Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Hoa Đào năm ấy còn cười gió đông

18/03/201620:47(Xem: 6394)
Hoa Đào năm ấy còn cười gió đông

 

Hoa Anh Dao_10
HOA ĐÀO NĂM ẤY CÒN CƯỜI GIÓ ĐÔNG
[1]

(Thành kính bái biệt Thầy Thích Nhuận Châu - Chùa Liên Trì, Florida)

                                                       

THÍCH NHƯ BẢO

          

 Hôm qua, một buổi chiều nắng và gió, tôi đã đón chuyến tàu quá khứ về lại bến đỗ năm xưa, nơi đó, giữa bạt ngàn tràm xanh mây trắng, trong cái hanh hao của ngày đầu hạ, tôi gặp lại người tu sĩ trẻ vóc dáng nhỏ nhắn, áo lam, guốc mộc, tay cầm quyển sách đọc dở của Krishnamurti đang trầm ngâm tư lự giữa những hàng mai gầy guộc. Tôi tự hỏi “mùa hè và triết học? Lẽ nào đất đá Tòng Lâm chưa đủ độ khô cằn?”

Hôm qua của gần 30 năm…

Tôi nghệch ngoạc những nét cọ đơn sơ để minh họa “ông đồ già” của Vũ Đình Liên, ngẩng nhìn lên đã thấy “ông đồ” chê tranh giấy thép chật hẹp nên bước hẳn ra ngoài, còn nhăn nhó đổi kính đen thành kính trắng!

Hôm qua của 20 năm….

Chúng tôi 10 đứa ngây ngô, giả từ nắng núi gió biển, bước vào khung trời Đại học mà lòng lạc loài như nai vàng xuống phố!

Hôm qua của 10 năm….

Một sáng sương mù dày đặc, trong cái lạnh tái tê của mùa Đông xứ Ấn, tôi tình cờ gặp lại “ông đồ” xưa, không guốc mộc, không Pascal, ông đồ phải mang giày Nike chống rét và đang ngất ngư giữa rừng thư viện!

“Chị…!” Trong cái rét đến buốt xương nơi xứ lạ quê người, có ngọn lửa nhỏ rạng ngời reo vui réo rắt sưởi lòng tôi ấm áp!

Và hôm qua, ngày 9 – 3 – 2016…..

Tôi vừa hay: Bạn tôi – mười năm không gặp - đã ra đi!

             Thầy Châu!

Giờ đây, đứng lặng nhìn về núi đồi Thị Vải[2] tôi tự hỏi mặt trời chiều nay phủ phàng xô ập xuống có biết chăng núi đá kia đang chất ngất một niềm đau?!

“Ly Trần”[3] ơi, “Tịnh Liên”[4] ơi!

Có hay chăng, lần gặp đầu sau mười năm bặt im tin tức, tôi hội ngộ bạn mình – chú Bảo năm xưa – vẫn nụ cười tươi rói, vẫn đôi mắt tinh anh, vẫn thần thái ung dung, hồn nhiên trong sáng - nhưng bạn đã không còn nhận ra tôi, không còn nữa tiếng gọi mà như reo vui ngày nào! Bởi vì… bạn đang nhìn tôi qua máy tính vô hồn của trang điện tử trong bản Cáo Phó lạnh lùng!

Một vì sao rơi rụng

Dãy ngân hà chông chênh!

Bạn tôi!

Mỗi lần gặp là cười tươi hết cỡ, chưa lúc nào quên nài ép tôi uống cho bằng hết ấm trà tim sen đắng xác! Sợ bạn buồn, tôi cố uống mà lòng thầm kêu khổ! bạn lại tưởng tôi thích, cứ canh chừng cung cấp lúc nào cũng đôi ký khiến tôi cười mà như mếu!

Lần cuối cùng cũng đã tám năm, bạn nối cuộc điện thoại đường dài nửa vòng trái đất trách nhẹ: “Tìm chị còn hơn tìm Tổng Thống!” Tôi giả than thở cầu hòa: “Ôi! Xa vậy mà cũng định chế trà tim sen nữa hở? Thôi, hãi quá!” Bạn thích chí cười to….

Có lẽ vì tôi sợ trà tim sen nên làm mất điện thoại vài lần thế là lơ ngơ rơi hết số! còn bạn lại vốn là “lãn nhân”[5] nên rốt cuộc gần mười năm chúng ta bặt vô âm tín!

Bây giờ thì tốt rồi! Tôi thoải mái chẳng sợ ai ép uống trà tim sen, còn bạn thì tha hồ mà làm lãn nhân mãi mãi! Là mãi mãi đó! Vui lắm không sao lòng tôi đắng ngắt, đắng đến tận cùng như rơi xuống biển tim sen!

“Tỉnh ra một giấc chiêm bao 
Chuyện mười năm cũ lại nao nao lòng”[6]

Bạn tôi, vừa chớp mắt hôm qua thành kiếp trước!

Hết rồi những khắc khoải ưu tư, những nhọc nhằn trăn trở, những chí nguyện chưa tròn, những hoài bão dỡ dang! Hết thật rồi! một chút cũng không! Nhanh như tia chớp, như hòn đá rơi tỏm xuống mặt biển, thoáng gợn lên rồi im bặt!

Bạn tôi - sâu sắc và cá tính, nên ra đi cũng chọn cách lạ lùng, độc đáo!

Bạn tôi - suốt đời “chơi đẹp”, quân tử và nghĩa khí biết bao, duy chỉ lần này là đối với bạn bè “unfair play” quá thể!

Bạn tôi - sống khẳng khái, hiên ngang, đến ra đi cũng hết sức lẹ làng, dứt khoát!

Giữa chiều xuân

Bất ngờ cơn giông tố

Quất mạnh những làn roi

Hằn lên những cành khô trăn trở

Tan vỡ buổi trùng phùng!

Người đến và đi

Nhanh như làn gió

Lời tri ngộ hãy còn bỏ ngỏ

Nay thế bằng nhịp mõ Tâm kinh!

Hỡi ơi! Nắng tàn giữa lúc bình minh

Vàng phai sắc biếc

Đắng lòng nghe

Vũ trụ và thiên hà rơi rụng

Một dấu chấm xuống dòng.

Mộng mị chừ tan vỡ

Người về cõi vô tung!

“Đóa hoa trắng rụng bên đường
Cánh thơm thông điệp vô thường tuyết băng!”[7]

Thôi nhé!

“Hoàng Mai”[8] đã không còn nên “Hoàng Lê”[9] cũng mất dạng! “Bảo”[10] đã không thì “Châu” cũng tịch nhiên! Còn chăng chỉ “Liên Trì”[11] tịnh thủy, không sắc thinh mà thắm nhuận hàm tàng!  

Giữa đất trời lồng lộng

Thấu suốt tận lòng nhau

Lặng lẽ đến Tròn đầy!

“Trần gian chào cõi mộng này 

Sông Ngân tìm một bến ngoài hóa duyên.”[12]

Đến đi tâm thể như nhiên

Biển Tỳ-lô-tánh lặng yên tuyệt mù.

Biết đời là cõi huyễn hư
Thấy Chân Như rõ Chân Như hải hà
Đa đoan gởi lại Ta bà
Thẳng miền tự tánh Di Đà viên thông!

Vốn là thế!

Đến từ trùng khởi nhân duyên

Thỏng tay buông đã ở miền vô sanh!

“Sinh tử nhàn nhi dĩ!”[13]

 

Kính nguyện Giác linh
Thượng phẩm cao đăng
Liên Trì bất diệt!

Xin cúi đầu bái biệt!

(Đại Tòng Lâm, 10-3-2016)
 


[1]  Thôi Hộ, Đề Tích sở kiến xứ: “Đào hoa y cựu tiếu đông phong”

[2], 3 & 4   Địa danh tại vùng đất Đại Tòng Lâm

 

 

 

[5]  E-mail của Thầy Nhuận Châu: lannhan2000@yahoo.com

[6] & 7  Thơ Phạm Thiên Thư

 

[8]   Tên con đường ngày xưa tại Đại Tòng Lâm, Bà Rịa Vũng Tàu.

[9], 10 & 11 Hiệu, thế danh và trú xứ của Thầy Nhuận Châu.

 

 

[12] Thơ Phạm Thiên Thư

[13] Tuệ Trung Thượng Sĩ

Ý kiến bạn đọc
24/03/201613:34
Khách
Cám ơn đã chia sẻ, Người Tòng Lâm!
19/03/201602:51
Khách
Bài viết rất hay , biết ơn bạn rất nhiều đã chia sẽ với cuộc đời, chúc bạn luôn khoẻ!
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
02/11/2010(Xem: 6885)
Thành kính khẩn bạch đến chư Tôn Đức Tăng Già của quý Giáo Hội, quý Tự Viện, quý tổ chức Phật Giáo cùng toàn thể chư vị thiện nam tín nữ Phật tử: Đại Lão Hòa Thượng thượng Huyền, hạ Ấn, thế danh Hoàng Không Uẩn, sinh năm 1928 tại Quảng Bình, Việt Nam
01/11/2010(Xem: 733)
Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 1, Chùa Pháp Hoa (2000) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 2, Chùa Pháp Bảo (2001) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 3, Chùa Linh Sơn (2002) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 4, Tu Viện Vạn Hạnh (2003) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 5, Tu Viện Quảng Đức (2004) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 6, Chùa Phổ Quang (2005) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 7, Chùa Pháp Bảo (2006) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 8, Chùa Pháp Hoa (2007) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 9, Chùa Linh Sơn (2008) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 10, Chùa Pháp Bảo (2009) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 11, Thiền Viện Minh Quang (2010) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 12, Tu Viện Quảng Đức (2011) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 13, Tu Viện Vạn Hạnh (2012) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 14, Thiền Viện Minh Quang (2013) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 15, Tu Viện Quảng Đức (2014) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 16, Chùa Pháp Pháp Bảo (2015) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 17, Tu Viện Quảng Đức (2016) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 18, Chùa Pháp Hoa (2017) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 19, Chùa Pháp Hoa (2018)
01/11/2010(Xem: 33684)
Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 1, Chùa Pháp Hoa (2000) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 2, Chùa Pháp Bảo (2001) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 3, Chùa Linh Sơn (2002) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 4, Tu Viện Vạn Hạnh (2003) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 5, Tu Viện Quảng Đức (2004) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 6, Chùa Phổ Quang (2005) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 7, Chùa Pháp Bảo (2006) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 8, Chùa Pháp Hoa (2007) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 9, Chùa Linh Sơn (2008) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 10, Chùa Pháp Bảo (2009) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 11, Thiền Viện Minh Quang (2010) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 12, Tu Viện Quảng Đức (2011) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 13, Tu Viện Vạn Hạnh (2012) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 14, Thiền Viện Minh Quang (2013) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 15, Tu Viện Quảng Đức (2014) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 16, Chùa Pháp Pháp Bảo (2015) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 17, Tu Viện Quảng Đức (2016) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 18, Chùa Pháp Hoa (2017) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 19, Chùa Pháp Hoa (2018)
29/10/2010(Xem: 4668)
Kể từ khi vết tích của chùa Thiên Mụ được ghi lại đơn sơ trong sách Ô Châu Cận Lục vào năm 1553 (1), chùa đã tồn tại gần 450 năm cho đến ngày nay. Trải qua bao nhiêu cuộc bể dâu, chùa vẫn giữ được địa vị và vẫn đóng vai trò quan trọng trong cuộc sống đạo và đời của dân Huế, nói riêng, và của dân cả nước, nói chung. Qua đầu thế kỷ 17, chùa đã thực sự đi vào lịch sử sau khi Nguyễn Hoàng vào xứ đàng trong để gây dựng cơ nghiệp đế vương với huyền thoại “bà tiên mặc áo đỏ” (9).
23/10/2010(Xem: 4635)
Trong Cây Có Hoa Trong Đá Có Lửa Kính Dâng Hòa Thượng Thích Như Điển nhân dịp mừng thọ 70 tuổi của Ngài và kỷ niệm 40 năm khai sơn Chùa Viên Giác tại Đức Quốc Tỳ Kheo Thích Nguyên Tạng “Trong Cây Có Hoa, Trong Đá Có Lửa” là lời pháp ngữ của Thiền Sư Đạo Nguyên do Hòa Thượng Thích Như Điển nhắc lại trong thời giảng Pháp của Ngài mà tôi đã nghe được khi theo hầu Ngài trong chuyến đi Hoằng Pháp tại Hoa Kỳ năm 2006. Thiền Sư Đạo Nguyên (Dogen) là người Nhật, Ngài sinh năm 1200 và tịch năm 1253, thọ 53 tuổi. Ngài là Sáng Tổ của của Soto-Zen (Thiền Tào Động) của Nhật Bản, và là tác giả bộ sách nổi tiếng “Chánh Pháp Nhãn Tạng” “Ki no naka ni, hana ga aru (Trong cây có hoa), Ishi no naka ni, hi ga aru (Trong đá có lửa)” Đó là pháp ngữ của Thiền Sư Đạo Nguyên (Dogen), được Hòa Thượng Như Điển dịch sang lời Việt. Lời thơ quá tuyệt vời, tuy ngắn gọn nhưng dung chứa cả một kho tàng giáo lý về Nhân Duyên Quả của Đạo Phật.
23/10/2010(Xem: 4597)
Trong mười thế kỷ phong kiến Việt Nam, Trần Nhân Tông là một trong những ông vua giỏi và tài hoa bậc nhất. Lịch sử đã xem ông là “vị vua hiền” đời Trần, có công lớn trong sự nghiệp trùng hưng đất nước. Văn học sẽ nhớ mãi ông bởi những vần thơ thanh nhã, sâu sắc và không kém hào hùng.
23/10/2010(Xem: 4555)
Về sự nghiệp của vua Trần Nhân Tông, đã có rất nhiều tài liệu và bài viết về hai lần lãnh đạo quân dân nước ta đánh thắng giặc Mông - Nguyên, trị quốc an dân, đối ngoại và mở cõi, nên ở đây chúng tôi không lặp lại nữa, mà chỉ đề cập đôi nét đến nội dung khác về: Trần Nhân Tông - một hoàng đế xuất gia, một thiền sư đắc đạo và là sơ tổ lập nên dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử độc đáo của Việt Nam.
23/10/2010(Xem: 4875)
Hội Phật Học Nam Việt được thành lập vào năm 1950 tại Sài Gòn do sự vận động của cư sĩ Mai Thọ Truyền. Ban đầu, hội đặt trụ sở tại chùa Khánh Hưng, và sau đó ít lâu, tại chùa Phước Hòa. Bác sĩ Nguyễn Văn Khỏe, một cây cột trụ của hội Lưỡng Xuyên Phật Học cũ đảm nhận trách vụ hội trưởng. Ông Mai Thọ Truyền giữ trách vụ tổng thư ký. Các thiền sư Quảng Minh và Nhật Liên đã triệt để ủng hộ cho việc tổ chức hội Phật Học Nam Việt. Thiền sư Quảng Minh được bầu làm hội trưởng của hội bắt đầu từ năm 1952. Năm 1955, sau khi thiền sư Quảng Minh đi Nhật du học, ông Mai Thọ Truyền giữ chức vụ hội trưởng. Chức vụ này ông giữ cho đến năm 1973, khi ông mất. Hội Phật Học Nam Việt được thành lập do nghị định của Thủ Hiến Nam Việt ký ngày 19.9.1950. Bản tuyên cáo của hội có nói đến nguyện vọng thống nhất các đoàn thể Phật giáo trong nước. Bản tuyên cáo viết: "Đề xướng việc lập hội Phật học này. Chúng tôi còn có cái thâm ý đi đến chỗ Bắc Trung Nam sẽ bắt tay trên nguyên tắc cũng như trong hành động. Sự
23/10/2010(Xem: 4601)
Cư sĩ Mai Thọ Truyền sinh ngày 01-4-1905 tại làng Long Mỹ, tỉnh Bến Tre trong một gia đình trung lưu. Thuở nhỏ ông được theo học tại trường Sơ học Pháp - Việt Bến Tre, rồi Trung học Mỹ Tho, và Chasseloup Laubat Saigon. Năm 1924, ông thi đậu Thư ký Hành chánh và được bổ đi làm việc tại Sài Gòn, Hà Tiên, Chợ Lớn. Năm 1931, ông thi đậu Tri huyện và đã tùng sự tại Sài Gòn, Trà Vinh, Long Xuyên và Sa Đéc. Hành nhiệm ở đâu cũng tỏ ra liêm khiết, chính trực và đức độ, không xu nịnh cấp trên, hà hiếp dân chúng, nên được quý mến.
23/10/2010(Xem: 7544)
Trong lịch sử dựng nước, giữ nước và xây dựng, bảo vệ Tổ quốc của dân tộc Việt Nam, vương triều Trần (1226-1400) được tôn vinh là triều đại sáng chói nhất thể hiện qua những chiến công hiển hách thắng giặc ngoại xâm cũng như chính sách hộ quốc an dân đã tổng hợp được sức mạnh của toàn dân ta cùng với vua quan trong việc bảo vệ và phát triển đất nước vô cùng tốt đẹp.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567