Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Hoài Niệm về Đấng Minh Sư

31/03/201621:23(Xem: 5497)
Hoài Niệm về Đấng Minh Sư

hT Huyen Ton
HOÀI NIỆM VỀ ĐẤNG MINH SƯ

 

Bảo Minh Toàn

 

Thật khó mà dùng văn tự để viết về một vị Minh Sư của chúng con, vì rằng Sư Phụ là một cao tăng thạc đức, một bậc chân nhân với giới đức và trí tuệ cao thâm cùng với lòng từ bi trong đối nhân xử thế. Tuy nhiên, ở đây chúng con là những đệ tử gần gũi với Sư Phụ, đệ tử sẽ cố gắng ghi lại những cảm nhận trong lòng qua thời gian có diễm phúc được sự chỉ dạy từ nơi Sư Phụ. Trong cơ hội muôn một nầy, với những tâm tư, chúng con xin được gọi là món quà tinh thần, chúng con kính xin dâng lên Sư Phụ để mừng tuổi hạc 89 của Sư Phụ với lòng tri ân của chúng con gởi đến vị Minh Sư.  Lời kính yêu của những người con gởi đến vị cha già hòa ái, nhân từ.

 

Và có lẽ con sẽ bắt đầu với những kỷ niệm của ngày đầu tiên con được gặp một vị chân tu, mà nay là Sư Phụ của con qua “Bát mì đưa duyên”.

 

Con không nhớ được thời gian của ngày đó, con chỉ nhớ ngày ấy được tan sở làm về sớm, con được anh Nguyễn Bá Phụng (Bảo Minh Đạo) và chị Đặng Thị Kim Chi (Bảo Diệu Ngọc) rủ con ghé qua vùng Essendon, nơi ngôi già lam nhỏ, xinh xinh, nơi Sư Phụ trụ trì. Sau khi được giới thiệu qua anh chị, Sư Phụ mời chúng con vào bên trong, vừa trò chuyện, vừa hỏi thăm, Sư Phụ vừa nấu nước và sau mấy phút, một bát mì chay ăn liền được đặt trước mặt con, “Ăn đi con, tan sở giờ nầy, chắc đói bụng lắm phải không?” Con chỉ dạ một tiếng và rồi thinh lặng mà ăn cho đến lúc chào tạm biệt ra về. Con không nói được gì, vì lần đầu tiên con gặp được Sư Phụ với một hình ảnh của một bà mẹ lo miếng ăn cho con. Những lời từ hòa của Sư Phụ đã theo dòng suy nghĩ của con trên đường về.

 

Thế rồi với dòng thời gian trôi chảy, với bận bịu của công việc làm ở sở, với nhu cầu mưu tìm cho cuộc sống, con đã không tìm đến ngôi già lam nhỏ đó một thời gian.

 

Ngày được tin mẹ con khuất bóng, con về quê chịu tang mẹ, trở lại Melbourne với nỗi mất mát lớn lao trong đời con.  Một ngày nọ, có dịp đi qua vùng Sunshine, chợt nhớ đến gia đình của anh chị bạn, con ghé lại thăm, và được anh chị ấy tặng cho con một bộ CD MP3, giảng về Vi diệu Pháp do Sư Cô Tâm Tâm giảng dạy. Trong suốt gần 2 tháng liền, con nghe đi, nghe lại rất nhiều lần, hòa với tâm trạng vừa mất mẹ, sau lại mất cha, với vất vả trong cuộc sống. Và cuối cùng trong một kiếp người, còn lại gì? Con tự hỏi. Vô thường!! Và rồi một hình ảnh của vị tu sĩ với lời nói hòa ái, trong sáng, lại về trong con với hình bóng “Bát mì đưa duyên”.

 

Một ngày kia, một lần nữa, ngày Chủ Nhật, con có dịp đi đến vùng Delahey, bị lạc đường. Con điện thoại cho anh chị Phụng để hỏi đường, qua điện thoại thì được biết là anh ấy cũng đang gần nơi con bị lạc đường. Anh ấy đang ở tại Chùa Bảo Vương.  Thế là con đã tìm đến địa chỉ của chùa. Có phải là duyên đưa đẩy chăng? Và nơi nầy đã thay đổi cả cuộc đời của con, con được an lạc trong cuộc sống hơn, con được qui y Tam Bảo, con được là đệ tử của Sư Phụ.

 

Là những đệ tử của một vị Minh Sư với tài cao, đức rộng và trí tuệ xuất thế, chúng con được Sư Phụ dìu dắt, dạy bảo biết bao điều hay. Từ những Kinh điển thâm diệu của chư Phật, Sư Phụ đã tận tụy, chuyên cần giảng dạy lại cho chúng con với hoài bão giải thoát, giác ngộ là con đường tối thượng.

 

Nơi Sư Phụ, chúng con thấy được đức tính khiêm cung, cần mẫn, cẩn thận trong mọi việc làm. Điển hình như cách xếp đặt, trang nghiêm bàn thờ Phật như thế nào được chỉnh tề, cân xứng. Từ việc cắm cây hương cũng thế, phải thật thẳng đứng v.v.  Nhiều, nhiều lắm.

 

Sư Phụ cũng để lại trong chúng con với lòng vị tha, bao dung, với từ nhãn thị chúng sanh mà Sư Phụ thường nhắc nhở cho chúng con, với huynh đệ trong đạo tràng Bảo Vương, cũng như tất cả đều là thân bằng quyến thuộc từ nhiều đời, nhiều kiếp.

 

Ngoài công việc Phật sự, hằng tuần mỗi Chủ Nhật chúng con đều được Sư Phụ dạy bảo, hướng dẫn trong việc tu tập, chúng con được Sư Phụ khai mở trí huệ qua lời Phật dạy. Là một vị Tăng tài, Sư Phụ còn là một nhà sư phạm với nhiều kinh nghiệm, với những phương pháp giảng giải ngắn gọn mà gói đầy nghĩa lý. Sư Phụ có một phương pháp để lượng giá sự học tập của chúng con hết sức linh động là hỏi lại những gì mà chúng con được Sư Phụ đã dạy một cách ngẫu hứng, bất ngờ. Những lúc ấy đã làm chúng con hết sức lúng túng, có lúc chúng con trả lời được, có lúc không.  Không nhớ được thì Sư Phụ nhắc lại, nhờ vậy mà chúng con nhớ luôn mà không cần ghi chép. Thật là một vị Thầy với nhiều kinh nghiệm. Sư Phụ thường nói: “Đinh có được đóng nhiều lần thì mới đi sâu vào thân gỗ”, thì việc học cũng phải như vậy. Với những thắc mắc từ nơi chúng con, điều nào thấu rõ, thì được Sư Phụ trả lời, giảng rộng thêm để chúng con được rõ.  Điều nào chưa rõ, thì Sư Phụ bảo là để xem lại rồi trả lời sau. Thật là một đức tính khó tìm thấy ở nhiều vị Thầy khác.

 

Chúng con còn được biết Sư Phụ là một nhà Nho học uyên bác, Sư Phụ đã khởi đầu Nho học từ ấu thời. Với nguồn tích lũy thâm sâu đó, mà nay chúng con có diễm phúc là được gần gũi, được học tập nơi quyển “Từ điển sống”.

 

Vì thương đệ tử, mà có lúc Sư Phụ cũng phải nghiêm khắc, quở trách, dạy bảo chúng đệ tử mỗi khi sai quấy với lời dịu ngọt.  Sư Phụ cũng để lại trong mỗi chúng con với những trận cười nhẹ nhàng qua những chuyện dí dỏm, tươi vui trong những lần sinh hoạt. Sư Phụ còn là nhà tâm lý nữa. Chúng con cảm nhận được là hình như Sư Phụ rất hiểu chúng con. Sư Phụ đã dạy bảo nhiều điều hay cho chúng con. Nhiều, nhiều lắm.

 

Ôi, không sao nói hết được. Có đôi lúc, chúng con tự hỏi rằng: Với công lao dìu dắt, dạy bảo của Sư Phụ, ấy vậy mà đôi khi chúng con đã làm điều gì đó để Sư Phụ không vui? Chúng con cúi đầu xin sám hối.

 

Chúng con cũng biết rằng, khi còn ở quê nhà Sư Phụ còn là một giáo sư. Sư Phụ còn viết báo, dịch thuật, làm thơ nữa. Đa tài quá!! Và có lẽ vì vậy mà chúng con có nghe Sư Phụ kể lại một việc là: Sau năm 1975, vào thời điểm nào đó, con không nhớ. Có hai vị cán bộ cao cấp của cục R trong chính quyền thời đó, những vị ấy cung cấp tư liệu và với số tiền là 200,000 đồng (vào thời kỳ đó là một số tiền khá lớn) với đề nghị là Sư Phụ viết một bài nói về “Đường mòn Hồ Chí Minh”.  Sư Phụ đã không đáp ứng được lời yêu cầu của những vị ấy. Sư Phụ đứng trước vực thẳm nguy hiểm trong thời kỳ đó, nhưng Sư Phụ đã vượt qua. Sư Phụ đã không khuất phục trước bạo lực, với viễn kiến. Sư Phụ đã không thực hiện cho việc không hay - chỉ có ở những bậc trí tuệ xuất thế.

 

Một mẫu chuyện nữa: Những năm về trước, trong một buổi hội thảo về vấn đề gì đó con không nhớ được, có nhiều vị trí thức, giáo sư người Tây Phương, con được nghe Sư Phụ kể: Qua thông dịch viên, một vị giáo sư người Anh hỏi Sư Phụ: “Chúng tôi nghe trong Phật Giáo của quý vị nói nhiều về Bát Chánh Đạo. Vậy có gì là hay, xin quí vị nói?”.

 

Không trả lời trực tiếp vào câu hỏi, Sư Phụ hỏi lại vị ấy làm công việc gì? Tiền lương có đủ sống không? Có muốn được nhiều tiền hơn không?

 

Vị ấy trả lời: “Tôi từ Anh quốc đến Melbourne để dạy học, phải làm việc thêm để có đủ sống”.  Sư Phụ hỏi lại: “Vậy sao bà không đi trộm cắp để có nhiều tiền hơn?”. Theo Sư Phụ kể lại thì lúc ấy cả hội trường đều căng thẳng vì câu hỏi đó. Vị ấy hô hoán lên: “No, no!! Never, never!!”.  Sư Phụ nhẹ nhàng trả lời: “Như vậy là bà đã thực hành một trong Bát Chánh Đạo rồi đó, bà đã thực hành Chánh Mạng rồi đó”. Cả hội trường đều vỗ tay. Thật là một trí tuệ bén nhạy, với tài đối ứng.

 

Hòa cùng vận nước nổi trôi, Sư Phụ cũng đã đến được Úc Châu nầy cùng với bao nổi gian truân, nguy hiểm, với bao khó khăn của những ngày tháng đầu khi mới đến xứ lạ. Sư Phụ cũng đã góp một tay vào công cuộc gây dựng lại nề nếp sinh hoạt của Giáo Hội Phật Giáo. Chúng con cũng được biết là từ cơ sở tạm thời ban đầu với nhiều khó nhọc và phải di đổi nhiều chỗ khác nhau, từ Richmond, đến Footscray, đến Essendon, tiếp đó là Delahey, và giờ là vùng Ardeer.  Mỗi nơi, mỗi chỗ chất chồng với bao nghịch cảnh khó khăn.

 

Lúc đạo tràng Bảo Vương tọa lạc tại vùng Delahey, nhằm để nới rộng diện tích cho việc sinh hoạt được rộng rãi, thoải mái hơn, chúng con đang thực hiện công việc mở rộng diện tích – bất chợt chúng con nhìn lên, thì thấy Sư Phụ đã nhỏ lệ.  Sư Phụ khóc có phải vì thấy chúng con vất vả trong công việc dưới cái nắng của Melbourne, phải không Sư Phụ?  Chúng con xốn xang quá. Thế nhưng cũng không được yên ổn với nơi nầy. Và một lần nữa lại chuyển đến vùng Ardeer hiện giờ.

 

Chúng con đã thấy được nỗi trăn trở, nỗi khó khăn trong Sư Phụ. Khó khăn trong sự chờ đợi, trông chờ sự chấp thuận của chính quyền sở tại. Trong lần nhắc đến việc nầy, Sư Phụ một lần nữa đã rơi lệ.

 

Một vị Tăng tài, một học giả uyên bác, một nhà nho học, một dịch giả, là tác giả của nhiều bài viết trên một số báo từ trong nước trước 1975 và ở hải ngoại sau nầy. Những buổi nói chuyện trước công chúng, với giọng nói từ hòa, hoạt ngôn đã đi được vào lòng người nghe.

 

Bên sau của một Vị tài năng, đức độ như thế, Sư Phụ rất dễ xúc động. Chúng con còn nhớ, trong buổi lễ Vu Lan vào năm ngoái, qua bài nói chuyện về ngày lễ nầy, Sư Phụ kể lại lòng hiếu hạnh của Ngài Đại Hiếu Mục Kiền Liên, nhắc đến công lao của cha mẹ dành cho các con. Chúng con cảm nhận được giọng nói nghèn nghẹn trong Sư Phụ, có lẽ lúc đó đôi mắt của Sư Phụ ngấn lệ.

 

Sư Phụ còn có tài làm thơ nữa. “Tuổi Tức Từ” là tựa đề bài thơ mà con rất thích đọc. Qua bài thơ nầy, Sư Phụ đã nói lên được một hoàn cảnh đầy khó khăn, thiếu thốn của những ngày đầu khi theo bước chân Đức Phật để tìm cầu chân lý trong Đạo Phật.

 

Mở đầu bài thơ, Sư Phụ đã nói lên được hoàn cảnh côi cút ở tuổi 13, để từ đó Sư Phụ đã bỏ lại sau lưng tất cả cho cảnh đời thế tục, để bước chân vào chốn thiền môn từ tuổi Ô Sào với bao khổ cực.

 

Bài thơ hay lắm, được nhiều người thích.  Con còn nhớ trong buổi học, có dịp con được đọc lại bài thơ nầy.  Qua 4 câu đầu, đến câu “Đời con giờ cút côi…”, con đã nghẹn lời. Không, con đã khóc, con khóc vì con cũng là đứa con côi cút.

 

Người ta hay nói: “Cho dù một người có khôn lớn, trưởng thành bao lâu đi nữa, nhưng khi không còn cha mẹ bên cạnh, thì không khác gì một trẻ mồ côi”.  Thưa phải không Sư Phụ?

 

Chúng con kính chúc Sư Phụ pháp thể khinh an.

 

Nam Mô A Di Đà Phật

Melbourne, chớm Thu – 2016
Đệ tử Bảo Minh Toàn – Lương Ngọc Tốt

 

 

Ý kiến bạn đọc
01/04/201613:34
Khách
Hay lam anh Bao Minh Toan.
From United Arab Emirates.
1/4/2016.
Bao Minh Duc
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
09/04/2013(Xem: 6692)
Đại lão hòa thượng Thích Trí Nhãn thế danh là Đoàn Thảo, pháp danh Như Truyện, tự Giải Lệ, hiệu Thích Trí Nhãn. Ngài sinh ngày 10 tháng giêng năm Kỷ Dậu tức vào năm 1909 dương lịch, tại xứ Đồng Nà, tổng Phú Triêm Hạ, Xã Thanh Hà, nay thuộc thôn Đồng Nà, xã Cẩm Hà, Thị Xã Hội An.
09/04/2013(Xem: 14084)
Xuất thân trong một gia đình gia giáo có thân phụ là Chánh Tổng nên Hòa Thượng đã sớm hấp thụ Nho học và Tây học từ thuở ấu niên. Vì thế, Hòa Thượng đã thông thạo cả Hán văn lẫn Pháp văn, kết hợp và dung hòa được cả hai truyền thống văn hóa Đông – Tây.
09/04/2013(Xem: 10697)
Hòa Thượng thượng Tâm hạ Thành. Thế danh là Nguyễn Ðức Huân sinh năm 1930 tại làng Trà Bắc, Phủ Xuân Trường, Tỉnh Nam Ðịnh, Miền Bắc Việt Nam. Năm 1942 khi vừa tròn 12 tuổi, Ngài ngộ lý vô thường và xuất gia học đạo với Sư Tổ Thượng Chính Hạ Ðĩnh tại chùa Yên Cư, Phủ Xuân Trường, Thuc Sơn Môn Trà Bắc. (Sơn môn Trà Bắc, Trà Trung và Trà Ðông thuc Tổng Trà Lũ, là hậu thân của Sơn môn Yên Tử). Ngài được Bổn Sư ban Pháp danh là Ngọc Tiểu Pháp hiệu Tâm Thành.
09/04/2013(Xem: 8049)
Mỗi lần đi Huế lòng tôi lại nao nao khôn tả. Huế là đạo, là thơ, là nghĩa tình ý vị, là tinh hoa văn hóa của ba miền đất Việt, nhưng cũng là mảnh đất khô cằn của đói nghèo khốn khổ “mùa đông thiếu áo mùa hè thiếu cơm” đã hứng chịu nhiều thiên tai nhân họa. Huế được phong phú về mặt văn hóa, tâm linh là nhờ hình ảnh những vị đại lão hòa thượng nơi đây đã sống, hành đạo và xả báo thân. Dù đã viên tịch, dư hương các ngài vẫn như còn phảng phất nơi các ngôi tổ đình tĩnh lặng và những rừng thông bạt ngàn.
09/04/2013(Xem: 5925)
Giờ phút Thầy an nhiên xả báo thân, thì bên này hơn nữa đêm. Một Phật tử của Thầy ở miền Đông nước Mỹ, giọng đầm đìa nước mắt, khấp báo cho tôi tin Thầy đã từ biệt, lệ tiếc thương như tràn ngập, khắp đó khấp đây. Rồi Tuệ Sỹ, một hậu tấn, kẻ đồng tâm dễ thương của Thầy, mà tôi thường ví như một hạt kim cương hiếm hoi lẫn trong đá sỏi của Phật Giáo Việt Nam ngày nay, trong nổi cô quạnh bao la vừa sau một mất mát lớn lao đã ai tín cho tôi bằng lá thư không niêm mà tôi biết mỗi chữ cũng trĩu nặng nổi lòng.
09/04/2013(Xem: 2512)
Cho phép con thành tâm kính cẩn chia buồn với quí ngài về nỗi mất mát lớn lao không sao tìm lại được. Ðối với kẻ hậu học, làm sao con không khỏi bồi hồi, luyến tiếc khi hay tin sự ra đi của cố Hoà thượng Thích Ðức Nhuận, người đã hiến trọn đời mình cho đạo pháp và dân tộc. Trong giờ phút này, nơi phương xa, một người đệ tử đã có nhân duyên muộn hầu cận, học hỏi nơi cố Hoà thượng khi còn ở Việt Nam, xin đảnh lễ chư tôn đức trong Tổ đình và xin quí ngài cho con có đôi lời bộc bạch với giác linh của cố Hoà thượng. Ngưỡng bạch giác linh Hoà thượng chứng giám.
09/04/2013(Xem: 5497)
Hòa Thượng Thích Thiện Trì thế danh Nguyễn Văn Hiến, Pháp danh Như Phụng, Pháp tự Thiện Trì, Pháp hiệu Ấn Ðạo thuộc dòng Lâm Tế Chánh Tông đời thứ bốn mươi hai, Ngài sanh ngày 19 tháng 02 năm 1934 tại xã Nhơn Khánh, quận An Nhơn, tỉnh Bình Ðịnh. Ngài xuất thân từ một gia đình thuần túy Phật Giáo, thân phụ của Ngài là cụ ông Nguyễn Hàn, Pháp danh Như Ðà. Thân mẫu của Ngài là cụ bà Bùi Thị Thiệp, Pháp danh Như Cảnh. Ngài có tất cả 10 anh em, 5 trai và năm gái.
09/04/2013(Xem: 16600)
Để ghi lại những công –tác Hoằng-pháp và Giáo-dục trong niên-khóa vừa qua, chúng tôi đã thuyết-pháp và giảng-giải các lớp ở Ấn-Quang cho hàng Phật-Tử tại gia, cũng như tại Viện Đại Học Vạn-Hạnh cho sinh-viên Phật-khoa năm thứ IV (73-74) về môn các tác phẩm Trung-Hoa. Và cũng thể theo lời yêu cầu của đa-số Phật-tử muốn có tài-liệu để học-tập và nghiên-cứu, nên chúng tôi gom góp các bài đã biên-soạn, đúc kết thành một tập sách với nhan đề: “GƯƠNG SÁNG NGƯỜI XƯA”.
09/04/2013(Xem: 9088)
hế danh của Sư Bà cũng chính là Ðạo Hiệu hiện tại. Song Thân khó nuôi con, nên lúc 2 tuổi hai Cụ đã đem vào chùa cúng cho Sư Bà Ðàm Soạn, Trú trì chùa Cự Ðà và được Sư Cụ đặt tên là Ðàm Lựu. Phụ thân của Sư Bà là Cụ Ông Ðặng Văn Cán và Mẫu thân là Cụ Bà Nguyễn Thị Cả. Sư Bà sanh vào ngày 13 tháng 6 năm Quý Dậu, 4.811 Quốc Lịch; nhằm ngày 04 tháng 08 năm 1933 Tây lịch; tại làng Tam Xá, xã Thanh Oai, huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Ðông, Bắc Việt Nam.
09/04/2013(Xem: 4634)
Hòa Thượng Thích Như Điển, thế danh Lê Cường, Pháp tự: Giải Minh, Pháp hiệu: Trí Tâm, sinh ngày 28 tháng 6 năm 1949 tại xã Xuyên Mỹ, quận Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam, Việt Nam. Học lực: Cử nhân giáo dục và Cao học Phật giáo tại Nhật Bản. Gia cảnh: Con út trong số 8 người con gồm 5 trai và 3 gái; Thân phụ: Ông Lê Quyên, pd: Thị Tế, Thân mẫu: Bà Hồ thị Khéo, pd: Thị Sắc. Người anh thứ bảy đã xuất gia đầu Phật năm 1958 tại chùa Non Nước, Đà Nẵng. Hiện là Hòa Thượng Thích Bảo Lạc, Hội Chủ Giáo Hội PGVNTN Hải Ngoại tại UĐL-TTL, Phương Trượng Tự Viện Pháp Bảo tại Sydney, Úc Đại Lợi.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567