Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Mộng Lệ An Tưởng Nhớ Đại Lão Hòa Thượng Thích Trí Quang (1923-2019)

19/11/201905:28(Xem: 6632)
Mộng Lệ An Tưởng Nhớ Đại Lão Hòa Thượng Thích Trí Quang (1923-2019)
Chan Dung Duc Truong Lao HT Thich Tri Quang_1923_2019--2

MỘNG LỆ AN TƯỞNG NHỚ
ĐẠI LÃO HÒA THƯỢNG

Thượng TRÍ hạ QUANG (1923-2019)


Làng Diêm Điền, bên nhánh sông Nhật Lệ,
Sông đang khóc, bậc Đại Trí Đại Hùng
Người ra đi để lại bao tiếc thương
Dẫu biết rằng "đến đi" điều không thể!

Chùa Từ Đàm cố đô Huế rộn ràng
Cà sa vàng cùng áo lam hàng vạn
Hai bên đường cờ ngũ sắc ướt đẫm
Mưa tầm tã trời người buồn lắm thay

Mưa nặng hạt hay lệ ai tuôn dài
Tứ chúng quỳ bàn thờ bày trang trọng
Đoàn Linh cửu hoa trắng tiễn đưa Ngài
Lò hỏa táng lửa Trí Tuệ bừng sáng

Trên cầu Đá gặp hai vị Giảng Sư (1938)
Nhìn phong cách, Mẹ đã sâu ấn tượng
Muốn nhà có hai vị Thầy chân tu
Thế là Ngài duyên xuất gia được chọn

Đêm Giao thừa năm một chín ba tám
Đầu cạo tóc, áo nhật bình khói hương
Theo chân Cha khi Ngài tuổi mười lăm
Chùa Phổ Minh Ôn Hồng Tuyên vui nhận

Phật Học Viện sáu năm (1939-1944) học nghiêm cẩn
Ôn Trí Độ Hòa thượng Thân giáo sư
Đại Trí Luận, Du Già Sư Địa Luận
Học thuộc lòng cộng hai thời công phu

Năm Ất Dậu (1945) Thân Phụ đã giã từ
Sáng sớm dậy lá chanh bưởi pha tắm
Y chỉnh tề mão Quan Âm ngay ngắn
Tay trên ngực ấn Truyện Phật Thích Ca

Bốn anh em cùng Mẹ trình Bổn Sư
Ôn đã biết, Ngài gật gù tán thán
"Có quyển sách, tự tại Tây Phương vãng"
Như lời xướng "Hỏa diệm hóa hồng liên"

Nhắc đến Cha, những năm cuối hay quên
Quên chuyện đời, Người không nói không hỏi
Gần thuộc lòng, một mình kể sớm tối
Truyện Đời Phật, Cha đã nhiếp tâm mình 

Lúc nhập liệm có Bổn Sư chứng minh
Trên Truyện Phật đặt cuốn Kim Cang nhỏ
Nắp quan đóng chợt chấn động cùng mình
Chạy vào buồng úp mặt vào ván gỗ

Bổn Sư hiểu, đỡ nhẹ Ngài đứng thẳng
Chợt tỉnh ra nuốt lệ cố lắng lòng
Cứ như thế hai Thầy trò lẳng lặng
A Di Đà danh hiệu Phật niệm luôn

"Tăng sĩ Phật giáo" chí hướng tỏ tường
Dịch giải Tam Tạng thật lòng chỉ muốn
Thế giới chiến tranh Tổ quốc lâm nạn
Pháp chiếm Quảng Bình (1947) phải chạy giặc thôi

Mãi Đắng Mẹ con hối hả dựng chòi
Khoai non rau tía ngon rồi, mừng lắm
Tranh thủ thời gian Ngài dịch tiểu luận
Phát Bồ đề tâm cùng với Cảnh Sách

Chạy loạn mới biết có những niềm vui
Gặp gỡ những người dễ thương thật tốt
Ngỡ như thân quyến hay anh em ruột
Mừng cho con Đốm nó thoát kiếp rồi!

Nạn đói Ất Dậu tử thần chẳng ngơi
Sau húy nhật Cha thời "bạt độ" Chánh
Chú ấy tử trận, khi Pháp khai chiến
Ngài tụng mấy biến Địa Tạng Kim Cang

Đời có những lúc một phút phân vân
Như Mẹ chợt nghĩ muốn con hoàn tục
Dù làm thầy cúng gần gũi mong được
Ngài nhắc Mẹ nghe lời nguyện trước đây


Một chín năm mốt một năm sau ngày
Tổng Hội Phật Giáo (Việt Nam) chào đời tại Huế
Pháp thiều "Phật Giáo Việt Nam" hùng khí
Lần đầu hát lên hoan hỷ làm sao


Niềm vui thống nhất chưa được bao lâu
Đạo dụ số mười đã mau cấm đoán
"Tăng già cư sĩ đứng chung" không đặng
Ngài liền phản đối, sứ mạng từ đây


Một chín năm tư Nam Bắc phân hai
Triệu người di tản ruột ai như quặn
Thương Mẹ khốn khổ không đủ can đảm
Nhớ lại ghi xuống quãng đời đớn đau

Suốt bảy năm trời một khoảng dài lâu
Mắt chẳng nhắm nổi đêm thâu trằn trọc
Chùa chiền nạn nhân của ấp chiến lược
Trong hết hành Đạo, ngoài đạn lạc bay

Song cờ Phật Giáo không dính gì ai
Sao cấm treo lên, lễ đài giật sập
Vào ngày Phật Đản Từ Đàm cùng khắp
Một chín sáu ba tức nước vỡ bờ


Ôm Ngài vào lòng, Mẹ mới dặn dò
"Con đi trả nghĩa cho Phật" Mẹ nói
Dù là có thể đời này đi khỏi
Ngài nghĩ tới đó nước mắt ứa ra

Phật Đản đón mừng bằng những chiến xa!
Phật Giáo Việt Nam bất diệt, xin nhớ (1)
Phản đối triệt cờ (PG), xúc phạm (PĐ) vô cớ
Cùng với chính sách không có công bình

Biểu ngữ (1) nêu cao, cầu nguyện hòa bình
Tuyên ngôn (2) rõ rệt, không tranh quyền chức
Không cầu độc tôn, chẳng dùng bạo lực
Luôn "bất bạo động", bất mưu hại ai

Xin đừng chụp mũ bắt bớ đọa đày
Đừng gây chia rẽ, nồi da xáo thịt
Đạo Phật ôn hòa, đừng mong ức hiếp
Phật Giáo bất diệt, chân lý ngàn năm

Thật là bất ngờ xưa nay chưa từng
Đại lão Thuyền Tôn, Tây Thiên, Vạn Phước
Tuổi đã trên trăm chống gậy cùng bước
"Đi với con cháu" các Ngài làm gương

Ai nấy lo lắng sợ cho quý Ôn
Chứ có các Ngài lòng thêm kiên cố
Song khó cầm lòng khi tiếng súng nổ
Nhìn "Thánh tử Đạo" nằm đó, lệ sa


Tin về Pháp nạn vượt đại dương xa
Mỹ Quốc lung lay trước nhà Sư ấy
Nao núng bao người, Ngài là ai vậy?
Nghĩ gì muốn chi? Thế giới nể vì

Mặc ai nói gì, đường Ngài cứ đi
Bắt bớ giam cầm chỉ thêm tôi luyện
"Đi trả ơn Phật" như lời phát nguyện
Tứ Ân trĩu nặng Ngài gánh trên vai

Bệnh viện Sài Gòn, quản thúc nơi đây (1966)
Tuyệt thực trăm ngày thân gầy xương lộ
Giữ tâm thanh thản thanh lương, xả bỏ
Dùng thời gian đó nhập thất luyện tu


Theo Duy Thức học bình luận Tây Du
Thêm Khởi Tín luận dù không tài liệu
Ngài cũng không quên Di Đà Thánh hiệu
Thị lực yếu hẳn sau bảy mươi ngày

Tiểu phẩm Cảnh Sách Ngài phải ngừng ngay
Gần đến trăm ngày cổ tay nhức mỏi
Tim mạch đáng ngại, điềm đạm Ngài nói
Không muốn bác sĩ chộn rộn tới lui

Đến ngày 98 thân thể rã rời
Sẽ vui tuyệt diệu lìa đời lúc đó
Thế rồi 99 và một trăm đủ
Đột nhiên khỏe khoắn, mừng rỡ nguyện thành!

Có Ngài Trí Thủ, Thiện Hoa ở bên
Cùng Ôn Huyền Quang huynh đệ có mặt
Cũng nhờ Tam Bảo Thiên long Hộ pháp
Phật Giáo Việt Nam Pháp nạn vượt qua!

Khi có đại nạn Bồ Tát mới ra
Xả thân vì Pháp như Ngài Quảng Đức
Ngọn lửa tham sân chẳng thể thiêu đốt
Trái tim Từ Bi Bảo tháp còn lưu

Những Quách Thị Trang, Thị Vân, thương sao (3)
Các bậc Cao Tăng, nào chư liệt sĩ
Cho đến Phật tử, vô danh những vị
Công khai, âm thầm vì Pháp xả thân

Như bậc Tôn kính Thượng Trí Hạ Quang
Lui về bóng tối sau cơn Pháp nạn
Ấn Quang, Quảng Hương Già Lam tu ẩn
Dịch Kinh trước tác năm tháng Từ Đàm (4)

"Rốt cuộc không biết", có ai biết chăng? (5)
"Không có ý định", toàn là ý Phật
"Không gì đáng nhớ đáng nói", hà tất
Bất sanh bất diệt "không vẫn hoàn không"

Xương sọ trắng tinh trong ánh lửa hồng
TRÍ tuệ QUANG minh còn lưu Xá lợi
Đời nay hậu thế đảnh lễ chiêm bái
Dòng sông Nhật Lệ mãi mãi tiếc thương

Sáu điều Di huấn (6) chuyên chở tấm lòng
Của bậc chân tu buông xả hình thức
Không muốn thêm gánh con cháu mệt nhọc
Đến đi tự tại quảy gót sắc không.


Nam Mô Tân Viên Tịch Tự Lâm Tế,
Thiên Đồng Thiền Phái, Phổ Minh Môn Hạ,
Nguyên Thiều Pháp Hệ, Tứ Thập Nhất Thế, Từ Đàm đường thượng,
Việt Nam Phật Giáo Thống Nhật Giáo Hội, Nguyên Viện Tăng Thống Chánh Thư Ký,
Húy thượng Nhật hạ Quang, tự Trí Hải, hiệu Thiền Minh,
Đạo hiệu Trí Quang, Đại Lão Hòa Thượng Giác Linh thùy từ chứng giám.
2019/11/17 (Mộng Lệ An)
Con Nghiệp Huân Dương pd Niệm Đức đảnh lễ kính tri ân Ngài.








Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
07/02/2013(Xem: 14528)
Nửa thế kỷ Tôn Sư vắng bóng, Ánh Đạo Vàng tỏa rộng muôn phương Hôm nay tổ chức huy hoàn Hằng năm kỷ niệm, đàn tràng tôn nghiêm. Môn đồ Tứ chúng ngưỡng chiêm,
06/02/2013(Xem: 6717)
Hòa thượng Bích Liên, thế danh là Nguyễn Trọng Khải, hiệu Mai Đình (Thận Thần Thị), sinh ngày 16 tháng 3 năm Bính Tý (1876), tại làng Háo Đức, phủ An Nhơn, nay là ấp Háo Đức, xã Nhơn An, huyện An Nhơn, tỉnh Bình Định. Ngài sinh trưởng trong một gia đình nho học, được theo nghiệp bút nghiên từ nhỏ. Cha là Tú Tài Nguyễn Tự, mẹ là bà Lâm Thị Hòa Nghị . Năm 20 tuổi, Ngài lập gia đình với cô Lê Thị Hồng Kiều, người làng An Hòa, (nay thuộc xã Nhơn Khánh cùng huyện). Năm 31 tuổi, Ngài lều chõng vào trường thi Hương Bình Định và đỗ Tú Tài. Ba năm sau, Ngài lại đỗ Tú Tài lần nữa. Từ đó, biết mình long đong trên bước đường khoa bảng, Ngài giã từ lều chõng, ở nhà mở trường dạy học, mượn trăng thanh gió mát di dưỡng tính tình, lấy chén rượu câu thơ vui cùng tuế nguyệt.
03/02/2013(Xem: 5371)
Tuệ Sỹ là ai mà thơ hào sảng, hùng tâm tráng khí như thế ? Tuệ Sỹ quê Quảng Bình, sinh năm 1943, nhỏ hơn Phạm Công Thiện 2 tuổi, cũng là một bậc thiên tài xuất chúng, làu thông kinh điển Nguyên thủy, Đại thừa và nhiều thứ tiếng Anh, Pháp, Đức, Hán, Phạn, Pali. Khi mới vừa 26 tuổi đã viết Triết học về Tánh Không làm chấn động giới văn nghệ sĩ, học giả, thiện tri thức Việt Nam thời bấy giờ.
20/01/2013(Xem: 4870)
Phạm Công Thiện(1/6/1941 - 8/3/2011), là một nhà văn, triết gia, học giả, thi sĩ và cư sĩ Phật Giáo người Việt Nam với pháp danh Thích Nguyên Tánh. Tuy nhận mình là nhà thơ và phủ nhận nghề triết gia, ông vẫn được coi là một triết gia thần đồng, một hiện tượng dị thường của Sài Gòn thập niên 60 và của Việt Nam với những tư tưởng ít người hiểu và được bộc phát từ hồi còn rất trẻ. Dưới đây là bài viết của Tâm Nhiên nhân sắp đến ngày giỗ của ông.
12/01/2013(Xem: 5268)
Đã có rất nhiều sách vở, bài viết hoặc với tính chất nghiên cứu, hoặc là các bài giảng phổ cập bàn về tông Thiên Thai và kinh Pháp Hoa. Bài viết này nói đến vai trò, vị trí của Đại sư Trí Khải và tông Thiên Thai trong lịch sử Phật giáo, cũng như trong nền văn hóa tư tưởng của toàn thể nhân loại. Đại sư Trí Khải sinh năm 538, vào thời đại mà sau này các sử gia gọi là Nam Bắc triều (220-589). Sông Dương Tử được lấy làm gianh giới phân chia giữa hai miền Nam và Bắc. Trong thiền sử, ta thường nghe nói đến câu Nam Năng (Huệ Năng)-Bắc Tú (Thần Tú), để phân biệt hai dòng thiền: Đại sư Thần Tú xiển dương Thiền tiệm ngộ ngay tại Trường An; Đại sư Huệ Năng phát triển Thiền đốn ngộ tại vùng Quảng Đông và lân cận. Bấy giờ Trung Hoa bị chia thành nhiều nước nhỏ, nước này xâm lăng và thôn tính nước kia, gây nên nhiều cuộc chiến tương tàn, dân chúng sống trong cảnh lầm than đau khổ.
07/01/2013(Xem: 6099)
Phần lớn độc giả biết nhiều đến các tiểu luận và các tập thơ phản chiến, nhưng ít người biết đến những bài thơ Thiền của Nhất Hạnh. Tôi xin trích một bài được nhà xuất bản Unicorn Press xuất bản trong tâp thơ Zen Poems của Nhất Hạnh vào năm 1976 (bản dịch Anh Ngữ) của Võ Đình. Bài này được in vào tuyển tập thơ nhạc họa vào mùa Phật Đản 1964
10/12/2012(Xem: 5936)
Cả cuộc đời 86 tuổi của Ngài Đội trời đạp đất, đã tròn chưa bản nguyện Kiếp tu hành 81 năm của Ngài Gánh vác hy sinh...
09/10/2012(Xem: 9327)
Thiền sư Lê Mạnh Thátcho rằng Vua Trần Nhân Tông là một nhân vật tiêu biểu trong lịch sử Việt Nam nhất là vì tư tưởng hòa giải dân tộc của ông vẫn còn tính thời sự. Trả lời câu hỏi của BBC vì sao tư tưởng của Trần Nhân Tông (trị vì từ năm 1278-1293) và là Phật Hoàng, sáng lập ra phái thiền phái Trúc Lâm vẫn còn có tính thời sự đối với Việt Nam và cả quan hệ Mỹ - Việt cũng như Việt - Trung, Tiến sỹ Lê Mạnh Thát nói:
01/10/2012(Xem: 4995)
Kính bạch Giác Linh Đức Thầy, Dẫu biết rằng: “Cuộc đời là ảo mộng, vạn vật vốn vô thường, chuyển di không ngừng nghỉ, biến diệt lẽ tự nhiên, tử sanh không tránh khỏi.” Nhưng ân đức cao dày, tình thương nồng thắm, Đức Thầy đã ban cho hàng đệ tử chúng con, chẳng những được kết thành giới thân huệ mạng, mà còn mang lại cho cuộc đời giải thoát của chúng con vô vàn hạnh phúc… Ân đức ấy, mãi mãi khắc sâu vào cuộc đời tu học của chúng con vô cùng vững chắc, dù cho thời gian, sự vô thường có thay đổi...
22/09/2012(Xem: 5298)
Ni sư Thích Nữ Như Phụng nguyên là viện chủ chùa Long Vân , sinh tiền Ni sư là cố vấn ni chúng chùa Long Vân , làm Hóa chủ trường hạ trong 6 năm , trưởng phòng châm cứu từ thiện của chùa,thành viên mặt trận tổ quốc xã Tam Phước , trưởng bếp cơm từ thiện Bệnh viện đa khoa Long Thành. Suốt cả cuộc đời ni sư tận tụy cho sự nghiệp tu hành và hoằng dương Đạo pháp , một lòng chuyên tâm Niệm Phật A Di Đà , công quả viên mãn Ni sư an nhiên tự tại vãng sanh trong lúc đứng Niệm Phật cùng đại chúng trên Đại hùng bảo điện không gian tràn ngập hương cúng dường thanh tịnh .Sau khi làm lễ trà tì ngài để lại rất nhiều xá lợi minh chứng cho công đức tu hành tinh nghiêm của một vị cao ni.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567