuần vừa khuất sau đồi

Khung trời mờ ảo ngàn sao tỏa ánh lung linh

Sóng Nô-ma cuồn cuộn chuyển mình

 

Gió Hy-mã ào ào rung động

Vạn vật đã chìm sâu trong mộng

Từ không trung tiếng vọng ngân xa

Tất Đạt Đa! Tất Đạt Đa!

 

Giờ đã điểm, Ngài hãy ra đi tìm chân lý

Vì muôn loại sầu đau từ vạn kỷ

Đang đợi chờ và kỳ vọng thiết tha

Tất Đạt Đa! Tất Đạt Đa!

 

Ngài có nghe chăng tiếng khóc than đang vang lên từ khắp mọi nhà

Vì những khổ đau của sống già bệnh chết

Tử biệt sinh ly đói nghèo rách nát

Áp bức đọa đày bởi hận thù và tham vọng cuồng si

 

Tất cả trông chờ một chuyến ra đi 

Một chuyến đi hùng tráng

Niềm ước mơ ở những ngày mai tươi sáng

Chỉ còn đêm nay thôi đừng tiếc chi

 

Tất Đạt Đa ơi Ngài hãy ra đi

Vì tất cả theo tiếng gọi đêm nay

Hỡi sóng Nô ma và gió ngàn Hy mã

Hãy gào to lên cho tiếng vọng vang xa

 

Tất Đạt Đa! Tất Đạt Đa!

Giờ đã diểm thôi đừng tiếc chi

Cung điện ngọc ngà với Da Du và La Hầu La yêu quí

Ngài hãy ra đi vì muôn loại sầu đau từ vạn kỷ

Đang đợi chờ và kỳ vọng thiết tha

 

Tỳ la! Tỳ la! Ôi kinh thành hoa lệ

Thôi đừng buồn chi

Ngài ra đi cho muôn vàn thế hệ

Ngài ra đi vì tiếng gọi khổ đau

Của ngàn nay đến ngàn sau

Và sẽ trở về trong một ngày hào quang rực sáng

Tất cả kinh thành rồi sẽ rơi vào quên lãng

Nhưng hào quang Ngài sẽ sáng mãi với thời gian.

 8.2 Mậu Ngọ (1978)

Sa Môn Thích Quảng Độ   

 

ĐÊM THÀNH ĐẠO

(Thơ Tù: Sa Môn Thích Quảng Độ)

 Qua cửa gió xà lim vắng lạnh

Tôi đứng nhìn say đắm ánh sao mai

Tỏa lung linh sáng rực dưới vòm trời

Như báo hiệu bình minh đang trổi dậy

 

Sắp hết rồi ôi đêm dài tăm tối

Đang trùm lên cảnh vật một màu đen

Tôi im lặng hồi tưởng lại một đêm

Cùng giờ này hơn hai nghìn năm trăm năm trước

 

Dưới cội Bồ đề mặt đất chuyển rung

Như hoan ca chào đón đấng Đại Hùng 

Vừa chiến thắng ma quân lần cuối

Ánh Đạo vàng bừng lên chói lọi

 

Đốt tiêu tan màn hắc ám vô minh

Những khổ đau thù hận ngục hình

Đã vây hãm chúng sinh từ muôn thuở

 

Tất cả, tất cả trong tôi đang thiêu hủy

Với tham sân và cuồng vọng si mê

Ánh sáng chan hòa trên nẻo đường về

Suốt cuộc đời hôm nay tôi thấy sao mai đẹp nhất

 

Xin cảm tạ hồng ân Đức Phật

Đã cho con giờ phút hôm nay

Giờ phút thiêng liêng Thành Đạo của Ngài

Con tin tưởng sẽ đi vào dòng thời gian bất tận

 

Bao sự nghiệp huy hoàng xây trên thù hận

Từ ngàn xưa dấu vết phủ rêu xanh.

 18.12 Mậu Ngọ (1978)

Sa Môn Thích Quảng Độ   

 

PHÁP ÂM BẤT TUYỆT

(Thơ Tù: Sa Môn Thích Quảng Độ)

 Trên đỉnh núi Tu Di

Vào một đêm trăng huyền ảo

Tôi đứng nhìn vũ trụ bao la

Giữa khoảng thái hư vô cùng tận

Tôi thấy hằng triệu triệu thiên hà

Khắp trong ba nghìn đại thiên thế giới

Từ những tinh cầu âm vang vọng tới

Tôi nghe tiếng nhạc mầu nhiệm tuyệt vời

Và tràn đầy không gian mùi hương trời kỳ diệu

Trên mặt đại dương ánh trăng phản chiếu

Lung linh ngời sáng trông như biển ngọc lưu ly

Và trên những bãi cát vàng ánh trăng trải dài bát ngát

Như những tấm thảm khổng lồ dệt bằng muôn ức triệu hạt kim sa

Rồi đưa mắt nhìn quanh thế giới Sa bà

Trên mặt địa cầu tôi thấy đỉnh núi Linh sơn

Đang chìm trong những giây phút thần bí

Từ trời Đao lị đến cung Dạ ma

Từ cõi Phi phi tưởng đến cung Đâu suất đà

Và từ nhiều cõi khác số lượng hằng sa

Tôi thấy tất cả Trời, Rồng, A tu la

Đêm nay đều đến đây tụ hội

Để nghe pháp âm của Phật thuở nào

Đang còn vang dội khắp núi rừng tịch mịch thâm u

Thời gian như ngừng đọng lại, sát na là khoảng thiên thu

Linh sơn đêm nay là Linh sơn trong quá khứ xa xưa

Và trên tòa sư tử nguy nga

Tôi thấy Đức Phật tay cầm liên hoa

Trong một phút giây kỳ tuyệt khai thị diệu pháp Thượng thừa

Giữa vô lượng Thiên long Thánh chúng

Im lặng bao trùm đại chúng

Tôi chỉ thấy Ca Diếp Tôn giả mỉm cười nụ cười thần bí

Cũng như Linh sơn thần bí đêm nay rồi sau này

Vẫn tại nơi đây một triệu năm trăm nghìn năm tới

Khi Bồ tát Di Lặc ra đời

Linh sơn sẽ là đạo tràng của Long hoa pháp hội

Ôi! Huyền nhiệm làm sao núi rừng hùng vĩ Linh sơn

Đời đời vang dội DÒNG PHÁP ÂM BẤT TUYỆT.

 Xuân Mậu Ngọ (1978)

(15 tháng 2 kỷ niệm Đức Phật Nhập Diệt)

Sa Môn Thích Quảng Độ   

 

NHẬP THỂ

(Thơ Tù: Sa Môn Thích Quảng Độ)

 Đêm nay không trăng tôi nhìn bầu trời đen thẫm

Từ các tinh cầu xa xăm

Muôn nghìn ánh mắt long lanh nhìn tôi đăm đăm

Như âm thầm mời gọi hãy trở về vũ trụ bao la

Tôi say sưa nhìn giải Ngân hà

Những cánh buồm sao lấp lánh đang đợi chờ

Đưa tôi về bến cũ xa xưa

Tôi nhớ lại từ kiếp sơ

Khi vũ trụ sinh thành tôi là một phần bản thể

Vì “nhất niệm si mê » nên dòng sông Ngân chia cách đôi bờ

Trôi giạt nổi chìm

Hôm nay tôi trở về nhập thể

Ôi! Sung sướng biết bao từ thuở nào

Giờ đây thuyền neo bến cũ và hết rồi những ngày tháng lao đao

Những ánh mắt long lanh vẫn nhìn tôi trìu mến

Như hân hoan chào đón lữ hành sau những năm dài lưu lạc

Nay trở lại quê hương nhưng còn ngờ ngợ qua lớp áo phong sương

Những ánh mắt nhìn tôi thật kỹ

Và cuối cùng đã nhận ra tôi vẫn là người xưa tri kỷ

Chẳng phải khách tha phương

Khi ra đi, MÊ-GIÁC đôi đường

Giờ trở lại, GIÁC-MÊ là một

Ra đi mê, giác đôi đường

Giờ đây trở lại, một đường giác mê.

 Sa Môn Thích Quảng Độ   

 

SỐNG CHẾT

(Thơ Tù: Sa Môn Thích Quảng Độ)

 Mưỡu

Đời người như một giấc mơ

Tỉnh ra mái tóc bạc phơ trên đầu

Tuyệt mù xanh thẳm ngàn dâu

Gió tung cát bụi tìm đâu lối về

 

Nói

Sống là thực hay là ảo mộng

Chết đau buồn hay chính thật yên vui

Cứ hằng đêm tôi nghĩ mãi không thôi

Chẳng biết nữa, mình sống hay là chết

 

    Hoàng lương nhất mộng phù du kiếp

    Sinh tử bi hoan thục giác tri? (1)

 

Sống với chết là cái chi chi

Lý huyền nhiệm nghìn xưa mấy ai từng biết?

Có lẽ sống cũng là đang chết

Bởi sống trong tôi mà chết cũng trong tôi

 

Chết đeo mang từ lúc thai phôi

Nào đâu phải đến nấm mồ mới chết

Vì lẽ ấy, sống tôi không sợ chết

Cứ thung dung sống chết từng giây

 

Nhìn cuộc đời sương tuyết khói mây

Lòng thanh thản như chim hoa người gỗ (2)

Giữa biển trầm luân gió dồi sóng vỗ

Thân tùng kia xanh ngất tầng cao

 

Sống với chết nào khác chiêm bao

Lý “nhất-dị” là hào quang bất diệt

Cũng có lẽ chết hẳn rồi mới biết

Sống đau buồn mà chết thật yên vui

 

Xin đừng sợ chết ai ơi!

Sa Môn Thích Quảng Độ 

* Đại ý đời người cũng như giấc mộng kê vàng, như kiếp phù du sớm còn tối mất. Sống, chết, là buồn hay vui? Ai biết được?

Mộc nhân thị hoa điểu: Người gỗ ngắm chim hoa (chữ trong Thiền lâm bảo huấn)

 

ĐÊM MƯA NGHE TRẺ KHÓC (*)

(Thơ Tù: Sa Môn Thích Quảng Độ)

 Đêm khuya rồi trời mưa gió lạnh

Bé thơ ôi hãy ngủ ngon đi

Và đừng khóc nữa bé biết không

Tôi đang âm thầm đứng bên khung cửa

Lắng nghe bé khóc trong mưa và tự hỏi lòng mình

Tại sao bé khóc?

Nơi đây bé đang nằm trong nhà tù của Việt Nam anh hùng quang vinh độc lập

Bé được chào đời vào những ngày đầu của kỷ nguyên hạnh phúc ấm no

Rồi mai này bé sẽ là « cháu ngoan Bác Hồ”

Và được học những lời vàng ngọc

“Không có gì quí hơn độc lập tự do”

Bé biết không, đó là niềm vinh hạnh rất to

Mà hôm nay, vì còn thơ ngây bé chưa hiểu nổi

Niềm vinh hạnh ấy sẽ to gấp bội

Khi bé lớn lên tới tuổi thành niên

Cùng với hàng vạn bạn trẻ đồng trang

Bé sẽ được “Đảng ta » đào tạo luyện rèn

Để xứng đáng là thanh niên của thế hệ “Hồ Chí Minh” vĩ đại

Rồi noi gương Bác, bé sẽ không chối từ ngần ngại

Hiến cả đời mình cho sự nghiệp “giải phóng loài người”

Ôi! Vinh dự làm sao và tự hào biết mấy

Một sứ mệnh cao cả thiêng liêng

Thôi nhé bé thơ ôi đêm khuya lắm rồi và mưa vẫn còn rơi

Hãy ngủ cho ngon đừng khóc nữa

Tương lai của bé “tươi đẹp sáng ngời”.

 Sa Môn Thích Quảng Độ. 

 (*) Mẹ bé đi vượt biên bị bắt và sinh bé trong tù

 

TRỜI ĐÃ SÁNG

(Thơ Tù: Sa Môn Thích Quảng Độ)

 Vào một buổi chiều mưa

Trời nhà tù buồn thảm

Như ngày ba mươi tháng tư

Năm bảy mươi lăm lịch sử qua rồi

Bên cửa sắt xà lim tăm tối

Tôi đứng nhìn những giọt mưa rơi

Từ mái nhà đổ xuống lênh láng chan hòa

Trông như những dòng nước mắt của muôn vạn người dân vô tội

Đã chảy ra khi trải qua một cuộc đổi đời

Gió rít từng cơn, mưa tuôn càng mạnh

Lòng trống lạnh bồi hồi

Tôi nhìn quanh tôi bốn bức tường dày đặc

Bóng tối phủ đầy

Rồi đưa mắt nhìn ra phía chân trời

Tôi tìm trong tưởng tượng một nơi trú ẩn sáng tươi

Nhưng hoàn toàn mờ mịt cũng như xà lim tăm tối của tôi

Miền Nam ôi!

Tôi thầm gọi, đây là miền Nam trong căn phòng giam chật hẹp âm u

Ngoài kia là miền Nam trong một nhà tù rộng lớn

Còn có nơi nào yên ổn xin chỉ cho tôi ẩn trốn

Hỡi miền Nam thương mến của tôi ơi!

Đêm xuống rồi và mưa đã ngừng rơi

Sau hồi kiểng hiệu vang lên

Toàn khu nhà tù chìm vào yên lặng

Yên lặng như một nấm mồ hoang vắng

Giữa miền cát trắng bao la và nằm trong căn nhà mồ

Tôi không thấy gì nữa cả trừ những bóng ma (vai mang khẩu súng AK)

Thỉnh thoảng chập chờn qua gang cửa gió (*)

Đêm khuya đã đưa tôi vào giấc ngủ

Một giấc ngủ thật ngon

Thời gian lặng lẽ trôi theo định luật vô thường

Và mơ màng tôi nghe đâu đây tiếng chim hót véo von

Tôi choàng dậy

Ô kìa! Thì ra trời đã sáng

Từ phương đông vừng thái dương hiện lên chói rạng

Mở đầu một ngày rực rỡ ánh hào quang.

 Sa Môn Thích Quảng Độ 

 (*) Trên tấm cửa sắt của xà lim, người ta để một cái lỗ nhỏ vừa bằng bàn tay để đưa thức ăn qua, gọi là cửa gió.

 

 

DÂNG MẸ
(Sa Môn Thích Quảng Độ)

Bao năm rồi con lưu lạc ngàn phương
Con nhớ Mẹ suốt canh trường khắc khoải
Ơn dưỡng dục Mẹ ơi sao xiết kể
Công sinh thành con nghĩ quặn lòng đau

Khóm mai già xơ xác đã từ lâu
Trơ vơ đứng giữa trường đời gió lộng
Dòng sông chảy ấy đời con trong mộng
Lững lờ trôi trôi mãi đến bao giờ

Có những đêm con thiêm thiếp trong mơ
Con mơ thấy hồn con về thăm Mẹ
Được ấp ủ trong tình thương của Mẹ
Mảnh hồn con ấm dịu biết bao nhiêu

Bốn phương trời con tìm kiếm đã nhiều
Nhưng không có một tình yêu của Mẹ
Vu Lan đến cõi lòng con quạnh quẽ
Bóng người xưa như phảng phất đâu đây

Một chiều thu lạnh dâng bát cơm đầy
Tình nghĩa ấy Mẹ ôi bao thấm thía
Phương trời này con ngậm ngùi rơi lệ
Đức cù lao muôn một trả chưa xong.

Vu Lan Nhâm Dần (1962)
Sa Môn Thích Quảng Độ.

 

LẠY MẸ
(Thơ Tù: Sa Môn Thích Quảng Độ)

Hơn hai mươi bảy năm trời cách biệt
Mắt Mẹ đã mờ vì nhớ thương con
Mẹ trông chờ bao ngày tháng mỏi mòn
Nhưng chỉ thấy mây bay và gió thoảng

Mẹ có ngờ đâu đời con phiêu lãng
Như cánh chim trời xiêu bạt bốn phương
Để giờ đây trong cảnh ngộ đau thương
Cảnh tù ngục tối tăm và buồn thảm

Con hối hận từ đáy sâu tâm khảm
Đạo thần hôn (*) đã lỗi phận làm con
Tám mươi tuổi Mẹ có còn mạnh khỏe
Hay hạc vàng đã cất cánh bay cao

Cứ đêm đêm theo dõi những vì sao
Nhìn Bắc đẩu con tuôn trào nước mắt
Con quỳ xuống chắp hai tay trước ngực:
"Lạy Đức Từ Bi cứu độ Mẫu thân
Cõi Sa bà khi Mẹ đã mãn phần
Cảnh Cực lạc là quê hương An Dưỡng"

Lòng chí thành nguyện cầu trong tâm tưởng
Tháng năm dài con chỉ biết thế thôi
Nghĩa thù ân chua xót lắm Mẹ ôi
Con lạy Mẹ trăm nghìn muôn ức lạy!

Sa Môn Thích Quảng Độ.

(*) Thần hôn: Hôn định thần tỉnh, nghĩa là buổi hôm phải hầu cha mẹ cho định giấc ngủ, buổi sáng phải thăm cha mẹ xem có được yên không.

 

XUÂN NHỚ MẸ
(Sa Môn Thích Quảng Độ)

Mỗi lần xuân đến gợi thêm sầu
Con ở phương này Mẹ ở đâu
Nam Bắc đôi bờ dòng nước bạc
Trông vời bóng Mẹ khuất ngàn dâu

Con đi từ độ trăng tròn ấy
Trải mấy xuân rồi xuân viễn phương
Trên vạn nẻo đường con cất bước
Cõi lòng vương nặng mối sầu thương

Mái đầu Mẹ nhuộm mầu sương tuyết
Chồng chất đôi vai lớp tuổi đời
Con muốn thời gian ngừng đọng lại
Cho mùa xuân Mẹ mãi xanh tươi

Thời gian vẫn cứ lạnh lùng trôi
Hoa úa tàn phai trái chín mồi
Chua xót lòng con niềm hiếu đạo
Chân trời xa cách lệ tuôn rơi.

Giáp Thìn (1964)
Sa Môn Thích Quảng Độ

 

TÂM CỰC LẠC
(Thơ Tù: Sa Môn Thích Quảng Độ)

Tây phương Lạc quốc với Sa bà

Đường về khoảng cách độ bao xa?

Không gian cõi Phật mười muôn ức (*)

Nhưng là khoảnh khắc tại tâm ta

 

Thời gian khoảnh khắc tại tâm ta

Gió thổi vi vu khúc nhạc hòa

Chim hót vang rền tuyên diệu pháp

Lưng trời đổ xuống trận mưa hoa

 

Thời gian khoảnh khắc tại tâm ta

Phật phóng hào quang chói sáng lòa

Chín phẩm sen hồng hương ngát tỏa

Thánh hiền tụ hội số hằng sa

 

Thời gian khoảnh khắc tại tâm ta

Sen nở vừa xong thấy Phật đà

Cực lạc đây rồi: Tâm ta đó

Rời tâm tìm kiếm lại càng xa

 

Thời gian khoảnh khắc tại tâm ta

Trở lại sinh trong cảnh ác tà

Lăn lộn nổi chìm đời ngũ trược

Nhưng mà ta vẫn lại là ta.

 Sa Môn Thích Quảng Độ

(*) Mười muôn ức cõi Phật là một trăm vạn triệu cõi Phật, mỗi cõi Phật là một nghìn triệu thế giới, mỗi thế giới gồm một quả đất, một mặt trời, một mặt trăng. Như vậy cách nhau xa lắm. Nhưng đối với Phật pháp vô biên thì có gì là xa, vì vô biên thì không có trung tâm điểm mà chỗ nào cũng là trung tâm cả, thành ra không có xa, không có gần.

 

 ĐỈNH CHƠI VƠI
(Thơ Tù: Sa Môn Thích Quảng Độ)

Chiều thu nhè nhẹ lá vàng rơi

Cánh nhạn tung bay vút tận trời

Vẳng tiếng chuông chùa xa vọng lại

Chờ hồn lên mãi đỉnh chơi vơi

 

Hồn say cảnh trí đỉnh chơi vơi

Trăng tỏa hào quang đẹp tuyệt vời

Ngoảnh lại hồng trần ngao ngán nỗi

Đêm dài mây phủ khắp nơi nơi

 

Trăng thu nghiêng bóng gọi hồn tôi

Trần thế lênh đênh mấy độ rồi

An dưỡng quê xưa quên trở lại

Bình bồng trôi dạt đến bao thôi?

 

Tôi lỡ sinh ra giữa cuộc đời

Mênh mông nước mắt biển đầy vơi

Đường về quê cũ dừng chân tạm

Để với nhân gian góp nụ cười.

 Sa Môn Thích Quảng Độ 

 

VÔ THƯỜNG
(Thơ Tù: Sa Môn Thích Quảng Độ)

Qua kẽ xà lim chỉ mấy ly

Nhìn ánh triêu dương thật diệu kỳ

Thế giới ba nghìn đang chuyển động

Trong từng mảy bụi nhỏ li ti

 

Trên cành lá đọng giọt sương mai

Hạt ngọc lung linh ánh sáng ngời

Cơn gió thoảng qua cành lay động

Đột nhiên tan biến một thân người

 

Giây phút thời gian cứ đẩy xô

Giành giật cùng tôi một trận đồ

Mỗi lần nghe nhịp tim tôi đập

Tôi tiến gần hơn đến nấm mồ

 

Tà dương rơi rớt sau núi tây

Thế sự bình bồng theo áng mây

Thời giờ trôi chảy như dòng nước

Tóc bạc lúc nào tôi không hay

 

Ngồi buồn tôi nhớ đến Hạng vương

Lấp biển dời non sức chẳng thường

Một thoáng cơ đồ sương ngọn cỏ

Nghì thu uất hận sóng Ô giang

 

Ngồi buồn tôi lại nhớ Thủy hoàng

Sự nghiệp kinh thiên “vạn lý tràng” (1)

Đom đóm lập lòe soi vết cũ

Sa khâu (2) lạnh lẽo nắm xương tàn.                          

 Sa Môn Thích Quảng Độ

(1)   Tức Vạn lý trường thành, một công trình đã khiến cho hàng trăm nghìn người bỏ mạng.

(2)   Sa là cát, khâu là gò, tức gò cát hoặc nấm mộ của cát (TV chú)

 

KIẾP NGƯỜI
(Thơ Tù: Sa Môn Thích Quảng Độ)

Trăng năm bóng sáng thoáng qua mau

Mới đó mà nay đã bạc đầu

Giở cuốn sổ đời ra tính lại

Hai bàn bay trắng có chi đâu

 

Có nữa chăng là nấm cỏ khâu

Đìu hiu dầu dãi dưới trăng thâu

Vù vù gió thổi đồng hoang lạnh

Văng vẳng xa đưa tiếng dế sầu

 

Tranh vương tranh bá với công hầu

Nước chảy tràn sông máu đượm mầu

Những tưởng cuộc đời bền vững mãi

Nào ngờ bãi biển hóa nương dâu

 

Sớm còn tối mất kiếp phù du

Một thoáng đi rồi biệt vạn thu

Con đường trước mặt chia trăm ngả

Chỉ thấy sương đêm phủ mịt mù.

 Sa Môn Thích Quảng Độ

 

CUỘC HÀNH TRÌNH
(Thơ Tù: Sa Môn Thích Quảng Độ)

Ba vạn sáu nghìn ngày

Gió thoảng áng mây bay

Mênh mông lòng sa mạc

Từ đâu người đến đây

Giữa trưa hè nắng cháy

Dưới trời cát trắng này

Chập chờn hình ảo ảnh

Mơ màng nửa tỉnh say

Người đi tìm dòng nước

Người đi tìm bóng cây

Đưa mắt tìm bốn hướng

Đâu Nam Bắc Đông Tây?

Tất cả đều mờ mịt

Chỉ thấy xương phơi đầy

Cuộc hành trình nóng bỏng

Thiêu đốt mảnh thân gầy

Kiệt sức người nằm xuống

Nhắm mắt buông hai tay

Hoang vu lòng sa mạc

Gió thổi cát tung bay.

 Sa Môn Thích Quảng Độ

 

TÌM ĐÂU LỐI VÀO
(Thơ Tù: Sa Môn Thích Quảng Độ)

Đêm khuya gió rít giữa trời sao

Cuồn cuộn ngoài khơi lớp sóng trào

Phiền não luân hồi tuồng ảo ảnh

Vô thường sinh tử cảnh chiêm bao

Bồ đề trăng sáng soi lồng lộng

Bát nhã sen thơm tỏa ngạt ngào

Giải thoát Niết bàn không tịch tướng

Người biết tìm đâu được lối vào?

 Sa Môn Thích Quảng Độ

 

NGHĨA CÓ KHÔNG
(Thơ Tù: Sa Môn Thích Quảng Độ)

Bao năm nghiền ngẫm nghĩa có-không

Đến nay tôi thấy vẫn chưa thông

Vạn pháp vốn không, không hóa có

Thân tâm dù có, có thành không

Bồ đề phiền não, không rồi có

Niết bàn sinh tử, có lại không

Chứng được nghĩa không, không có có

Ngộ xong lý có, có không không

Nghĩa có không

Rất khó thông!

 Sa Môn Thích Quảng Độ

 

TU ĐẠO
(Thơ Tù: Sa Môn Thích Quảng Độ)

Bao năm học đạo với tu trì

Tính lại, ngày nay biết, được gì?

Được có một điều “không gì được”

Biết cùng cái lý “chẳng biết chi!”

Đi đứng nằm ngồi thường không khác

Uống ăn ngủ nghỉ vẫn như ri

Ma nghe nhếch mép cười mai mỉa

« Thế thì tu đạo để làm chi? »

Tôi cười khì: « Để như ri! »

 Sa Môn Thích Quảng Độ

 

TIẾNG HỒNG CHUNG
(Thơ Tù: Sa Môn Thích Quảng Độ)

Chiều xuân mây bạc nối bình bồng

Thế sự thăng trầm cuộc sắc không

Danh lợi trắng ngần bông huệ bạch

Nhục vinh đỏ thắm đóa hồng nhung

Đắc thất khoe hương nhành dạ lý

Thịnh suy phô sắc cánh phù dung

Cõi lòng vắng lặng nghe văng vẳng

Ngân dài cao vút tiếng hồng chung.

 Sa Môn Thích Quảng Độ

 

MÙI THIỀN
(Thơ Tù: Sa Môn Thích Quảng Độ)

Giờ phút trầm tư nếm vị Thiền

Lâng lâng không bợn chút ưu phiền

Ngục thất dầu sôi thành cam lộ

Lao tù lửa bỏng hóa hồng liên

Gông cùm giam hãm ngoài tam giới

Xiềng xích buộc ràng vượt cửu thiên

Sống chết vui buồn tâm tự tại

Cành dương rửa sạch nghiệp oan khiên.

 Sa Môn Thích Quảng Độ

 

XUÂN KHỨ BÁCH HOA LẠC

                              Thiền sư Mãn Giác (*)

                              Quảng Độ phụng dịch


Xuân đi hoa rụng rã rời

Xuân về hoa nở nụ cười thắm tươi

Thoáng qua trước mắt việc đời

Trên đầu mái tóc bạc rồi không hay!

Xuân tàn, hoa hết? Lầm thay!

Đêm qua sân trước nhành mai nở bừng!

 (*) Nguyên tác :

CÁO TẬT THỊ CHÚNG
(Thiền sư Mãn Giác)

Xuân khứ bách hoa lạc

Xuân đáo bách hoa khai

Sự trục nhãn tiền quá

Lão tòng đầu thượng lai

Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận

Đình tiền tạc dạ nhất chi mai.

 Thiền sư Mãn Giác (1052-1096), thế sanh Lý Trường, còn có tên Hoài Tín hoặc Trưởng lão Sùng Tín. Cáo tật thị chúng, nghĩa là có bệnh, bảo với mọi người.

 

THUYỀN ĐỜI
(Thơ Tù: Sa Môn Thích Quảng Độ)

Ráng chiều giăng mắc ven trời

Buồm mây một cánh nhẹ trôi lững lờ

Đi tìm nơi đậu bến mơ

Không gian biển rộng cõi bờ mù khơi.

Sa Môn Thích Quảng Độ

 

THÂN NGƯỜI
(Thơ Tù: Sa Môn Thích Quảng Độ)

Chiều thu khói quyện mái tranh

Đung đưa gió nhẹ trên cành lá rơi

Vương vương mấy sợi tơ trời

Nhìn theo cứ tưởng bóng người thoáng qua.

 Sa Môn Thích Quảng Độ

 

CÚ GỌI MA
(Thơ Tù: Sa Môn Thích Quảng Độ)

Ngoài hiên mờ nhạt ánh trăng tà

Tôi nằm nghe cú gọi hồn ma

Bình minh sắp dậy đêm hồ hết

Trở lại đường về ta với ta.

 Sa Môn Thích Quảng Độ

 

AI GỌI
(Thơ Tù: Sa Môn Thích Quảng Độ)

Đêm khuya ai gọi giữa tầng cao?

Cánh gió đưa qua lá xạc xào

Cửa sắt xà lim ngăn gió lại

Sợ làm tan vỡ cuộc chiêm bao.

 Sa Môn Thích Quảng Độ

 

HƯ VÔ
(Thơ Tù: Sa Môn Thích Quảng Độ)

Tâm như nắm tro tàn

Thân như cành củi khô

Lần lữa hết ngày tháng

Trở về với hư vô.

 Sa Môn Thích Quảng Độ

 

VỀ ĐÂU
(Thơ Tù: Sa Môn Thích Quảng Độ)

Hoàng hôn buông xuống cảnh phù trần

Le lói tà dương bóng khuất dần

Chim đàn lũ lượt bay về tổ

Ta biết về đâu hỡi thế nhân?

 Sa Môn Thích Quảng Độ

 

TỦI CUỘC ĐỜI
(Thơ Tù: Sa Môn Thích Quảng Độ)

Bầu trời xanh thẳm nhạn bay chơi

Cao rộng thênh thang sướng tuyệt vời

Nghĩ mình thân phận không bằng nhạn

Thấy nhạn càng thêm tủi cuộc đời.

 Sa Môn Thích Quảng Độ

 

TIM ĐỘNG
(Thơ Tù: Sa Môn Thích Quảng Độ)

Màn đêm dày đặc phủ xà lim

Có vật gì rơi giữa khoảng im

Lắng mãi tôi nghe rồi mới biết

Thì ra tiếng động của con tim.

 Sa Môn Thích Quảng Độ

 

CHIỀU NGHE NHẠN KÊU
(Thơ Tù: Sa Môn Thích Quảng Độ)

Chiều buồn nghe tiếng nhạn reo

Thả hồn Thục đế bay theo mây ngàn

Bình bồng trôi khắp nhân gian

Bạn cùng trăng gió cho tan sầu đời

 

Hồn lên tận cõi chơi vơi

Hỏi nàng Chức nữ: “Cung trời buồn? Vui?

Châu rơi nàng bỗng sụt sùi

Rằng: “Đây cũng khổ như người trần gian

 

Tháng ngày thiếu vắng Ngưu Lang

Đơn côi chiếc bóng chứa chan lệ sầu!

Hồn nghe cau mặt lắc đầu:

“Cõi trời mà thế tìm đâu hết buồn?”

 

Biệt nàng hồn vội đi luôn

Xà lim trở lại hồn buồn hơn xưa

Ngoài trời tầm tã cơn mưa

Giật mình tỉnh dậy giấc mơ vừa tàn

 

Nhớ câu “Tam giới vô an” (*)

Chỉ còn một cảnh Niết bàn yên vui.

 Sa Môn Thích Quảng Độ

(*) Ba cõi như nhà cháy không yên ổn. Chữ trong Kinh Pháp Hoa.

 

ĐỐ AI
(Thơ Tù: Sa Môn Thích Quảng Độ)

Đêm nay buồn lắm trăng ơi

Mời trăng ghé bóng vào chơi đỡ buồn

Xà lim lạnh thấm con hồn

Muốn trăng chia sẻ nỗi buồn thiên thu

 

Trần gian bóng tối phủ mờ

Có trăng hồn cũng nên thơ dạt dào

Tầm dương vẳng khúc Li tao

Ngàn xưa hung khí ngàn sau vẫn còn

 

Âm vang như gọi con hồn

Đêm khuya réo rắt trên cồn đìu hiu

Dưới trăng cành lá dập dìu

Bóng ai thấp thoáng theo chiều gió đưa

 

Giật mình tôi tỉnh cơn mơ

Tìm trăng nào thấy chỉ trơ có mình

Trăm năm trong cuộc tử sinh

ĐỐ AI biết được chính mình là ai?

 

Hồn ai trong giấc mộng dài?

Bóng ai thấp thoáng tiếng ai trên cồn?

Đêm khuya thấm lạnh ai buồn?

Trăng nào chia sẻ nỗi buồn cùng ai?

 

Đời như một giấc mộng dài

Vui buồn trong mộng đố ai biết mình?

 Sa Môn Thích Quảng Độ

 

XUÂN SANG
(Thơ Tù: Sa Môn Thích Quảng Độ)

Rộn ràng tiếng én báo xuân sang

Lòng tôi nguội lạnh nắm tro tàn

Đạo pháp bao trùm màn ảm đạm

Giang sơn phủ kín lớp màu tang

Áp bức đọa đày đời khổ nhục

Đói nghèo rách nát kiếp lầm than

Thẫn thờ đứng tựa khung cửa ngục

Nhìn bóng xuân sang mắt lệ tràn.

 Sa Môn Thích Quảng Độ

 

GIẤC MƠ LẠ
(Thơ Tù: Sa Môn Thích Quảng Độ)

Tôi vừa chợp mắt giữa đêm đông

Bỗng thấy cơn mơ rất lạ lùng

Sao rụng từng chòm rơi lả tả

Trăng tan thành mảnh rớt lung tung

Trái đất cháy bùng như hòn lửa

Mặt trời nguội ngắt tựa thoi đồng

Trần gian phút chốc thành mây khói

Tôi đứng chơi vơi giữa khoảng không!

 Sa Môn Thích Quảng Độ

 

XUÂN CẢM
(Thơ Tù: Sa Môn Thích Quảng Độ)

Xuân đã về đây với khổ đau

Tôi nằm thổn thức suốt đêm thâu

Hương xuân thoang thoảng mùi xác chết

Xông ngát tim tôi vạn cổ sầu

 

Xuân đi tóc chửa phai màu

Giờ xuân trở lại mái đầu điểm sương

Gió xuân reo khúc đoạn trường

Mưa xuân giọt lệ sầu thương chan hòa

 

Vườn xuân nào thấy bóng nhành hoa

Chỉ thấy vàng hoe lớp cỏ già

Cây đứng đau buồn nhìn lá rụng

Xơ xác cành khô dưới ánh tà

 

Sương xuân tê tái làn da

Đêm xuân giấc mộng hồn ma chập chờn

Ngày xuân rợp bóng tử thần

Tháng xuân nghĩa địa mộ phần thêm xuân

 

Đâu đâu cũng thấy đậm mầu xuân

Ảm đạm thê lương nhuộm hồng trần

Người người ủ rũ ngồi than khóc

Xiêm y tuyết trắng phủ toàn than

 

Khắp nơi bàng bạc dáng xuân

Mặt mày hốc hác áo quần tả tơi

Vẻ xuân tắt ngấm nụ cười

Nắng xuân đốt cháy thân người thành than

 

Hồ xuân nước cạn đất phơi gan

Sen chỉ còn trơ đám gốc tàn

Tôm cá chết khô nằm nghiêng ngửa

Mùi tanh nồng nặc vẫn chưa tan

 

Đồng xuân lúa mạ úa vàng

Dàu dàu cỏ dại lan tràn nơi nơi

Đường xuân thưa thớt bóng người

Thôn xuân quạnh quẽ như thời hồng hoang

 

Tù xuân như chợ giữa trần gian

Họp mặt đông vui đủ khách hàng

Cụ già sù sụ ho giòn giã

Con nít oe oe khóc nhịp nhàng

 

Trường xuân sĩ tử rộn ràng

I tờ lớp lớp xếp hàng đồng ca

O tròn như quả trứng gà

Ô thì có mũ ơ đà thêm râu

Mùa xuân “rực rỡ” đủ màu!

 Sa Môn Thích Quảng Độ

 

TRANG TRÀO PHÚNG

 

TỰ TRÀO I
(Thơ Tù: Sa Môn Thích Quảng Độ)

Quảng Độ là mi mi biết chưa

Vóc dáng xem ra kể cũng vừa

Mắt sáng cằm vuông râu rậm rạp

Trán cao đầu nhọn tóc lưa thưa

Chữ nghĩa lem nhem nhưng biếng học

Tính này nóng nảy vẫn không chừa

Năm nay tuổi tác vừa năm chục

Tù ngục hai lần đã sướng chưa? (*)

 

Tù ngục hai lần đã sướng chưa?

Tại sao ta hỏi mi không thưa?

Đạo pháp cơ đồ sương buổi sớm

Quỉ ma sự nghiệp nắng ban trưa

Túi cơm tín thí ngày thêm nặng

Giá áo đời mi sống cũng thừa

Sinh tử vô thường ai tránh khỏi

Chết quách cho xong thế cũng vừa.

 Sa Môn Thích Quảng Độ

(*) Năm 1963, bị chế độ Ngô Đình Diệm bỏ tù vì chống họ Ngô đàn áp Phật giáo.

Lần này (1977) lại bị Cộng sản bỏ tù vì chống Cộng sản đập tượng phá chùa và bắt bớ Tăng Ni Phật tử.

 

TỰ TRÀO II
(Thơ Tù: Sa Môn Thích Quảng Độ)

Quảng Độ tên mi quê ở đâu?

Thái Bình, Tiền Hải, xã Thanh Châu

Dốt đặc cán mai mà vênh mặt

Khôn nhà dại chợ lại lên râu

Nhìn đời “tiến bộ” giương mắt ếch

Nghe đạo suy đồi vểnh tai trâu

Thôi về xếp áo đi tập hát

Theo làm hề xiếc với ông bầu

 

Theo làm hề xiếc với ông bầu

Xôm trò mi đóng vở tuồng Tàu

Lưu Bị ra công hưng nghiệp Hán

Khổng Minh giúp sức diệt quân Tào

Triệu Tử dọc ngang con tuấn mã

Vân Trường vùng vẫy thanh long đao

Áo mão râu ria coi hiển hách

Hí trường tỏ mặt đấng anh hào!

 Sa Môn Thích Quảng Độ

 

THƠ LƯU ĐÀY

Từ ngày 25.02.1982 đến ngày 22.03.1992

(từ 2 tháng 2 năm Nhâm Tuất đến 20 tháng 2 năm Nhâm Thân)

 

NGUYỆN CẦU
(Thơ Lưu Đày: Sa Môn Thích Quảng Độ)

Hỡi trời cao đất dày
Có thấu cho cảnh này
Mẹ tôi tội tình gì
Phải chết trong lưu đày

Trong cô đơn hiu quạnh
Trong buồn tủi đắng cay
Thôi cõi đời ác độc
Mẹ vĩnh biệt từ đây

Con nguyện cầu hồn Mẹ
Vãng sinh về phương Tây
Phật Di Đà tiếp dẫn
Chư Bồ Tát dìu tay

Trong hoa sen tinh khiết
Hồn Mẹ hóa sinh ngay
Vòng luân hồi chấm dứt
Vĩnh viễn được yên vui.

Đêm 14 tháng 12 Ất Sửu
(23 tháng 1 năm 1985)

Sa Môn Thích Quảng Độ  

 

MẤT CẢ CUỘC ĐỜI
(Thơ Lưu Đày: Sa Môn Thích Quảng Độ)

Xuân này tôi mất Mẹ rồi
Cũng là mất cả cuộc đời còn chi
Từ nay đoạn đường tôi đi
Qua hàng thông lạnh gió vi vu sầu

Một mình lặng lẽ cúi đầu
Quanh tôi tất cả nhuộm màu tóc tang
Bước đi nghĩa địa lan man
Chết rồi hay sống điêu tàn như nhau.

Sáng Mồng 1 Tết Bính Dần (1985)
Ra thắp hương ngoài mộ.

Sa Môn Thích Quảng Độ  

 

TỰ THUẬT

(Thơ Lưu Đày: Sa Môn Thích Quảng Độ)

Sống giữa trần ai cảnh phũ phàng

Con thuyền lướt sóng cứ hiên ngang

Đã tùng đâu sợ làn sương trắng

Là cúc nào kinh trận gió vàng (*)

Trúc hát du dương khi Hè đến

Mai cười tươi tắn lúc Đông sang

Mặc cho mưa nắng cùng giông tố

Một tấc lòng son trọn đá vàng.

Sa Môn Thích Quảng Độ  

(*) Gió vàng: Dịch chữ “kim phong”. Mùa Thu thuộc hành Kim, nên gió thu gọi là kim phong, tức gió heo may. Hoa cúc thường nở vào tiết Trùng Dương (9 tháng 9 âm lịch) qua mùa Thu là tàn. Hoa mai, trái lại, nở vào mùa Đông.

 

TRÊN ĐƯỜNG LƯU ĐÀY

(Thơ Lưu Đày: Sa Môn Thích Quảng Độ)

Ngày mồng 2 tháng 2 năm Nhâm Tuất (Dương lịch 25-02-1982)

 

Từ Sài Gòn tôi lên đường đi miền Bắc lưu đày

Trên chiếc xe “ca” của nhà tù Cộng Sản

Tôi cảm thấy mình xót xa vô hạn

Bỏ lại phía sau bao vạn tấm lòng

 

Hẳn rồi đây sẽ mòn mỏi chờ mong

Nhưng chưa biết đến ngày nào tái ngộ

(Mà quyết định phải có ngày tái ngộ)

Miền Nam ôi! Tôi đã nghe niềm đắng cay tủi hổ

Sống đọa đày như loài thú hai chân

 

Dưới bàn tay của những kẻ vô thần

Đạo pháp tan hoang giang sơn rách nát

Thời đại hôm nay mà tôi cứ tưởng là thời Thát Đát

Với Thành Cát Tư và Hốt Tất Liệt xa xưa

 

Lịch sử bốn nghìn năm, ôi chưa từng thấy bao giờ

Cảnh người Việt dày xéo quê hương đất Việt

Hai mươi triệu đồng bào rên xiết

Trong gông cùm khóc nỗi tử biệt sinh ly

 

Miền Nam ôi! Thôi hãy tạm quên đi mối sầu bi

Và cố vui sống để nhìn về phía trước

Dẫm lên khổ đau, tất cả chúng ta cùng tiến bước

Và hẹn một ngày đất nước hồi sinh

 

Giờ phút này đây đánh dấu cuộc đăng trình

Về miền Bắc, tôi nguyện sẽ không bao giờ khuất phục

Những kẻ chỉ biết tin nơi bạo lực

Nuôi hận thù và giết chết tình thương

 

Đường tôi đi, buổi sáng nay tràn ngập ánh thái dương

Và cảnh vật reo vui chào tiễn biệt

Miền Nam ôi! Niềm nhớ thương nói sao cho xiết

Thôi xin tạm biệt người và hẹn hội mùa Xuân.

Nha Trang đêm 25.2.1982

Sa Môn Thích Quảng Độ  

 

QUA ĐÈO HẢI VÂN
(Thơ Lưu Đày: Sa Môn Thích Quảng Độ)

Trơ vơ đỉnh núi hắt hiu buồn

Mây về bao phủ cảnh hoàng hôn

Gió thét hung tàn vang ác thú (1)

Sóng gào uất hận vọng oan hồn (2)

Đạo pháp tiêu điều lòng thổn thức

Giang sơn ảm đảm dạ bồn chồn

Vân Hải chiều nay sầu Tô Tử (3)

Đường dài mang nặng nỗi hàn ôn (4)

Chiều ngày 27.2.1982

Sa Môn Thích Quảng Độ  

(1)   Tiếng gió hú trên đỉnh núi nghe rùng rợn như tiếng gầm của một con mãnh thú từ thung lũng nào dội lại.

(2)   Những đợt sóng bạc đầu vỗ vào bãi biển ầm ầm nghe như những tiếng gào thét của oan hồn người vượt biên chết đuối từ lòng đại dương vọng về.

(3)   Tức Tô Vũ tự Tử Khanh, làm Lang Trung Tướng đời Hán Vũ Đế, đi sứ Hung Nô, không khuất phục, bị vua Hung Nô đày đi Bắc Hải bắt chăn dê suốt 19 năm nhưng vẫn một lòng trung thành với nhà Hán. Vì luật thơ nên Hải Vân phải đảo ngược thành Vân Hải.

(4)   Hàn ôn, nghĩa đen là lạnh ấm, ở đây là nỗi niềm tâm sự của kẻ đi đày.

 

ĐÊM NGỦ TẠI HUẾ
(Thơ Lưu Đày: Sa Môn Thích Quảng Độ)

Đêm nay buồn thảm ngập Hương Giang

Chia sẻ cùng ai gánh đoạn tràng

Trằn trọc vừa nguôi cơn sửng sốt

Chập chờn lại tỉnh giấc mơ màng

Ất Mão chưa quên niềm uất hận (1)

Mậu Thân còn nhớ nỗi kinh hoàng (2)

Bãi mồ tập thể nằm đâu đó (3)

Giờ này chắc hẳn đã tan hoang!

Đêm 27.2.1982

Sa Môn Thích Quảng Độ  

(1)   1975

(2)   1968

(3)   Bãi mồ tập thể của các nạn nhân Tết Mậu Thân đã bị hốt đi để lấy chỗ làm thủy lợi!

 

QUA CẦU HIỀN LƯƠNG
(Thơ Lưu Đày: Sa Môn Thích Quảng Độ)

Chiều hôm le lói ánh tà dương

Đã vượt quan san nửa dặm trường (1)

Ngó lại trời Nam lầm bụi khói

Trông về đất Bắc tỏa mù sương

Bến Hải đôi bờ sầu kim cổ

Hiền Lương mấy nhịp nhuộm tang thương

Một thuở Hồng Câu còn in dấu (2)

Giờ đây hồn mộng vẫn tơ vương.

Chiều 28.2.1982

Sa Môn Thích Quảng Độ  

(1)   Đường về miền Bắc đến đây coi như đã được nửa

(2)   Hồng Câu: Đường ranh giới chia đôi Hán, Sở. Theo Hiệp Định Genève năm 1954, sông Bến Hải đã là đường giới tuyến quân sự tạm thời chia đôi hai miền Nam Bắc. Ngày nay tuy đã được thống nhất, nhưng dấu vết chia cắt vẫn còn đó, khiến người ta đi qua không khỏi bùi ngùi thương cảm.

 

QUA ĐÈO NGANG (1)
(Thơ Lưu Đày: Sa Môn Thích Quảng Độ)

Tôi tới Đèo Ngang cảnh tối mò

Cỏ hoa chẳng thấy, thấy rùa bò (2)

Tiếng “quốc” tiếng “gia” im bặt cả

Chỉ nghe tiếng máy rống ò ò

Non nước đất trời đều mù mịt

Tình riêng riêng gửi muỗi vo vo

Thời tiết đêm xuân mà lạnh ngắt

Chăn mền chẳng có, ngồi co ro

Đảm bảo an toàn trong giá rét

Mỗi bên “ôm ấp” một ông cò (3)

Thây kệ đêm đen và dốc đá

Lên Đèo tôi cứ ngáy o o!

Đêm 29.2.1982

Sa Môn Thích Quảng Độ  

(1)   Qua đây tôi nhớ tới bài thơ của bà Huyện Thanh Quan, nhưng lại trong một hoàn cảnh khác hẳn, nên tôi đã làm bài thơ này.

(2)   Rùa bò: Xe đi chậm như rùa vì để số 1.

(3)   Suốt từ Sài Gòn ra đến thị xã Thái Bình, lúc nào cũng có hai anh công an thường phục ngồi kèm hai bên cạnh tôi.

 

QUA CẦU HÀM RỒNG
(Thơ Lưu Đày: Sa Môn Thích Quảng Độ)

Bấy lâu nghe tiếng cảnh Hàm Rồng

Mãi đến bây giờ mới được trông

Đen xì mặt sắt cầu hai nhịp

Hung hãn đầu ngao núi một chồng (*)

Xơ xác hàng cây trên bờ ruộng

Tả tơi manh lưới dưới ghềnh sông

Hàm Rồng bỗng trở thành bụng rắn

Ếch nhái chui vào có sướng không?!

Chiều 1.3.1982

Sa Môn Thích Quảng Độ  

(*) Theo truyền thuyết Trung Hoa, ở phía đông biển Bột Hải có ba quả núi tiên ở là Bồng Lai, Phương Trượng và Doanh Châu; chân núi không dính vào đâu, trời sợ chúng sụt bèn sai mười lăm con ngao (một loại rùa biển) đội lấy để giữ cho núi khỏi sụt. Núi Hàm Rồng ngày xưa gọi là núi Long Đại, người ta tin có tiên ở, do đó cũng có ngao đội. Khi xe chui vào thành cầu, tôi có cảm tưởng như mình đang đi trong bụng một con rắn khổng lồ!

 

NGÀY ĐẦU LƯU ĐÀY
(Thơ Lưu Đày: Sa Môn Thích Quảng Độ)

Ngày Mồng 7 tháng 2 năm Nhâm Tuất

(Dương lịch 2.3.1982)

Tôi đến chùa Long Khánh xã Vũ Đoài

Vào một buổi chiều xuân nhưng giá lạnh

Tự đáy lòng tôi nghe niềm cô quạnh

Vì từ nay tôi sống cuộc lưu đày

 

Một số người đã tụ tập nơi đây (*)

Để chào đón “Sư Ông” về cảnh mới

Họ thuộc đủ thành phần đủ lứa tuổi

Trông xanh xao và rách rưới như nhau

 

Qua những ánh mắt thoáng hiện niềm đau

Họ “hồ hởi” gượng cười gượng nói:

“Báo cáo Sư Ông, ở đây chúng tôi tuy nghèo đói

Nhưng tấm lòng vì cách mạng rất bao la

 

Dưới sự lãnh đạo tài tình của Bác và Đảng ta

Chúng tôi đã hy sinh hết cả cửa nhà

Cả thân mệnh của ông cha con cháu

Tất cả đều đã đổ phần xương máu

Để ngày nay có độc lập tự do

Và muôn đời sau nữa sẽ có ấm no

Khi cả loài người bước lên lâu đài cộng sản

 

Trước mắt, chúng tôi tiến từng giai đoạn

Sản xuất thật nhiều thóc gạo ngô khoai

Chăn nuôi gà vịt lợn nội lợn lai

Tất cả cho hạnh phúc ngày mai

Chúng tôi sẽ làm việc bằng hai bằng bốn

 

Chùa cảnh ta đây tuy còn nhiều thiếu thốn

Nhưng Sư Ông phải khắc phục khó khăn

Ra sức phấn đấu lao động làm ăn

Để góp phần tăng gia năng suất

 

Sư Cụ trước đây nay đã khuất

Cũng đã từng sản xuất chăn nuôi

Hằng năm góp cho Đảng mấy chục cân hơi (*)

Và được tặng bằng khen “nuôi heo xuất sắc”

 

Nói chung Tăng Ni trên toàn miền Bắc

Đều đã góp phần tích cực nuôi heo

Tầm gương sáng ngời Sư Ông nên theo

Để xứng đáng là nhà Sư yêu nước

 

Trước đây Sư Ông đã lầm đường lạc bước

Thì nay là dịp để “cải chính quy tà”   

Với sự khoan hồng và chiếu cố của Đảng ta

Chúng tôi mong Sư Ông sẽ mau giác ngộ!”

 

Tôi gật đầu và thẫn thờ nhìn họ

Muốn ngỏ đôi câu nhưng chẳng nói nên lời

Một nỗi buồn man mác xâm chiếm hồn tôi

(Mà chẳng phải của riêng tôi nhưng của tất cả những ai vì giang sơn vì đạo pháp)

Màn đêm đang phủ dần trên cảnh chùa điêu tàn mục nát

Đoàn người tả tơi lần lượt ra về

Để lại mình tôi với tâm sự lê thê

 

Dưới sự canh phòng của những bóng ma lẩn khuất

Tôi lên chùa thỉnh chuông niệm Phật

Ma nấp bên ngoài cứ vểnh tai trâu

Tôi đọc thật to: A DI ĐÀ PHẬT, Phật có chửi ai đâu

Các chú hãy vào dâng hương lạy Phật!

Những bóng ma giật mình vì có tật

Chúng nó nhìn nhau lặng lẽ đi ra

 

Tiếng chuông trầm hùng vang dội ngân xa

Như gọi tỉnh loài ma lạc hướng.

Tôi cảm thấy niềm bình an thư sướng

Theo tiếng chuông ngân trải khắp ruộng đồng

 

Tôi hồi chuông rồi trở lại liêu phòng

Kết thúc ngày đầu của cuộc đời phát vãng

Đêm nay hồn tôi sẽ quay về dĩ vãng

Tìm lại giấc mơ trong thuở Lý Trần

 

Mang về đây thể hiện giữa đêm xuân

Để bình minh dậy non sông bừng ánh đạo

Nước từ bi sẽ giải tan cường bạo

Cho muôn hoa tươi thắm dưới trời Nam.

Đêm 2.3.1982

Sa Môn Thích Quảng Độ  

 

VỊNH CHÙA LONG KHÁNH
(Thơ Lưu Đày: Sa Môn Thích Quảng Độ)

Long Khánh sao mà cảnh tiêu sơ

Khói hương lạnh lẽo tự bao giờ

Dưới án quyển kinh sâu cuốn Tổ

Trên tòa tượng Phật nhện giăng tơ

Câu đối mối xông mùn đắp kín

Hoành phi mọt đục bụi che mờ

Mõ vỡ chuông rè nằm lỏng chỏng

Đứng nhìn tôi những ngẩn cùng ngơ!

Sa Môn Thích Quảng Độ  

Ngày 3.3.1982

 

GỬI TIẾN SĨ SAKHAROV (*)
(Thơ Lưu Đày: Sa Môn Thích Quảng Độ)

Sakharov ôi!

Ông là người Nga, tôi là người Việt

Hai dân tộc, hai phương trời

Nhưng chúng ta cùng cảnh ngộ

 

Ông dưới chính thể độc tài khủng bố

Tôi dưới chế độ phát xít hung tàn

Ông luôn luôn trong tư thế bất an

Tôi thường xuyên trong tinh thần hồi hộp

 

Vành móng ngựa ông đã bị điệu đến

Cửa nhà tù tôi đã được đẩy vào

Ông bị tước hết quyền của con người

Tôi được đối xử như là con vật

 

Ông đã không chịu cứu đầu khuất phục

Nên đấu tranh đòi dân chủ dân quyền

Tôi đã không chịu sống nhục đầu hàng

Nên vận dụng giành tự do tín ngưỡng

 

Đường ông đi đầy sơn lam khí chướng

Đường tôi đi rặt vách đá cheo leo

Ông gặp đủ loại sói, gấu, hùm, beo

Tôi gặp toàn những rắn, trăn, ưng, ó

 

Nó trợn mắt phồng mang chìa nanh há mỏ

Muốn vồ chúng ta để xé thịt phanh thây

Nhưng chẳng sợ, đành ngậm đắng nuốt cay

Nó đuổi chúng ta lưu đày phát vãng

 

Giờ đây tại Gorki, nước Nga, ông thanh thản

Nhìn cuộc đời qua làn tuyết ban mai

Và tại Vũ Đoài, nước Việt, tôi trầm tư

Xem thế sự qua làn sương buổi sớm

 

Sakharov ôi! Chúng ta tuy đồng hội đồng thuyền

Nhưng trùng dương cách trở từ bên này trái đất

Đêm nay dưới ánh sao mờ qua làn gió thoảng

Tôi gửi mấy lời « cầu chúc bền gan ».

Đêm 25.3.1982

Sa Môn Thích Quảng Độ  

(*) Tiến sĩ Andrei Sakharov là một nhà Bác học nổi tiếng, đồng thời, cũng là người tranh đấu cho dân chủ và nhân quyền tại Nga, bị Cộng sản Nga bắt và quản thúc tại Gorki, cách Mạc Tư Khoa về phía Đông bốn trăm cây số.

 

NHẮN NHỦ KHỔ ĐAU
(Thơ Lưu Đày: Sa Môn Thích Quảng Độ)

Khổ đau ôi!

Thôi đừng hù ta nữa, ta biết mi lắm rồi

Ta đã gặp mi trên khắp nẻo đường đời

Và mỗi lần gặp mi ta đều mỉm miệng cười

Và nhìn thẳng mặt mi không hề sợ sệt

 

Mi thực đáng sợ hơn sự chết

Nhưng với ta cũng chẳng là chi hết

Đừng mơ tưởng vì sợ mi, ta sẽ đổi dời khí tiết

Để cúi đầu trước bạo lực phi nhân

 

Cứ đọa đầy ta đi cho thỏa tính hung thần

Ta đã nguyện chẳng tiếc gì chiếc thân mộng huyễn

Khổ đau ôi! Mi có nghe giữa dòng đời lưu chuyển

Sóng vô thường đang cuồn cuộn thét vang

 

Đừng tự hào đã đắc thắng vinh quang

Trên xác chết của loài người bất hạnh

Vì ngu si, mi chẳng biết gì ngoài sức mạnh

Rồi cười vui trên đổ nát điêu tàn

 

Nhạc mi nghe là những tiếng khóc than

Trà mi nhắp là những giọt lệ tràn

Và rượu mi say là máu đào tươi thắm

Màn trướng mi buông là những vành khăn trắng

Của muôn dân đang quằn quại dưới chân mi

 

Nghèo đói theo sau mỗi bước mi đi

Gồng cuồng xiết chặt nơi nào mi tới

Ánh bình minh trở thành bóng tối

Phủ mịt mù mọi lối tương lai

 

Những hài nhi vô tội trong thai

Mi bóp chết dưới chiêu bài nhân mãn

Khổ đau ôi! Mi có nghe những tiếng hờn than oán

Đang vang lên từ phố thị làng quê

 

Từ hải đảo đến sơn khê

Và tự đáy mồ của những oan hồn vưởng vất

Mi biết không, chẳng có nơi nào trên mặt đất

Trong hư không hay dưới biển sâu

Sẽ tìm ra chỗ trú ẩn dài lâu

Để mi trốn trên trái sầu đã chín

Mà ngày ấy quyết định rồi phải đến

Khi loài người bừng tỉnh khỏi cơn mê.

Đêm Phật Đản Nhâm Tuất, 1982

Sa Môn Thích Quảng Độ  

 

NGẮM TRĂNG
(Thơ Lưu Đày: Sa Môn Thích Quảng Độ)

Đêm khuya thanh vắng

Tôi ngồi tôi ngắm ánh trăng

Đêm qua mờ

Đêm nay tỏ

Hôm nọ khuyết

Hôm nay tròn

Trăng ôi cách mấy nước non

Có còn thằng cuội có còn cây đa

Trần giới tôi nay tuổi đã già

Dòng đời Tô Vũ cứ trôi qua

Năm canh ấp ủ niềm tâm sự

Biết ngỏ cùng ai hỡi bóng Nga?

Ta với ta

Ta và bóng Nga

Hòa chung nhịp thở

Giữa vũ trụ bao la

Hồn thơ ta bay bổng dạo khắp các Thiên hà

Ba nghìn thế giới trần sa

Thoắt trong một niệm hồn ta trở về

Lại ôm niềm tâm sự với đêm dài lê thê

Hồn còn mang nặng lời thề

Quyết trong bể khổ sông mê vẫy vùng

Dong thuyền Bát Nhã đại hùng

Độ loài Nhất xiển thoát vòng vô minh. (*)

Sa Môn Thích Quảng Độ  

(*) Nhất xiển: Tức là Nhất xiển đề (Iccantika); kẻ không tin cội phúc, nhân quả, dứt hết căn lành.

 

HỒN MỘNG VÂN DU
(Thơ Lưu Đày: Sa Môn Thích Quảng Độ)

Bên gốc ngọc lan tôi nằm đưa võng

Nhìn mây trời loáng thoáng trôi qua

Đi về đâu giữa đêm bao la

Mây có biết? Riêng tôi chẳng biết

 

Mây cứ đi không một lời từ biệt

Có lẽ rằng mây đã quên tôi

Tôi nhìn mây vút tận chân trời

Nơi phút giây tôi thả hồn theo cảnh mộng

 

Đại dương mênh mông gió trăng lồng lộng

Đẩy hồn tôi lên mãi Ngân hà

Tôi sững sờ đứng trước một Nô-va (1)

Lửa ngọn bốc cao rực sáng cả Thiên hà

 

Và tôi cảm thấy mình

Đang ngập chìm trong hai mươi nghìn độ nóng

Từ muôn kiếp những ước mơ và hoài vọng

Bỗng trong tôi phút chốc tiêu tan

Tôi phóng nhìn bốn hướng khắp không gian

Điệp điệp trùng trùng muôn ngàn thế giới

 

Trước mắt tôi như mạng lưới Kiều Thi Ca (2)

Tôi vào cung Diệu Thắng chiêm bái Đức Phật Đà

Đang ngự trên tòa Sư tử nguy nga

Giữa Pháp Hội Hoa Nghiêm hơn hai nghìn năm trăm năm trước

 

Vô lượng chư Thiên vô biên Bồ tát

Rải hoa trời tấu nhạc dâng hương

Tiếng nhạc nhiệm mầu vang động mười phương

Khiến hồn mộng mơ màng sực tỉnh

 

Trăng lên cao màn đêm thanh tịnh

Mùi ngọc lan phảng phất quanh tôi

Trong phút giây mà đã cách nghìn đời

Ôi! Sinh tử khác gì mộng ảo!

Sa Môn Thích Quảng Độ  

(1)   Nova: Một định tinh rất lớn có thể cháy sáng và ngọn lửa lên cao đến 10.000 cây số và nóng tới 20.000 độ bách phân trước khi vĩnh viễn tắt ngúm, hoặc rực sáng trở lại.

(2)   Kiều Thi Ca: Tên gọi khác của trời Đế Thích (Sakra Devanamindra)

(3)   Cung Diệu Thắng: Điện của vua Đế Thích trên cung trời Đao Lợi. Đế Thích thỉnh Đức Phật lên nói Kinh Hoa Nghiêm tại đây.

 

BẮT GẶP CUỘC ĐỜI
(Thơ Lưu Đày: Sa Môn Thích Quảng Độ)

Đây rồi! Trong một phút giây kỳ tuyệt

Tôi đã bắt gặp cuộc đời mông mênh sâu thẳm

Tươi đẹp vô ngần mỗi hơi thở thoáng qua

Tôi cảm thấy mình choáng ngợp như đang đi lạc giữa rừng hoa

Bao la bát ngát, tôi chẳng biết nữa Nam Bắc Đông Tây

Ngày giờ hay năm tháng, tất cả chỉ là ánh sáng

Thuần là trăng sao lung linh kỳ ảo

Muôn màu muôn vẻ lặng lẽ tuyệt vời

Cả vũ trụ và tôi hòa đồng hơi thở

Tôi lắng nghe cỏ cây hoa lá trong những màu rực rỡ

Như đàn trẻ thơ đang cười đùa nhảy múa

Và muôn điệu côn trùng tưng bừng hớn hở

Đang hát bản trường ca muôn thuở

Giữa dàn nhạc đại hòa tấu thiên nhiên

Đây cõi thần tiên! Nhưng không phải

Bởi những khái niệm địa ngục thiên đường thần tiên trần tục

Cũng như những cảm giác vui buồn sướng khổ chẳng còn biên cương

Đây là tình thương! Tôi cũng không hiểu nổi

Chỉ biết cái gì là lạ mà chẳng có lời để tả

Đang lan thấm từng thớ thịt làn da

Ôi cuộc đời! Nguồn an tịnh sâu xa

Người là gì? Không ai biết cả

Chỉ có cỏ cây hoa lá

Côn trùng chim muông được tắm gội ơn người

Ôi cuộc đời! Kỳ diệu làm sao!

Xin cảm ơn người vạn tạ!

Sa Môn Thích Quảng Độ  

 

NGẮM HOA (1)
(Thơ Lưu Đày: Sa Môn Thích Quảng Độ)

Hoa với ta ai già ai trẻ

Nhận ra rồi cái lẽ như nhau

Hoa có từ nghìn xưa và sẽ có đến nghìn sau

Ta sinh từ vô thủy và sẽ còn sinh mãi

 

Tâm đại nguyện, Bồ tát không bao giờ sợ hãi

Đường tử sinh cứ thanh thản đi qua

Ta vân du khắp cõi Sa bà

Và ở đâu, ta cũng thấy hoa tươi thắm

 

Từng sát na lặng yên ta ngắm

Ta nhìn hoa và hoa nở trong ta

Giữa thăng trầm cuộc thế phù sa

Hoa và ta an nhiên tự tại

 

Mặc bốn mùa xuân qua đông lại

Trong vĩnh cửu, hoa vẫn tươi và ta mãi chẳng già

Vòng luân hồi tùy nguyện vào ra (2)

Mà ai biết! Chỉ có hoa và ta tri kỷ.

Sa Môn Thích Quảng Độ  

(1)   Hoa ở đây tượng trưng Chân như, Pháp thân

(2)   Bồ tát vào trong sinh tử là vì nguyện độ sinh chứ không phải bị nghiệp lực chi phối. Nhân lúc cảm hứng mà có tứ thơ trên đây chứ không phải tôi đã là Bồ tát.

 

HỎI TRĂNG
(Thơ Lưu Đày: Sa Môn Thích Quảng Độ)

Trăng thu hỡi, đêm nay Rằm tháng Tám

Ta ngồi đây cùng các bạn ngắm trăng

Trăng bao nhiêu tuổi có biết hay chăng

Và quanh trái đất đã xoay vần mấy độ?

 

Có mang theo mối sầu hoài vạn cổ

Những đêm dài hiu quạnh giữa hư vô?

Qua các đại dương sóng nước nhấp nhô

Trăng có thấy địa cầu rung chuyển?

 

Trên sa mạc giữa những ảnh hình ảo huyễn

Có nhận ra bóng dáng của loài người?

Và khi băng qua rừng rậm núi đồi

Thấy dấu vết gì của những nền văn minh thuở trước?

 

Đi giữa cảnh trời mây bến nước

Được như trăng ta mong ước đã từ lâu

Có những đêm ta cùng trăng đi suốt canh thâu

Dạo chơi khắp các tinh cầu rồi trở lại

 

Hẹn trăng ta sẽ còn gặp nhau mãi mãi

Giữa bầu trời cao rộng những đêm thanh

Trăng ôi xin trọn nghĩa tình.

Sa Môn Thích Quảng Độ  

 

GỬI MÂY

                     Tặng TT. NH.
(Thơ Lưu Đày: Sa Môn Thích Quảng Độ)

Mây chiều ôi hãy ngừng trôi

Cho ta nhắn gửi mấy lời

Hỏi người góc bể chân trời bấy lâu :

« Trải bao gió Á mưa Âu

Dặm khách sương pha nửa mái sầu?

Non nước nghìn trùng mờ mịt

Cùng ai thao thức những đêm thâu? »

Còn ta nay đã bạc đầu

Ngày tháng trơ trơ một khối sầu

Sợ hãi vui mừng gió thoảng

Nhờ mây nhắn gửi bấy nhiêu câu.

Sa Môn Thích Quảng Độ  

 

CẢNH THIỀN
(Thơ Lưu Đày: Sa Môn Thích Quảng Độ)

Lắm lúc buồn phiền muốn phát điên

Hết ngơ hết ngẩn lại tìm Thiền

Thiền không có cửa, hỏi lối lên tiên

Thiên thai mây phủ Đào nguyên sương mờ

 

Ru hồn vào một cõi mơ

Phút giây tan biến sợi tơ ngang trời

Buồn phiền mặt thật cuộc đời

Trốn đâu cho thoát hỡi người ngẩn ngơ?

 

Đối đầu trực diện từng giờ

Cuộc đời là một bài thơ tuyệt vời

Cảnh Thiền trước mắt người ơi

Đi tìm chẳng thấy trông vời càng xa!

Sa Môn Thích Quảng Độ  

 

LẠI GẶP TRĂNG
(Thơ Lưu Đày: Sa Môn Thích Quảng Độ)

Trăng ôi! Đã bao đêm rồi xa vắng

Mãi đêm nay ta mới lại gặp trăng

Đông đã về trăng có nghe chăng

Sầu chưa rụng giá băng tràn mọi nẻo

 

Sương lạnh buốt cỏ cây khô héo

Ủ mầm non chờ đón tin xuân

Cuộc tuần hoàn muôn thuở xoay vần

Đông sẽ hết và mùa Xuân sẽ tới

 

Vạn vật chuyển mình qua thời vận mới

Sẽ như trăng trong sáng đêm nay (1)

Giờ phút này trăng hỡi có hay

Dưới chân ta địa cầu đang rung động

 

Thần tượng nguy nga trong cơn ác mộng

Bừng một sát na sụp đổ tan tành (2)

Trăng ôi! Đêm đông dài nhưng sắp tàn canh

Gà đã gáy và bình minh đang trổi dậy

 

Ta tạm biệt để rồi đây sẽ thấy

Khắp non sông rực rỡ ánh triêu dương.

Sa Môn Thích Quảng Độ  

(1)   Tại miền Bắc, vào những tháng mùa Đông rất hiếm khi có trăng sáng, trời thường u ám, mưa phùn gió bấc. Bài thơ này được làm vào một tối tháng Chạp năm Giáp Tý (1984) trăng rất sáng.

(2)   Sát na: Một tích tắc.

 

TỰ NHỦ
(Thơ Lưu Đày: Sa Môn Thích Quảng Độ)

Đêm nay sao sáng đầy trời

Nhìn sao, ta gẫm cuộc đời xưa nay

Hết đêm thì lại đến ngày

Thịnh suy thành bại vần xoay chẳng ngừng

 

Đời là thế có chi đáng sợ

Thành cũng vui mà bại cũng là vui

Đã có hên tất phải có xui

Gặp gian nguy đừng bao giờ nản chí

 

Quân tử thiểu cầu hà hữu dị

Anh hùng đa nạn khởi vi kì (*)

 

Đường chông gai ta gạt phăng đi

Làm khiếp đảm loài phi nhân bất nghĩa

Đất nước này trải qua nhiều thế kỷ

Chưa bao giờ đổ nát như hôm nay

 

Nhưng khí thiêng sông núi còn đây

Lý, Trần mộng chắc có ngày trở lại

Dù khó khăn ta không quản ngại

Đem đạo vàng truyền rải khắp non sông

       Sắt son thề quyết một lòng.

Sa Môn Thích Quảng Độ  

(*) Ý nói đã là người quân tử thì tất nhiên ít tham cầu, và đã là người anh hùng thì tất nhiên phải gặp nhiều hoạn nạn, điều đó không có gì là lạ cả.

 

 

 

 

Đánh máy: Phật tử Niệm Đức Dương Nghiệp Huân (xem trang thơ của anh)

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
24/06/2011(Xem: 5645)
Trận chiến thắng Bạch Đằng của Ngô Vương Quyền năm 939 là một dấu mốc quan trọng trong lịch sử dựng nước của Việt Nam. Ngọn sóng Bạch Đằng Giang đã cuốn trôi đi nỗi đau nhục của người dân nô lệ, nhận chìm tham vọng của nòi Hán áp đặt lên đất nước ta trong suốt một ngàn năm. Từ đây Việt Nam không còn là một huyện lỵ của người Hán, từ đây một quốc gia đúng nghĩa đã xuất hiện dưới vòm trời Đông Á.
24/06/2011(Xem: 8061)
Ngài họ Nguyễn húy là Hữu Kê, dòng họ của Đại thần Nguyễn Trãi. Nguyên quán thuộc Tông sơn Gia miêu Ngoại trang, tỉnh Thanh Hóa. Ngài thọ sanh năm Nhâm Tý (1912), tại làng Nguyệt Biều, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên. Vốn thọ sanh trong gia đình vọng tộc, quý phái, thích lý luận Nguyễn Hữu Độ.
24/06/2011(Xem: 5062)
Ngài Mật Thể, pháp danh Tâm Nhất, pháp tự Mật Thể, tên thật là Nguyễn Hữu Kê, sinh năm 1912 ở làng Nguyệt Biều, quận Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên. Chánh quán huyện Tống Sơn, Gia Miêu ngoại trang, tỉnh Thanh Hóa, thuộc dòng Thích Lý của Cụ Nguyễn Hữu Độ. Gia đình Ngài qui hướng đạo Phật, cụ thân sinh và người anh ruột đều xuất gia.
23/06/2011(Xem: 5584)
Đọc Thánh Đăng Ngữ Lục, do Sa môn Tánh Quảng, Thích Điều Điều đề tựa trùng khắc, tái bản năm 1750, ta thấy đời Trần có năm nhà vua ngoài việc chăn dân, họ còn học Phật, tu tập và đạt được yếu chỉ của thiền, như vua Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông, Trần Anh Tông và Trần Minh Tông. Và sự chứng ngộ của các Thiền sư đời Trần thì không thấy đề cập ở sách ấy, hoặc có đề cập ở những tư liệu khác mà hiện nay ta chưa phát hiện được, hoặc phát hiện thì cũng phải tra cứu và luận chứng dài dòng rồi mới kết đoán ra được.
23/06/2011(Xem: 6467)
Đọc sử Phật giáo Việt Nam, hẳn chúng ta đều biết nước mình có một ông vua đi tu ngộ đạo, đó là vua Trần Nhân Tông. Ngài làm vua trong thời gian nước nhà đang bị quân Mông Cổ đem đại quân sang xâm lấn nước ta lần thứ ba.
22/06/2011(Xem: 7110)
Trong sáu thập niên qua, TIME đã không ngừng ghi chép lại những vinh quang cùng khổ nhọc của Á châu. Trong số đặc biệt kỷ niệm thường niên hôm nay, chúng tôi muốn bày tỏ lòng kính trọng của mình đến những nhân vật nổi bật đã góp phần vào việc hình thành nên thời đại chúng ta. Những thập niên xáo động nhất của một lục địa đông dân nhất trên trái đất này đã sản sinh ra hàng loạt những nhân vật kiệt xuất. Trong sáu mươi năm qua, kể từ khi TIME bắt đầu cho xuất bản ấn bản Á Châu, chúng tôi đã có cái đặc ân là được gặp gỡ đa số những nhân vật ngoại hạng này –theo dấu cuộc vận động hay trên chiến trường, trong phòng hội hay trong phòng thí nghiệm, tại cơ sở sản xuất hay tại phim trường.
16/06/2011(Xem: 4663)
Tôi có duyên lành gặp được ngài một lần khi ngài đến thăm Hòa thượng chùa Đông Hưng, bổn sư của tôi, cũng là y chỉ sư của Hòa thượng Quảng Thạc, một để tử xuất gia của ngài khi còn ở đất Bắc. Cung cách khiêm cung, ngài cùng Hòa thượng tôi đàm đạo về quá trình tu tập cũng như Phật học, hai ngài đã rất tâm đắc về chí nguyện giải thoát và cùng nhau kết luận một câu nói để đời : “Mục đích tu hành không phải để làm chính trị”. Cũng câu nói này, khi chia tay chư tăng miền Nam, ngài đã phát biểu với hàng pháp lữ Tăng ni đưa tiễn. Khi sưu tập tư liệu về cuộc đời của ngài, tôi may mắn gặp được các bậc tri thức cao đồ của ngài kể lại. Nay, nhân có cuộc hội thảo về phong trào chấn hưng Phật giáo miền Bắc và công hạnh của ngài, tôi xin được góp thêm đôi điều.
14/06/2011(Xem: 6132)
Thiền sư PHÁP THUẬN (Bính Tý 918): Thiền sư đời Tiền Lê, thuộc dòng thiền Tỳ-Ni-Đa-Lưu Chi, không rõ gốc gác quê quán và tên thật, chỉ biết rằng Sư họ Đỗ, xuất gia từ thuở nhỏ ở chùa Cổ Sơn (Thanh Hóa), sau theo học đạo Thiền sư Phù Trì ở chùa Long Thọ, nổi tiếng là uyên thâm đức độ. Tương truyền rằng chính Sư đã dùng nghệ thuật phù sấm, làm cố vấn giúp vua Lê Đại Hành nắm quyền bính, dẹp yên được hỗn loạn trong triều cuối đời nhà Đinh, được vua Lê vô cùng trọng vọng. Năm 990 niên hiệu Hưng Thống thứ 2, Sư không bệnh mà viên tịch, thọ 76 tuổi, để lại cho đời các tác phẩm: “Bồ Tát sám hối văn”, “Thơ tiếp Lý Giác”, và một bài kệ.
14/06/2011(Xem: 6139)
• Thiền sư Chân Không(Bính Tuất -1046): Sư họVương, thế danh Hải Thiềm, quê quán ở làng Phù Đổng (nay là Tiên Sơn-Bắc Ninh), xuất thân trong một gia đình quý tộc. Lúc thân mẫu của ông mang thai, cha ông nằm mộng thấy một vị tăng Ấn Độ trao cho cây tích trượng, sau đó thì ông ra đời. Mồ côi cha mẹ từ thuở niên thiếu, ông siêng chăm đọc sách không màng đến những chuyện vui chơi. Năm 20 tuổi ông xuất gia, rồi đi ngao du khắp nơi để tìm nơi tu học Phật Pháp. Nhân duyên đưa đẩy cho Sư đến chùa Tĩnh Lự ở núi Đông Cứu (Gia Lương-Hà Bắc), nghe Thiền sư Thảo Nhất giảng kinh Pháp Hoa mà ngộ đạo, được nhận làm đệ tử, sớm tối tham cứu thiền học, và được sư thầy truyền tâm ấn, thuộc dòng thiền Tì-ni-đa Lưu -chi, thế hệ thứ 16. Sau, Sư lên núi Phả Lại, trại Phù Lan (nay thuộc huyện Mỹ Văn-Hưng Yên) làm trụ trì chùa Chúc Thánh, ở suốt 20 năm không xuống núi để chuyên trì giới luật, tiếng thơm đồn xa đến cả tai vua.
13/06/2011(Xem: 14019)
Ôi, trong giáo pháp Phật đà của ta, việc trọng đại nhất là gì ? Con người sinh ra không từ cửa tử mà đến, chết không vào cửa tử mà đi. Thế nên người nằm non ở tổ, bỏ ngủ quên ăn, chẳng tiếc thân mạng, đều vì việc lớn sinh tử. Ở thời giáo suy pháp mạt này mà có người vì việc lớn sinh tử như Hòa thượng Liễu Quán, thật là hy hữu.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com